Sunday, July 31, 2022

NHỮNG VẾT CẮT NHỎ LÀM CHẢY MÁU HỒ TONLE SAP CỦA CAMBODIA

 (The small cuts bleeding Cambodia’s Tonle Sap Lake)

Andreas Von Bubnoff – Bình Yên Đông lược dịch

Southeast Asia Globe – July 26, 2022

 

Không có thuyền ở đâu hết.  Nơi cu trú của cá ở Phat Sanday trong hồ Tonle Sap

trong tháng 3 năm 2020.

 

Thay đổi khí hậu, xây cất đập và khai thác cát gây nguy hiểm cho sự sống còn của một trong những hồ phong phú nhất trên Trái đất

Quốc lộ 52 ở Cambodia chấm dứt ở Chnok Tru ở cuối phía nam của hồ Tonle Sap.  Làng là điểm chuyển giao chánh cho cá và rau cải.  Trong một ngày bình thường, các thuyền đầy mặt hồ và người dân mang những rổ nhựa lớn lên bờ.

Trong mùa khô, một trụ bê tông bên lề đường cho thấy sự khác biệt của vùng chỉ vài tháng sau trong mùa mưa.  Vào khoảng 4 m (13 feet), trụ màu tái nhạt, cho biết chiều cao của nước dâng lên.

Hầu hết nước đó đến từ hồ Tonle Sap qua sông Tonle Sap, lấy nước từ sông Mekong ở Phnom Penh trong mùa mưa hàng năm.  Điều trái ngược xảy ra trong mùa khô khi sông Tonle Sap thoát nước cho hồ cùng tên và mang nước trở lại sông Mekong.

Kết quả là mỗi mùa mưa, hồ Tonle Sap lớn hơn 5 đến 6 lần đến 15.000 km2 (5.791 mi2), với chiều dài gần gấp đôi đến 220 km (136 mi) và chiều sâu gia tăng từ 1 m (3 feet) đến trên 9 m (29 feet).

Trên ảnh vệ tinh, chu kỳ nầy giống như nhịp đập của quả tim nước nối với Mekong như thủy lộ chánh.  Quả tim đã đập hàng ngàn năm với sự bình thường cho phép người dân thích ứng với lũ lụt bằng cách sống trong nhà sàn hay nhà nổi.

 

Trong hình vệ tinh theo thời gian, hồ Tonle Sap (phía trên bên trái) giống như trái tim nước được làm đầy mỗi năm trong mùa mưa với nước từ sông Mekong (phía trên bên phải).   

Hình được chụp trong mùa khô và mưa mỗi năm, theo thứ tự.

 XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP

THU NHẬP CỦA NÔNG DÂN KHÔ CẠN TRÊN HỒ KHỔNG LỒ Ở CAMBODIA

 (Incomes dry up for farmers on Cambodia’s huge lake)

Sao Phal Nisely – Bình Yên Đông lược dịch

Mekong Eye – 25 July 2022

Khan hiếm nước, đất suy thoái và chi phí hóa chất gia tăng cộng thêm khó khăn trên hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á.

 

PHNOM PENH – Đời sống chưa bao giờ dễ dàng đối với nông dân dọc theo hồ Tonle Sap của Cambodia – hồ nước ngọt lớn nhất ở Đông Nam Á (ĐNA) – và nay khan hiếm nước, suy thoái đất và giá cả hóa chất gia tăng cộng thêm vào khó khăn của họ.

“Mỗi mùa, những vấn đề thách thức nhất mà nông dân chúng tôi thường đối mặt là thiếu tài chánh và nước,” Reth Pheach, 50 tuổi, có đất trong xã Sa Kream trong tỉnh Kampong Thom.

Ngồi dưới ngôi nhà gỗ xác xơ cách hồ Tonle Sap khoảng 80 km, ông nói thêm: “Trong quá khứ, chúng tôi không có khan hiếm nước.  Chúng tôi hiếm có hạn hán, nhưng nay thời tiết đã trở nên không thể đoán trước.  Tôi không biết tại sao nó xảy ra.”

Đối với Pheach, độ phì nhiêu của đất giảm được xem như một tiến trình tự nhiên và trả lời duy nhất của ông là dùng thêm hóa chất nếu ông muốn canh tác.  Gia tăng việc dùng hóa chất là cách duy nhất để duy trì năng suất.

 

Nông dân Reth Pheach ngồi trước ngôi nhà gỗ trong xã Sakream, huyện Balang, tỉnh Kampong Thom.   

Khan hiếm nước và thời tiết không thể đoán trước đã buộc ông lệ thuộc nặng nề vào hóa chất. [Ảnh: Sem Vanna]

 

Nằm gần Siem Reap và khu đền đài nổi tiếng chung quanh Angkor Wat, hồ Tonle Sap dài 250 km và rộng 100 km ở điểm rộng nhất.  Nó là một trong những hệ sinh thái đa dạng và phong phú nhất trên thế giới, khiến UNESCO liệt kê vào Khu Bảo tồn Sinh quyển trong năm 1997.

Hồ khổng lồ điều hành cái được gọi là hệ thống nhịp lũ, trong đó hồ nhận nước từ sông Tonle Sap – một trong các sông trên thế giới đảo ngược dòng chảy mỗi năm.

Trong 6 tháng mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4, mực nước sông Mekong hạ thấp và nước từ hồ Tonle Sap chảy trở xuống sông Tonel Sap và trở ra Mekong.

Khi sông Mekong phình ra với nước mưa mùa, nó đẩy nước vào sông Tonle Sap đến hồ làm nó nới rộng 6 lần kích thước.

Nhưng thay đổi khí hậu cùng với các yếu tố khác, gồm có các đập thủy điện mới dọc theo sông Mekong, đã khiến cho mực nước ở trong hồ thấp hơn.  Từ năm 2008, mực nước thấp hơn mức trung bình lịch sử, theo một phúc trình của Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)).

Những thay đổi nầy có nghĩa là nông dân phải gánh chịu năng suất đất giảm, khiến họ phải dựa vào hóa chất để duy trì năng suất với chi phí thêm vào khó khăn của họ.  Thủy nông không đủ cộng thêm vấn đề cho nông dân.

Kém màu mỡ

Abby Seiff, một phóng viên Mỹ làm việc cho The Cambodia DailyThe Phnom Penh Post và là tác giả của quyển sách Trounbling the Water: A Dying Lake and a Vanishing World in Cambodia (Bận tâm Nước: Một hồ đang Chết và mộ Thế giới đang Biến mất ở Cambodia), đồng ý rằng hồ nước ngọt lớn nhất và quan trọng nhất ở ĐNA có vấn đề.

Nó bị đe dọa sống còn gồm có mất mát đáng kể rừng ngập nước, thay đổi thủy học cũng như từ khủng hoảng khí hậu, cô nói.

Cô ghi nhận rằng thay đổi trong thủy học – thay đổi trong cách nước di chuyển trong và ngoài hồ - đã ảnh hưởng không chỉ sinh thái của hồ mà còn đất canh tác ở chung quanh.

“Trong mùa mưa, toàn thể đồng lụt chung quang hồ bị ngập nước – không chỉ với nước nhưng với phù sa giàu chất dinh dưỡng, rất quan trọng cho ruộng lúa,” cô nói.

“Vì thế, thủy học thay đổi không chỉ ảnh hưởng thủy sản của hồ, mà còn ảnh hưởng nông nghiệp chung quanh hồ.”

Leng Vira, một viên chức kỹ thuật và nhà nghiên cứu ở Nha Quản lý Tài nguyên Đất Nông nghiệp (DALRM) ở Tông Nha Nông nghiệp (GDA), nói các yếu tố gây ra sạt lở đất canh tác dọc theo hồ rất phức tạp.

Hệ sinh thái nông nghiệp rất mong manh vì nhiều yếu tố.  Việc mất rừng để làm thêm đất canh tác, độc canh nông nghiệp. và thiếu quản lý về cách sử dụng đất nói chung và các dự án phát triển lớn của con người, tất cả góp một phần vào việc biến đổi một trong những hệ sinh thái phong phú nhất thế giới.

“Rừng trong vùng đã bị đốn và biến thành đất nông nghiệp.  Không có rừng, sạt lở đất có thể xảy ra dễ dàng.  Và nếu chúng ta nhìn váo rừng ngập nước, chúng cũng bị hủy hoại,” Vira nói.

“Điều đó buộc nông dân phải gia tăng sử dụng hóa chất từ năm nầy sang năm khác.  Nếu họ không dùng, họ không thể thu hoạch.”

Nông dân bị đánh bởi giá cả hóa chất gia tăng

Ngay cả với khối nước và mưa trong hồ được xem là bình thường trong năm nay, có nghĩa nước không phải là vấn đề, giá cả tăng vọt của phân bón đã làm cho đời sống thêm khó khăn cho nông dân.

Pheach nói ông thường chi hầu hết 1 triệu riel – khoảng 250 USD – cho hóa chất một năm để giữ cho lúa và rau cải của ông lớn.  Tuy nhiên, năm nay ông chi gần gấp đôi cho cùng số lượng hóa chất.

Ông cần khoảng 350 kg phân bón cho 2 hectares ruộng lúa và 200 kg khác cho đồn điền rau cải 1 hectare.

“Đến 550 kg [hóa chất] tổng cộng cần đến mỗi mùa và điều nầy không bao gồm thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ,” ông nói, thêm rằng sử dụng hóa chất đã trở thành một thói quen vì đất đã suy thoái quá nhiều.

Người cha của 3 đứa con nói canh tác là thu nhập duy nhất của gia đình và năng suất giảm khi ông cắt bớt hóa chất.

“Tuy nhiên, tôi lo ngại là giá hóa chất tiếp tục tăng, Tôi đang chi từ 80.000 riel [20 USD] và 90.000 riel [22,50 USD] mỗi 50 kg hóa chất trước đây,” ông nói.  “Nay giá cả đã tăng lên từ 130.000 riel [32,50 USD] và 150.000 riel [37,50 USD] hay cao hơn.”

Red Than, 37 tuổi, ở xã Pongsat trong tỉnh Siem Reap cũng chật vật để giữ cho việc canh tác tiến triễn khi đất của cô suy thoái.  Cô sản xuất 5 tấn lúa mỗi năm, nhưng giá cả hóa chất gia tăng đã buộc cố chi nhiều hơn để đối phó với chi phí sản xuất gia tăng.

“Năm ngoái, tôi chi khoảng 1 triệu riel [250 USD] cho hóa chất, gồm có thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón, cho 2 hectares đất – điều nầy không kể chi phí mướn máy móc,” Than nói, thêm rằng giá xăng dầu gia tăng khiến việc điều hành máy móc tốn kém hơn.

“Rất khó khăn.  Tôi cần phải chi gấp đôi để duy trì sản lượng tương đương và chúng tôi không thể làm nếu không có phân bón.  Nếu chúng tôi không canh tác, chúng tôi không có gì để ăn,” cô nói.

Red Than, một nông dân ở xã Pongsat trong tỉnh Siem Reap, nghỉ ngơi trước ruộng dưa. 

[Ảnh: Sem Vanna]

 

Theo Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản, Cambodia nhập cảng 103.000 tấn thuốc trừ sâu và 1.406.775 tấn phân bón nông nghiệp trong năm 2020 – hầu hết từ Việt Nam và Thái Lan.

Chi phí nhập cảng là 209,51 triệu USD, theo kho dữ kiện COMTRADE của Liên Hiệp Quốc về mậu dịch quốc tế.

Nợ nần của nông dân gia tăng

Pheach và Than chật vật để duy trì đồng ruộng của họ như các nông dân khác ở chung quanh hồ Tonle Sap, gồm có 9 tỉnh và là nơi cư trú của khoảng 4,8 triệu người.

Giá cả gia tăng của hóa chất nông nghiệp – nhất là vì Cambodia tương đối thiếu sản phẩm nội địa cũng như gián đoạn trong dây chuyền sản xuất và Nga xâm chiếm Ukraine – có nghĩa nông dân cần phải chi thêm tiền.

Điều nầy đưa họ vào một chu kỳ nợ nần hầu như không thể thoát vì họ phải vay các món nợ tài chánh vi mô hay mượn từ những người cho vay tư nhân để canh tác.

Pheach nói nông dân chỉ có sự lựa chọn là vay nợ vào đầu mùa và trả lại khi họ hoàn tất thu hoạch.

Ba hectares của ông có thể sản xuất đến 8 tấn lúa, nhưng ông giữ lại 3 tấn để ăn, bán phần còn lại để trả nợ.

“Khi mùa mới đến, chúng tôi làm tương tự.  Nó giống như một chu kỳ,” Pheach nói.

“Đó là lý do tại sao một số người nói canh tác giống như tự đẩy mình vào nợ nần.  Nam nay, tôi không biết bao nhiêu phân bón phải dùng vì tôi không có tiền.  Nhưng nếu chúng tôi không làm, làm sao chúng tôi có thể sống còn?”

Trả nợ luôn luôn khò, Pheach nói, với nhiều nông dân không thể giữ thời biểu trả nợ.

Trong tỉnh Siem Reap, Than có cùng lo ngại, lưu ý rằng giá cả gia tăng của thuốc trừ sâu và các hóa chất khác khiến không thể có lợi nhuận.

“Bất kể tốn kém bao nhiêu, chúng tôi vẫn phải mua hóa chất.  Tôi lo ngại rằng chúng tôi sẽ đối mặt với khó khăn trả lại nợ vì chúng tôi chỉ hưởng một phần nhỏ từ canh tác từ năm nầy sang năm khác,” Than nói.

Trong suốt đại dịch Covid-19, nông dân Canbodia đối mặt với thị trường sụt giảm với việc buôn bán giảm trên toàn quốc.  Nhiều nông dân chìm sâu vào nợ nần trong những năm gần đây, theo Theng Savoeun, chủ tịch của Hiệp hội Cộng đồng Nông dân Cambodia (CCFC).

“Các khảo sát và thảo luận nội bộ của chúng tôi cho thấy rằng nợ của nông dân đã gia tăng.  Họ không chỉ mượn tài chánh để canh tác mà còn để chi tiêu hàng ngày.  Điều nầy gây khó khăn để trả lại và họ luôn mắc nợ,” Savoeun nói, thêm rằng khảo sát vẽ một hình ảnh rộng lớn của thành phần nông nghiệp Cambodia.

“Và nay giá cả xăng dầu và phân bón đang tăng không chấm dứt,” ông nói thêm.

Như một thí dụ, ông nói 1 kg lúa có thể bán với giá 1.000 riel (0,25 USD), có nghĩa là một nông dân cần bán 5 kg lúa để mua 1 l xăng.

“Nếu không có giải pháp, một số nông dân có thể bỏ canh tác và chuyển sang các nghề khác họ hy vọng sẽ giúp họ được lợi nhuận nhiều hơn.  Nhưng chiều hướng nầy sẽ là một lo ngại lớn khác,” ông nói.

Một thửa đất canh tác trong huyện Sotr Nikum, tỉnh Siem Reap. [Ảnh: Sem Vanna]

 

Điểm tan vỡ

Theo hiệp hội, có đến 90% nông dân mượn tiền từ ngân hàng hay các công ty tài chánh vi mô để canh tác.  Trong khi chi phí sản xuất gia tăng buộc họ phải mượn thêm, ảnh hưởng của Covid-19 đẩy các nông dân chật vật đến điểm tan vỡ với nợ nần.

May thay, thay vì dựa hoàn toàn vào nợ từ các tổ chức tài chánh vi mô hay ngân hàng, nông dân như Than và Pheach có thể vay nhanh từ các nhóm tiết kiệm của nông dân trong cộng đồng của họ.

“Tôi có thể đi vay nợ ngày hay đêm.  Nó dễ hơn, không như ngân hàng hay công ty tài chánh vi mô thường đòi hỏi chúng tôi phải có đất hay thế chân,” Pheach nói, thêm rằng nhóm tiết kiệm gồm có các nông dân trong các cộng đồng lân cận.

Nhưng mặc dù sáng kiến nầy giúp họ mượn đủ để đối phó với nhu cầu canh tác theo mùa, số tiền có thể được mượn bị giới hạn.  Đề mua lớn hơn, nhiều nông dân vẫn dựa vào nhà hay đất canh tác như thế chân để vay nợ từ các tổ chức tài chánh vi mô hay ngân hàng.

Mặc dù nhanh và dễ tiếp cận, lãi suất vẫn cao như ngân hàng và các tổ chức tài chánh vi mô, với nông dân trả đến 7% lãi suất.  Thực tế là những nhóm tiết kiệm tập thể nầy không thể làm gì nhiều để phá vỡ chu kỳ nợ nần.

Sok Voeurn, chủ tịch của Hiệp hội Tài chánh Vi mô Cambodia (CMA), trích dẫn một phúc trình năm 2021 của Ngân hàng Quốc gia Cambodia nói rằng cho vay tài chánh vi mô cho nông nghiệp gia tăng đáng kể, chiếm đến 19% tổng số nợ được đưa vào kinh tế của Cambodia.

“Trong 5 năm qua, con số nợ cho canh tác gia tăng từ 1,099 tỉ đến 1,598 tỉ USD, Voeun nói, lưu ý rằng trong đại dịch, số nợ nông nghiệp gia tăng 11% trong năm 2020 và đến 21% trong năm 2021.

Voeurn nói không có tin tức về rủi ro không thể trả nợ của nông dân, nhưng nói tình hình đã cải thiện với rủi ro nợ nần ở khoảng 1,7%.

Đối với Savoeun của CCFC, cần phải can thiệp để giúp nông dân đã quá hạn từ lâu.

“Chánh phủ nên can thiệp ngay để bảo đảm rằng các nông dân tiểu qui mô có thể vay nợ với lãi suất thấp để canh tác.  Và điều nầy cũng cần áp dụng cho một số vật liện canh tác quan trọng.  Làm thế không những giúp cho nông dân mà còn cho người tiêu thụ,” ông nói.

Chủ tịch của hiệp hội nông dân thúc giục chánh phủ làm việc trên các giải pháp lâu dài gồm có cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân và hình thành các chánh sách tốt để thu nhận ý kiến của nông dân.

“Nông dân nên được phép bày tỏ tiếng nói và lo ngại của họ và nên được thu nhận như ý kiến cho chánh sách,” Savoeun nói.

Voeurn của CMA nói hiệp hội của ông cũng đã theo dõi tiến triển trong thành phần nông nghiệp.

Ông nói hiệp hội của ông đã hợp tác với các bên liên hệ khác trong thành phần nông nghiệp để cung cấp cho nông dân về kiến thức tài chánh và để bảo đảm dịch vụ cho vay có trách nhiệm và khả chấp.

LO NGẠI AN NINH NƯỚC ASEAN: CHÚ TRỌNG ĐẾN SÔNG MEKONG

 (Asean water security concerns: Focus on the Mekong River)

Amado Tolentino Jr. – Bình Yên Đông lược dịch

The Manila Times – July 23, 2022

 

Nước, nước ở khắp nơi, nhưng không có 1 giọt để uống

 Xung đột về nước rất lâu đời.  Theo Viện Thái Bình Dương ở Hoa Kỳ chuyên về chánh sách nước, xung đột nước có vẻ xảy ra lần đầu tiên 4.500 năm về trước khi vua Urlama chuyển nước qua các kinh đào để lấy đi nước của kẻ thù.  Gần đây hơn, thay đổi khí hậu và khan hiếm nước gây ra hạn hán từ năm 2006 đến 2011 và hậu quả của thất mùa khuyến khích bất mãn đưa đến nội chiến ở Syria.  Trong số những cái được nhắm đến là nguồn nước gồm có, cùng với những thứ khác, tấn công vào các nhà máy lọc nước ở Aleppo và tấn công vào các hệ thống nước địa phương ở Iraq.

Viện Thái Bình Dương thường xuyên cập nhật các phúc trình xung đột nước theo thời gian nhận thấy rằng trong 19 năm qua, có trên 70 vụ, hàng chục gây chết người, phần lớn ở Trung Đông và Phi Châu.  Trong những năm gần đây hơn, nhiều cuộc xung đột trong đó người dân bị giết vì nước xảy ra ở Ấn Độ.  Nó xảy ra trong khi chống đối đập và kinh đào và một số là tranh chấp giữa nông dân và người chăn nuôi.  Cũng có những trường hợp khi các băng đảng loan báo họ sẽ giết người ngoại trừ nước được mang đến cho họ mỗi ngày.  Một dạng của “thuế nước”.

Xung đột đối với quyền sử dụng nước

Trong quá khứ, xung đột quân sự đối với quyền sử dụng nước là một vấn đề an ninh quốc gia chết người giữa và trong số các quốc gia.  Ethiopa và Egypt đối với sông Nile; Botswana và Namibia đối với Okavango; Israel, Palestine và Jordan đối với sông Jordan; chỉ nêu một số.

Nước từ các sông trong các quốc gia đó xuyên biên giới chánh trị với những vấn đề biên giới đi kèm.  Tình hình tạo nên một sự lệ thuộc tự nhiên giữa các quốc gia cùng chia sẻ nguồn nước, thu hút người dân làm việc cùng nhau về khía cạnh có sẵn của nước ngay cả khi các quốc gia chánh thức ở trong chiến tranh.

Có lẽ, các cuộc chiến tranh nước được ngăn chận trong những lúc đó vì nhận thức thay đổi của chủ quyền thường trực đối với tài nguyên thiên nhiên được ưa chuộng hơn chủ quyền hành động, hay việc sử dụng công bằng của tài nguyên chung xuyên biên giới.  Nhưng trong ánh sáng của môi trường an ninh và chánh trị thay đổi gần đây, có thể nào thương thảo hòa bình đối với các vấn đề nước vẫn giữ vững trong thời gian lâu hơn?

Xung đột nước đang ấp ủ trong ASEAN

Ở điểm nầy, một tình hình có thể được dẫn chứng trong khu vực ASEAN liên quan đến các cuộc xung đột về nước có thể có là sông Mekong vĩ đại.

Trung Hoa ngăn đập nguồn nước của sông Mekong châm ngòi cho lo ngại nghiêm trọng giữa các quốc gia ASEAN ở hạ lưu, là Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam.

Trong năm 1995, một Thỏa ước về Hợp tác Phát triển Khả chấp Lưu vực sông Mekong được ký kết bởi 4 quốc gia duyên hà ASEAN – Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam.  Thỏa ước nhấn mạnh đến phát triển hỗn hợp, bảo vệ sinh thái và tiến trình năng động để phân phối nước.  Trung Hoa và Myanmar chưa ký vào thỏa ước nhưng được chỉ định là “đối tác đối thoại” ASEAN và tham dự vào các hoạt động liên quan đến sông Mekong.  Cơ chế tổ chức để bảo đảm hợp tác trong lưu vực sông Mekong là Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)), một cơ quan quốc tế.

Gần như cùng lúc, với các nỗ lực phát triển khả chấp của Lưu vực sông Mekong, Trung Hoa đang xây cất đập Three Gorges (Tam Hiệp) nổi tiếng trong tỉnh Hubei (Hồ Bắc).  Sau nhiều năm xây cất theo sau bởi sự e sợ rằng phần thượng lưu của sông Mekong sẽ thay đổi đáng kể chế độ dòng chảy ở hạ lưu, viêc điều hành các đập khổng lồ cho thấy trong năm 2019 rằng mực nước trong con sông dài 4.800 km hạ xuống đến mức thấp nhất trong hơn 100 năm.  Điều nầy xảy ra mặc dù sự kiện rằng gió mùa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9.

NGOs (các tổ chức phi chánh phủ) chống đối thêm các đập do Trung Hoa  hậu thuẫn trong Mekong, mà họ cho là gây ra hạn hán cực đoan và thường xuyên cho các quốc gia ở hạ lưu khi các viên chức chánh phủ trong các quốc gia bị ảnh hưởng chú trọng đến mậu dịch và đầu tư từ Trung Hoa.  Đặc biệt, NGOs tố cáo Trung Hoa thiếu minh bạch trong chách sách quản lý nước.

Trong cơn lốc của vấn đề là điều khoản của Trung Hoa về dữ kiện thích hợp và chấp nhận được đối với các quốc gia duyên hà Mekong để họ có thể đánh giá chính xác ảnh hưởng của các đập đối với dòng chảy.  Thật sự, nó mang đến trước sự lệ thuộc mới của các quốc gia ở hạ lưu đối với thiện chí của Trung Hoa và, cùng lúc, làm nổi bất “đường lối phát triển” của Trung Hoa đối với các xung đột nước Mekong.

Nên nhớ rằng việc xây cất đập của Trung Hoa để chuyển nước cho việc sử dụng của mình để thu hoạch năng lượng và mở thêm các vùng nông nghiệp để đạt được an ninh lương thực cho dân số của mình trước khi phát động Sáng kiến Vành đai và Con đường trong năm 2013,  Có lẽ, có thể tóm tắt rằng thay đổi trong chánh sách nước xuyên biên giới của Trung Hoa trong khu vực Mekong là điểm then chốt của việc mở cửa vào Đông Nam Á (ĐNA).

Hợp tác nước được nghe trong cơ chế Hợp tác Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)) – sông Mekong được gọi là Lancang ở Trung Hoa.  Trung Hoa nói họ có ý định biến hợp tác nguồn nước vào sự hợp tác hàng đầu qua LMC.

Mặc dù có những nỗ lực trong nhiều dự án hợp tác giữa Trung Hoa và mỗi quốc gia Mekong, năm 2019 đánh dấu hiện thực rằng ”đường lối phát triển” của Trung Hoa tạo nên cơ hội và rủi ro.

Chú ý sau cùng là về việc cai quản thủy điện ganh đua trong lưu vực sông Mekong, ám chỉ đến các đập thủy điện do chánh phủ Lào đề nghị trên dòng chánh sông Mekong.  Mặc dù tiến trình mở ra không gian cho việc xem xét tỉ mỉ của quốc tế đối với các dự án được đề nghị nầy, nó cũng bị chỉ trích bởi xã hội dân sự như “đóng dấu” cho các đập sẽ có ảnh hưởng xuyên biên giới đối với sinh kế và an ninh lương thực của hàng triệu người sống trên toàn hạ lưu vực Mekong.

May mắn thay, Quy ước Liên Hiệp Quốc về Luật Sử dụng Không Thủy vận các Thủy đạo Quốc tế nay có hiệu quả (Việt Nam phê chuẩn nó trong năm 2014 và là quốc gia Mekong duy nhất làm như thế).  Hiện nay, nó là nguồn then chốt của luật quốc tế cai quản việc sử dụng các sông nước ngọt xuyên biên giới.  Nó ra dấu cho các quốc gia tầm quan trọng của các nguyên tắc luật nước quốc tế và tầm quan trọng để tôn trọng chúng.  Nó được phát triển với ý định rõ ràng để hỗ trợ các hiệp ước khác như Thỏa ước 1995 về Hợp tác Phát triển Khả chấp Lưu vực sông Mekong và có nhiệm vụ như một khuôn mẫu và điền vào chỗ trống ở nơi nào thiếu.

Đủ nước cho mọi người

Lâu đời và đáng tin cậy, National Geographic, xác nhận rằng trên lý thuyết, có đủ nước trên thế giới cho mọi người nhưng “như dầu hay kim cương, nó không được phân phối một cách dân chủ.”  Canada, Russia, Brazil, Peru và Columbia có rất nhiều đến giai điệu 49% của nước trên Trái đất.  Hoa Kỳ có một số lượng kha khá.  Ấn Độ và Trung Hoa, với 1/3 dân số của thế giới, có dưới 1/10 số nước ngọt và họ dùng nhanh hơn mưa hay nước ngầm có thể làm đầy.

Để nghĩ rằng gần hết tất cả nước trên trái đất thì mặn, dưới 3% là ngọt. 2/3 số nước ngọt chúng ta có bị đông đặc trong các vùng lạnh của trái đất như nước đá hay đất đông đá, chỉ còn dưới 1% của nước trên thế giới cho tất cả sinh vật.

Khó khăn liên hệ đến nước đơn giản nhất để kêu gọi là đói và khát.  ½ gallon nước uống là cái một người cần uống để sống.  Một khảo sát trong năm 2015 của các thành viên Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos liệt kê “khủng hoảng nước” lần đầu tiên như đe dọa hàng đầu của thế giới trước khi “lan tràn bệnh truyền nhiễm” và “vũ khí hủy diệt tập thể.”  Đáng kể ớn lạnh khi chúng ta trải qua đại dịch Covid.

Năm năm trước đây, Đức Giáo hoàng Francis, nói chuyện ở Viện Khoa học Giáo hoàng, tự hỏi “nếu chúng ta không trên đường đến chiến tranh thế giới lớn đối với nước?”

Cứu xét sự hữu dụng kinh khủng của nước được mô tả ở trên và các cuộc xung đột có thể đối với nước ở những nơi khác của thế giới (thí dụ, đập Renaissance trên sông Nile ở Ethiopa liên quan đến Egypt nay có cảm nhận như ở thiện chí của láng giềng Sudan và Ethiopa), liệu nước cuối cùng sẽ gây chiến tranh hay sẽ được dùng như vũ khí của chiến tranh?

.