11-3-2020
Trong khi cả nước đang bối rối trước tai họa rình rập của
coronavirus thì có một tai họa còn khủng khiếp hơn nhiều, một cái chết được báo
trước đang xảy ra, tuy âm thầm nhưng lừng lững tiến tới ở đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL).
Nếu được hỏi nguy cơ lớn nhất cho sự tồn vong của ĐBSCL là
gì, tôi sẽ không ngần ngại trả lời: nước, nước, nước, và nước.
Vấn đề nước đầu tiên ở ĐBSCL là ô nhiễm nguồn nước mặt – cái
giá phải trả cho việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu quá mức để duy trì lúa vụ
3 và tăng sản lượng nông nghiệp. Thêm vào đó, ô nhiễm từ hoạt động nuôi trồng
và chế biến thủy sản làm tình trạng ô nhiễm càng trở nên nghiêm trọng. Trước
đây ở đồng bằng hầu như trẻ em nào cũng biết bơi, bây giờ đến nhảy xuống sông tắm
còn không dám vì sợ ô nhiễm.
Vấn đề nước thứ hai ở ĐBSCL là việc khai thác nước ngầm quá mức,
một mặt là do nước mặt quá ô nhiễm nên không sử dụng được, mặt khác vì tình trạng
quản lý yếu kém nguồn tài nguyên “cha chung không ai khóc” này. Khai thác nước
ngầm quá mức, cùng với áp lực của các công trình xây dựng và hạ tầng, khiến nền
đất bị sụt lún nghiêm trọng, có nơi lên tới 2-3 cm mỗi năm. Nếu tình trạng này
tiếp diễn, chỉ trong 20-30 năm nữa, những nơi này sẽ tụt xuống dưới mực nước biển
(xem ảnh dự báo ở dưới).
Độ cao so với mặt nước biển của ĐBSCL theo các kịch bản khác
nhau (khai thác nước ngầm, khai thác cát, bổ sung phù sa và nước biển
dâng).
Vấn đề nước thứ ba là sự suy giảm về cả khối lượng và chất lượng
nước do mạng lưới chằng chịt hàng trăm đập thủy điện ở thượng nguồn gây ra. Thiếu
nước ở ĐBSCL – điều chúng ta đang chứng kiến mấy tuần qua – đã ngày càng trở
nên nghiêm trọng trong mùa khô. Mặc dù trong mùa mưa, các đập của Trung Quốc chỉ
chiếm khoảng 7% lượng nước trong toàn bộ hệ thống nhưng vào mùa khô, tỷ lệ này
có thể lên tới 40-50%, khiến cho lượng nước ở hạ nguồn bị phụ thuộc rất lớn vào
việc vận hành các đập của Trung Quốc. Bên cạnh đó, một lượng lớn phù sa và cát
bị kìm giữ bởi các đập thượng nguồn – ước lượng hiện nay đã lên tới 50% – cũng
làm ĐBSCL mất đi nguyên liệu để bồi đắp cho đồng bằng. Điều này cùng với nạn
khai thác cát bừa bãi và vô độ trong nhiều năm khiến tình trạng mất đất và sạt
lở ven biển trở nên hết sức trầm trọng.
Vấn đề nước thứ tư là mực nước biển dâng và nhập mặn do biến
đổi khí hậu. Hiện nay, mỗi năm nước biển dâng trung bình khoảng 3 – 4 mm. Như vậy,
mặc dù không phủ nhận tầm quan trọng của hiện tượng này, song cần nhớ là mức sụt
lún do khai thác nước ngầm quá mức và do các công trình xây dựng và hạ tầng gây
ra có thể còn cao hơn tới 10 lần. Hơn nữa, việc nhập mặn tuy bất lợi cho lúa
nhưng lại có lợi cho tôm, cá và các hoạt động nuôi trồng thủy sản khác vốn đem
lại lợi ích kinh tế cao hơn nhiều lần so với canh tác lúa 3 vụ, trong khi không
gây biến đổi và tác hại môi trường.
ĐBSCL – nơi cư ngụ của hơn 20 triệu người Việt Nam – đang chết
dần chết mòn. Nguyên nhân chính không phải vì biến đổi khí hậu hay do các con đập
thượng nguồn, mà vì sự hội tụ và tích tụ của nhiều bất cập chính sách và tập
quán nông nghiệp trong suốt qua ba thập kỷ gần đây. Nếu không đảo ngược tình trạng
này, viễn cảnh tan rã của ĐBSCL chỉ còn là vấn đề thời gian.
Bạn đã bao giờ thử hình dung khi ấy đất nước Việt Nam sẽ như
thế nào và con cháu chúng ta sẽ sống còn thế nào không?
.
No comments:
Post a Comment