Monday, April 25, 2022

ĐẬP TRÊN PHỤ LƯU MEKONG GÓP PHẦN ĐÁNG KỂ VÀO SỰ THAY ĐỔI THỦY HỌC CỦA ĐỒNG LỤT TONLE SAP Ở CAMBODIA

(Dams on Mekong tributaries as significant contributors of hydrological alterations to the Tonle Sap Floodplain in Cambodia)

 

M.E. Arias, T. Piman, H. Lauri, T.A. Cochrane, and M. Kummu – Bình Yên Đông lược dịch

Hydrology and Earth System Sciences – 18 December 2014

 

Đập Yaly trên sông Sesan ở Việt Nam. [Ảnh: yeudulich]

 

Tóm lược

Các phụ lưu sông đóng một vai trò then chốt trong chức năng sinh vật lý của lưu vực Mekong.  Được quan tâm nhiều nhất là các sông Sesan, Srepok và Sekong (3S), đóng góp gần ¼ tổng số lưu lượng của Mekong.  40 đập được đề nghị trong 3S, và khi hoàn tất chúng sẽ vượt quá dung tích hoạt động của chuỗi đập lớn của Trung Hoa trên thượng lưu Mekong.  Với sự gần gũi của chúng với các đồng lụt ở hạ lưu Mekong, các đập 3S có thể thay đổi thủy học nhịp lũ thúc đẩy năng suất của các hệ sinh thái ở hạ lưu.  Do đó, mục đích chánh của nghiên cứu nầy là định lượng làm thế nào việc phát triển thủy điện trong 3S, cùng với các kế hoạch phát triển hạ tầng cơ sở trên khắp lưu vực trong tương lai chắc chắn (definite future (DF)), sẽ thay đổi thủy học của đồng lụt Tonle Sap, đất ngập nước lớn nhất ở Mekong và nơi cư trú của một trong những nền thủy sản nội địa phong phú nhất trên thế giới.  Chúng tôi kết hợp kết quả của 4 mô hình toán đại diện cho thủy học nước mặt của lưu vực, phát triển nguồn nước, và thủy động học của đồng lụt.  Qui mô của những thay đổi do thủy điện gây ra trong 3S được so sánh với tình huống DF của lưu vực được thúc đẩy bởi chuỗi đập Mekong ở thượng lưu.  Tình huống DF hay phát triển 3S có thể làm tăng một cách độc lập mực nước tối thiểu 30-ngày của Tonle Sap đến 30±5 cm và làm giảm vận tốc hạ thấp của mực nước hàng năm đến 0,30±0,05 cm/ngày.  Khi phân tích với nhau (DF+3S), những tình huống nầy hầu như loại trừ tất cả các điều kiện căn bản (1986-2000) của mực nước thấp cực đoan, một thành phần quan trọng đặc biệt của dòng chảy môi trường của Tonle Sap.  Với chiều hướng đang diễn ra và những đãi ngộ kinh tế lớn trong doanh nghiệp thủy điện trong khu vực, có khả năng cao là hầu hết tiềm năng thủy diện của 3S sẽ được khai thác và rằng các đập sẽ được xây ở những nơi có rủi ro xáo trộn sinh thái cao.  Vì thế, sửa lại các thiết kế và việc điều hành hiện nay để khuyến khích lề lối thủy điện khả chấp để tối ưu hóa nhiều dịch vụ của sông – thay vì chỉ tối đa hóa việc sản xuất thủy điện – có vẻ là một giải pháp thay thế khả thi nhất để giảm nhẹ những xáo trộn liên quan đến thủy điện trong Mekong.

 

1. Phần giới thiệu

Trên ½ sông lớn nhất trên thế giới đã bị thay đổi bởi đập (Nilsson et al., 2005) và có bằng chứng trên toàn thế giới cho thấy việc phát triển thủy điện gây xáo trộn sinh thái và thủy học đáng kể đối với hệ sinh thái nước ngọt ở hạ lưu (Poff and Zimmerman, 2010).  Hiểu được ảnh hưởng cộng dồn của hạ tầng cơ sở nguồn nước rất quan trọng để phát triển khả chấp các lưu vực sông, và mặc dù những thay đổi thủy học của đập có những hệ quả toàn lưu vực, đánh giá ảnh hưởng thường tập trung vào những khúc sông ở ngay trên và dưới các dự án đập riêng biệt (Nilsson and Berggren, 2000).  Tuy nhiên, đánh giá ảnh hưởng trở nên thách thức hơn khi các hệ sinh thái quan trọng ở xa về phía hạ lưu dưới ảnh hưởng của nhiều đập cũng như các thành phần hạ tầng cơ sở nước khác (thí dụ, thủy nông, cấp thủy, và ngừa lụt).  Tình hình trở nên phức tạp hơn trong các sông lớn nơi quyền lợi của các bên liên hệ ở thượng lưu khác với các bên liên hệ ở hạ lưu.  Chằng hạn như trong trường hợp của Mekong, một lưu vực xuyên biên giới với mức kiểm soát thủy học thấp trong lịch sử (thí dụ, tỉ lệ của lưu lượng hàng năm có thể được trữ trong các hồ chứa) so với các lưu vực nhiệt đới lớn khác chẳng hạn như Amazon và Congo (Lehner et al., 2011; Nilsson et al., 2005).  Các kế hoạch hăm hở cho nhiều kế hoạch thủy điện lớn trên khắp lưu vực Mekong để phát triển kinh tế được dự trù mang lại những xáo trộn đáng kể cho chế độ thủy học (Lauri et al., 2012; Piman et al., 2013b), gồm có địa mạo học (geomorphology) (Kummu et al., 2010; Walling, 2009), sinh học cá (Ziv et al., 2012), và năng suất của các hệ sinh thái đồng lụt ở hạ lưu (Arias et al., 2014) đã duy trì an ninh lương thực cho hàng triệu người.

 

Mekong là sông và lưu vực lớn nhất Đông Nam Á, rộng khoảng 795.000 km2 được chia sẻ bởi 6 quốc gia khác nhau: Trung Hoa, Myanmar (Burma), Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam (Hình 1).  Lưu lượng hàng năm trung bình của Mekong ở Kratie, Cambodia là 475 km3/năm hay 14.500 m3/sec, thay đổi từ trung bình dưới 3.000 m3/sec từ tháng 3-4, đến gần 40.000 m3/sec trong tháng 8-9 (Adamson et al., 2009).  Lưu vực 3S rộng khoảng 78.650 km2 được phân phối giữa Cambodia (33%), Lào (29%), và Việt Nam (38%).  Vì có lượng mưa tương đối cao (1.100-3.800 mm/năm), 3S đóng góp dòng chảy lớn nhất trong số các phụ lưu Mekong, với một lưu lượng trung bình là 510 m3/sec trong tháng 3-4 và 6.133 m3/sec trong tháng 9.  Nói chung, 3S đóng góp 23% lưu lượng hàng năm của Mekong, so với 16% từ thượng lưu Mekong ở Trung Hoa (Adamson et al., 2009).

 

Hình 1. Bản đồ của lưu vực Mekong nhấn mạnh đến các đồng lụt và đập trong tương lai chắc chắn (điểm đen) và tình huống phát triển 3S (tam giác tím).  Tam giác xanh lá cây là trạm thủy học Kampong Luong trên Tonle Sap.

 

Mekong gặp hệ thống Tonle Sap khoảng 300 km về phía hạ lưu của Stung Treng ở thủ đô Phnom Penh của Cambodia.  Từ tháng 10 đến tháng 5, nước chảy từ Tonle Sap vào Mekong với một lưu lượng hàng ngày tối đa là 8.300 m3/sec; khi mưa mùa ẩm ướt đến lưu vực trong tháng 5, sông Mekong dâng lên đến mức cao hơn Tonle Sap, buộc sông nầy đảo ngược dòng chảy vào hồ.  Hiện tượng nầy tạo nên một đồng lụt lan rộng trên 15.000 km2 và trữ đến 76,1 km3 của nhịp lũ hàng năm của Mekong (Kummu et al., 2014).  Nói chung, 53,5% nước chảy vào hệ thống Tonle Sap đến từ Mekong, 34% từ các phụ lưu, và 12,5% trực tiếp từ mưa (kummu et al., 2014).

 

Việc phát triển thủy điện trong Mekong đang xảy ra ở 3 khu vực khác nhau.  Thứ nhất là chuỗi Lancang Jiang ở thượng lưu Mekong ở Trung Hoa (Hình 1), một loạt 6 đập (5 đã được xây) với những thay đổi thủy học ở hạ lưu được dự đoán xa đến Kratie (Räsänen et al., 2012).  Chú trọng thứ hai của việc phát triển là một loạt 11 đập trên dòng chánh ở hạ lưu Mekong, chỉ có 1 đang được xây cất, đập Xayaburi ở Lào.  Các đập trên dòng chánh ở hạ lưu Mekong đã gây tranh cãi vì những ảnh hưởng tiềm tàng của chúng đối với thủy sản (Ziv et al., 2012) và vai trò của chúng trong ngoại giao chánh trị giữa các quốc gia trong lưu vực (Grumbine et al., 2012; Grumbine and Xu, 2011; Stone, 2011).  Lo ngại lớn hơn về thay đổi thủy học là vùng phát triển thứ ba đang xảy ra trong các phụ lưu Mekong, đặc biệt là 3S, nơi có ít nhất 42 đập đang ở trong những giai đoạn phát triển khác nhau mà không có nhiều phối hợp khu vực hay tham vấn bên liên hệ.  Vì sự gần gũi của nó với Tonle Sap và phần còn lại của các đồng lụt ở hạ lưu Mekong, việc kiểm soát dòng chảy trong 3S hầu như sẽ ảnh hưởng tính theo mùa thủy học của đồng lụt.  Nếu thủy học của Tonle Sap bị thay đổi, có thể có những hậu quả nghiêm trọng cho năng suất sinh thái được hỗ trợ bởi đồng lụt của nó (Arias et al., 2014).

 

Cho đến nay, các đập hiện hữu được cho là đã gây ra rất ít thay đổi thủy học ở hạ lưu Mekong (Adamson et al., 2009).  Đã có những thay đổi đối với tần suất của các sự kiện cực đoan bắt đầu vào giữa thập niên 1970s, nhưng điều nầy được liên kết với những thay đổi trong El Niño–Southern Oscillation (Delgado et al., 2012; Räsänen and Kummu, 2013).  Một vài nỗ lực nghiên cứu và dụng cụ mô phỏng đã được phát triển để lượng định những thay đổi thủy học đang diễn ra và trong tương lai trong Mekong (Johnston and Kummu, 2011).  Chú trọng chánh của những nghiên cứu nầy là ảnh hưởng cộng dồn của nhiều kế hoạch phát triển hạ tầng cơ sở nước đối với lưu vực (Lauri et al., 2012; Piman et al., 2013b; WB, 2004).  Các nghiên cứu khác cũng xoi mói những thay đổi nhất là trong những khu vực phát triển, chẳng hạn như chuỗi đập trên thượng lưu Mekong (Räsänen et al., 2012) và 3S (Piman et at., 2013a; Ty et al., 2011), nhưng liên kết giữa phát triển trong những khu vực nầy và ảnh hưởng đối với các đồng lụt ở hạ lưu Mekong chưa được đánh giá.  Đánh giá ảnh hưởng của những thay đổi toàn lưu vực đối với Tonle Sap, tuy nhiên, được thực hiện và cung cấp một sự hiểu biết tốt của chiều hướng chung của những thay đổi trong tương lai trong đồng lụt.  Kummu and Sarkkula (2008) ban đầu lập luận rằng tình huống phát triển ở thượng lưu của phúc trình của Ngân hàng Thế giới (WB, 2004) có thể làm tăng mực nước trong mùa khô của Tonle Sap 15 cm và làm giảm mực nước trong mùa mưa 36 cm, đưa đến một sự sụt giảm lớn diện tích bị ngập theo mùa.  Arias et al. (2012,2013,2014) cho thấy rằng những thay đổi liên quan đến thủy điện đối với thủy học của Tonle Sap có thể gây xáo trộn quan trọng đến nơi cư trú dồng lụt hiện hữu và sự đóng góp của chúng đến việc sản xuất chánh ở dưới nước.

 

Các ảnh hưởng của thay đổi thủy học trong các sông và đồng lụt đã được ghi nhận rõ từ nhiều thập niên (Petts, 1980).  Hàng trăm nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho rằng những thay đổi thủy học gây xáo trộn sinh thái trong sông và các hệ thống ven sông (Poff and Zimmerman, 2010), nhưng hầu hết nghiên cứu chỉ thực hiện trong những khúc sông ở Bắc Mỹ và Âu Châu, nơi trên ¾ lưu lượng sông được kiểm soát (Dynesius and Nilsson, 1994), và nơi có đủ dữ kiện theo thời gian để thống kê sự can thiệp của những thay đổi trước và sau đập (FitzHugh, 2014; Poff et al., 2007).  Những nghiên cứu trong các khu vực nầy đã đánh giá ảnh hưởng của việc phát triển đập dựa trên qui mô của những thay đổi đối với cường độ, tần suất, thời gian, thời điểm, và mức thay đổi của chế độ dòng chảy tự nhiên được đòi hỏi cho tính toàn vẹn của hệ sinh thái sông và đồng lụt (Poff et al., 1997).  Dựa trên các đặc tính nầy, một phương pháp đánh giá ảnh hưởng của thay đổi thủy học (impacts of hydrological alterations (IHAs)) đối với dòng chảy môi trường được phát triển (Richter et al., 1996,1997).  Phương pháp nầy định nghĩa 32 thông số thủy học và thành phần dòng chảy môi trường (environmental flow components (EFCs)) và đánh giá tầm quan trọng cường độ và thống kê của những thay đổi do việc kiểm soát dòng chảy.  Những phát triển gần đây được đề nghị cho phương pháp IHA, gồm có phân tích các thành phần thay đổi giữa các chỉ số thay đổi (Gao et al., 2009) và xếp hạng mức thay đổi cho các EFCs riêng biệt (FitzHugh, 2014).

 

Hầu hết việc xây cất các dự án thủy điện hiện nay đang xảy ra trong các vùng ở Nam Mỹ, Phi Châu và Á Châu (Kareiva, 2012), nơi việc theo dõi thủy học và sinh thái chưa được thực hiện đúng với độ phân giải và khoảng cách thời gian để dùng phương pháp IHA. (Nó thường đòi hỏi những chuỗi thời gian ít nhất 20 năm đo đạc hàng ngày; The Nature Conservancy, 2009).  Những ngoại lệ duy nhất đối với hạn chế khu vực nầy là lưu vực Murray-Darling ở Australia (Kingsford, 2000) và sông Paraná ở Brazil (Agostinho et al., 2009), nơi những thay đổi thủy học và những xáo trộn sinh thái tương ứng đã được ghi nhận đầy đủ.  Mặc dù có những giới hạn rõ rệt, việc áp dụng phương pháp IHA cho các sông nhiệt đới đang được phát triển mang lại những thách thức và lợi ích đáng quan tâm.  Thứ nhất, IHA có thể được dùng như một dụng cụ đánh giá ảnh hưởng trước tiên được áp dụng để mô phỏng các tình huống phát triển thủy điện để hoạch định tối ưu và khả chấp vị trí đập và cách điều hành.  Hơn nữa, dụng cụ có thể được dùng để so sánh mức thay đổi giữa các dự án và/hay chuỗi khác nhau, vì thế giúp ưu tiên hóa nơi thủy diện khả chấp và các chiến lược quản lý lưu vực cần nhất.  Hơn nữa, dụng cụ IHA cũng có thể được dùng để lượng định ảnh hưởng cộng dồn của chuỗi đập ở những khúc sông quan trọng ở hạ lưu và các hệ sinh thái có giá trị cao, thay vì chỉ chú trọng đến ảnh hưởng ở ngay hạ lưu đập.  Với những áp dụng nầy trong trí, một đánh giá những thay đổi thủy học trong Mekong sẽ là một nghiên cứu trường hợp nâng cao kiến thức không chỉ cho các nhà nghiên cứu và quản đốc trong lưu vực mà còn cho những người quản lý các sông (bán) nhiệt đới đang trải qua phát triển và biến chuyển sinh vật lý tương tự.

 

Mục đích chánh của nghiên cứu nầy là để định lượng làm thế nào các đập thủy điện được đề nghị trong các phụ lưu ở hạ lưu Mekong, cùng với các kế hoạch tương lai chắc chắn (DF) để phát triển hạ tầng cơ sở trên khắp lưu vực, sẽ thay đổi thủy học của đồng lụt Tonle Sap.  Điều nầy được thực hiện trước hết bằng cách kiểm chứng một mô hình thủy động học 2D của các đồng lụt ở hạ lưu Mekong với mực nước lịch sử ở Tonle Sap.  Đoạn chúng tôi so sánh những thay đổi thủy học được dự đoán gây ra bởi việc phát triển thủy điện 3S và tình huống hầu như xảy ra (đó là DF) cho phần còn lại của lưu vực Mekong vào năm 2015.  Một khi 2 tình huống nầy được phân tích riêng rẽ, ảnh hưởng cộng dồn của chúng đối với các thông số thủy học và dòng chảy môi trường ở đồng lụt Tonle Sap được ước tính.  Chúng tôi kết luận với phần thảo luận các hậu quả quan trọng những điều được tìm thấy của chúng tôi cũng như các giải pháp thay thế khả thi để giảm nhẹ sự thay đổi thủy học được dự đoán và những xáo trộn sinh thái kèm theo.

XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP

Sunday, April 24, 2022

Ý KIẾN: ĐẤT NGẬP NƯỚC ĐỒNG LỤT CỦA MEKONG – ĐANG BIẾN MẤT?

(Opinion: Floodplain wetlands of the Mekong – going, going, gone?)

Ding Li Yong and Khwankhao Sinhaseni – Bình Yên Đông lược dịch

The Third Pole – April 11, 2022

 

Một cặp sếu đầu đỏ, đã sụt giảm nhanh chóng trong đồng lụt Mekong vì mất nơi cư trú và xáo trộn. [Ảnh: Harshvardhan Sekhsaria]

 

Rừng đầm lầy, bãi sậy, đồng cỏ ngập nước của hạ lưu vực Mekong hình thành một trong những vùng sinh học quan trọng nhất trên địa cầu.  Nhưng những hệ sinh thái nầy đang biến mất ở mức đáng báo động.

Một thay đổi nhanh chóng và không thể đảo ngược đang xảy ra trong hạ lưu vực Mekong.  Các đồng cỏ và đất ngập nước nước ngọt đang biến mất – những hệ sinh thái kỳ lạ từng hỗ trợ cho nhiều cộng đồng động vật có vú lớn và chim chóc nẩy nở.  Chúng gồm có sếu đầu đỏ kỳ lạ; già đẫy, một trong những chủng loại cò lớn nhất trên thế giới; và ô tác Bengal, một loại chim lớn như gà nổi tiếng với kiểu bay lao xuống.  Ngày nay, chúng là những chim lớn có nguy cơ tuyệt chủng nhất.  Trong khi đó, nai, trâu rừng và mèo rừng đã hoàn toàn tuyệt giống trên khắp hầu hết khu vực bởi sự kết hợp của áp lực săn bắn và mất nơi cư trú.

Ba trăm năm trước, đồng bằng Mekong là một vùng rừng đầm lầy bao la, bãi sậy và đồng cỏ ngập nước hình thành một vùng đất ngập nước nội địa khổng lồ có kích thước gần bằng Lebanon, được biết như “Đồng Sậy”.  Từ đó, đất ngập nước có trên ½ kích thước, và đồng bằng nay là biển của canh tác và nuôi cá.

Ở xa về phía thượng lưu, vùng Isaan ở đông bắc Thái Lan là một vựa lúa quan trọng, cũng như những vùng trên khắp biên giới ở Lào.  Đồn điền cao su, chuối và các hoa màu có giá trị khác đang gia tăng trên khắp vùng.  Phần nầy của đồng lụt Mekong từng được che chở trong rừng khô thay lá, bãi sậy và đồng cỏ ngập nước theo mùa.

Ướt sũng với chất dinh dưỡng từ nhịp lũ mưa mùa, các đồng lụt Mekong phì nhiêu lạ thường.  Các hệ sinh thái Mekong hình thành trung tâm của điểm nóng đa dạng sinh học Indo-Burma, một trong những vùng sinh học quan trọng nhất trên trái đất.  Các chủng loại mới được khám phá liên tục: khoảng 200 chủng loại cây cối và thú vật mới được ghi nhận trong năm 2020.  Trong số các chủng loại được nhận ra nhiều nhất của Mekong là sếu đầu đỏ, chân bơi (masked finfoot) (một loại vịt hay lẫn tránh), cá sấu Siamese và cá tra dầu Mekong, cũng như trâu rừng có lẽ đã diệt chủng.

Nguồn: The Third Pole

Sự phì nhiêu đã cho lưu vực đa dạng sinh học phong phú như thế cũng là lý do nhiều vùng lớn của đồng lụt ở Thái Lan, Lào và Cambodia nay là một biển đồng lúa không chấm dứt.

Ở mọi nơi dọc theo Mekong, đất ngập nước bao la hiện hữu từng mảnh.  Chúng ta có thể thấy tàn tích của những đầm lầy, bãi sậy và rừng đầm lầy ở Công viên Quốc gia Tràm Chim ở Việt Nam, vùng bảo vệ Boeng Prek Lapov và Anlung Pring ở Cambodia và đất ngập nước Xe Champhone và Bueng Kiat Ngong ở Lào, và các nơi khác.

Ở Thái Lan, một cái nhìn của những nơi nầy trước đây có thể được tìm thấy ở hồ Nong Bong Khai và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Nam Kham, nơi là một vùng chật chội nhưng vùa được phục hồi của bãi sậy ven sông đầy dẫy chim di cư chẳng hạn như chim chích sậy và oanh cổ đỏ.

 

Đất ngập nước ở Khu Bảo tồn Nam Kham ở Thái Lan, được phục hồi bởi nhóm bảo tồn ở địa phương Nhóm Chim Lanna, cho một cái nhìn của cái đất ngập nước đồng lụt Mekong từng có. [Ảnh: Nam Kham Nature Reserve]

 

Sụt giảm của sếu đầu đỏ lạ thường

Chủng loại chim tiêu biểu nhất của đồng lụt Mekong có lẽ là sếu đầu đỏ.  Sếu là cư dân duy nhất ở Đông Nam Á (ĐNA), nâng cao một phân chủng đặc thù, sếu đầu đỏ từng có mặt rộng rãi trong các vùng đất thấp của khu vực, kéo dài về phía bắc đến Yunnan (Vân Nam), Trung Hoa, nơi nay nó bị tuyệt chủng.

Những con sếu uy nghi nầy sinh sống trong rừng khô thay lá và liên quan đến đất ngập nước dọc theo đồng lụt của Mekong và các phụ lưu trong mùa mưa.  Đến mùa khô, chúng di chuyển xuống hạ lưu để định cư ở đất ngập nước dọc theo hồ Tonle Sap ở Cambodia, cũng như vài đất ngập nước ở phía trên đồng bằng sông Cửu Long giáp với biên giới Cambodia-Việt Nam.

Số sếu đầu đỏ đã sụt giảm đều đặn trong lưu vực Mekong, với dưới 200 đếm được ở Cambodia và Việt Nam trong năm 2021, một sự sụt giảm 80% kể từ năm 2013.  Không rõ nếu sếu còn ở Lào.  Số sếu ở Thái Lan rất nhỏ, bắt nguồn từ chim được thả trong tỉnh Buriram.

Sếu đối mặt với nhiều đe dọa, từ các hoạt động canh tác không khả chấp trong tầm bay của chúng đến mức vỡ tổ cao vì xáo trộn của việc làm tổ và thú ăn thịt.  Cùng với sự xáo trộn nầy, sự mất mát nhanh chóng và lớn lao của đất ngập nước ở hạ lưu Mekong có lẽ là lý do quan trọng nhất cho sự sụt giảm nhanh chóng của chim trong vài thập niên qua.

Vì sao đất ngập nước đồng lụt đang mất?

Mekong chảy xuống từ cao nguyên Qinghai-Tibet (Thanh Hải-Tây Tạng) ở Trung Hoa, nơi nó được gọi là Lancang.  Sông và nhiều phụ lưu uốn khúc gần 4.000 km qua đồi núi và đất thấp của lục địa ĐNA, nuôi dưỡng nhiều vùng lớn ở Lào, Cambodia, Myanmar và Thái Lan trước khi đổ ra Biển Đông trong một vùng đồng bằng châu thổ kéo dài từ Cambodia đến Việt Nam.

Rất nhiều đã được viết về ảnh hưởng của các đập lớn trên Mekong.  Việc xây cất các siêu đập đã thay đổi lớn lao thủy học của sông.  Trên 10 đập đã được xây trên thượng lưu Mekong trong tỉnh Yunnan, Trung Hoa.  Trong lúc đó, đập Xayaburi và Don Sahong đầy tranh cãi trong vùng Si Phan Don trên biên giới Lào-Cambodia, cũng như các đập được dự trù trên sông Tonle Sap, được mong đợi sẽ làm thay đổi thêm.

Việc điều hành các đập lớn trên Mekong gây nên lũ lụt trái mùa và làm giảm lưu lượng của sông, tạo căng thẳng cho hệ sinh thái dựa vào nước lũ, và chủng loại đã phát triển cùng với nhịp của sông.  Chim chóc dựa vào các đảo và cồn cát dọc theo sông để làm tổ đã giảm rất nhiều hay nay đã bị tuyệt chủng ở địa phương.  Nhạn sông, nhạn yếm đen và nhạn Indian, những chủng loại ven sông cổ điển thường xảy ra dọc theo Mekong và một số phụ lưu, nay phần lớn là chuyện của quá khứ.  Chim te mào và dô nách (pratincole), mặc dù chịu đựng hơn một ít, cũng ở dưới quyền của lưu lượng trái mùa làm ngập nơi sinh sống ven sông dễ tổn thương.

 


Đánh cá quá mức, ô nhiễm, hủy hoại nơi cư trú và xây đập cũng làm sụt giảm nghiêm trọng số di ngư trong Mekong.  Trọng lượng của cá bắt  từ sông được ước tính là 4,4 triệu tấn mỗi năm và có trị giá 17 tỉ USD.  Nếu số cá nầy sụp đổ, các quốc gia Mekong chẳng hạn như Cambodia có thể mất nguồn chất đạm và sinh kế quan trọng của hàng triệu người.

 

Mekong ở Si Phan Don trên biên giới Cambodia-Lào. [Ảnh: Ding Li Yong]

Làm thế nào để bảo vệ đồng lụt Mekong

Rừng và đất ngập nước còn lại của Mekong đang lâm nguy do việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên không khả chấp khi các quốc gia ĐNA cố gắng để thúc đẩy việc phát triển kinh tế.

Cái cần thiết cấp bách hiện nay là các chánh phủ, các nhà khoa học và các nhà bảo tồn phải nâng cao nỗ lực để bảo tồn các hệ sinh thái đồng lụt còn lại, trong khi phục hồi nối kết giữa những khung cảnh nầy nếu có thể được.  Những hành lang ven sông chưa ngăn đập chẳng hạn như sông Sekong ở Cambodia rất hiếm, và cần được bảo đảm cho đa dạng sinh học và sinh kế của người dân địa phương.

Những thách thức gây áp lực nhất có lẽ là điều kiện kinh tế xã hội của các cộng đồng con người sống trong hạ lưu vực Mekong.  Nghèo khó triền miên trong các cộng đồng nông thôn là một khối trở ngại quan trọng của hành động để bảo tồn đa dạng sinh học của đồng lụt, và có thể được mong đợi để tiếp tục thúc đẩy việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên không khả chấp trong tương lai.

Cuối cùng, quản lý và bảo vệ một vùng bao la và phức tạp như lưu vực Mekong sẽ đòi hỏi sự tham gia và hợp tác của các bên liên hệ ở mọi cấp, gồm có các cộng đồng ở địa phương, và chánh quyền tỉnh và quốc gia.  Hợp tác quốc tế mạnh mẽ hơn cũng cần thiết giữa các quốc gia Mekong để cải thiện các nỗ lực xuyên biên giới để bảo tồn đa dạng sinh học, cũng như đẩy mạnh sinh kế của các cộng đồng con người.

ỦY HỘI SÔNG MEKONG BỎ QUA THỰC TẾ NHƯ THẾ NÀO

(How the Mekong River Commission ignores reality)

Milton Osborne – Bình Yên Đông lược dịch

Lowy Institute – 12 April 2022

 

Ảnh vệ tinh của Đồng bằng sông Cửu Long, nơi Mekong, con sông dài thứ 12th trên thế giới, chia thành nhiều nhánh và đổ vào Biển Đông.

[Ảnh: Envisat/European Space Agency]

 

Không có gì đáng để ăn mừng trong cách mà dòng sông từng hùng vĩ hoang dại bị chế ngự một cách tàn nhẫn.

Trong số nhiều “ngày” được ăn mừng bởi cộng đồng quốc tế, một ngày mới có vẻ không thích hợp.  “Ngày Mekong” được công bố bởi Văn phòng Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) ở Vientiane để ăn mừng việc ký kết “Thỏa ước Hợp tác và Phát triển Khả chấp sông Mekong” xảy ra ở Chiang Rai vào ngày 5 tháng 4 năm 1995.

Cũng như nhiều “ngày” khác được liệt kê bởi Liên Hiệp Quốc và các tổ chức ít uy nghi hơn, việc ăn mừng một ngày nào đó không nhất thiết phản ánh hy vọng liên kết với sự kiện mà nó tưởng nhớ.  Mekong, buồn thay, là một tình trạng hư hỏng thực sự.

Mặc dù nó được hy vọng bởi các nhà hoạt động quan tâm đến tương lai của Mekong mà thỏa ước 1995 sẽ cung cấp một cách để ngăn chận việc xây cất các đập trên Mekong, điều nầy không phải là cái đã xảy ra – và đọc kỹ thỏa ước luôn luôn có nghĩa là điều nầy không phải là trường hợp.  Hơn nữa, Trung Hoa chưa bao giờ chấp nhận những lời mời được đưa ra để trở thành thành viên của thỏa ước.  Điều nầy có nghĩa là hành động của Trung Hoa liên quan đến Mekong nơi nó chảy qua tỉnh Yunnan (Vân Nam) không bao giờ bị ảnh hưởng bởi thỏa ước.

Đó là không nói thỏa ước đã không đóng một vai trò hữu ích trong một số cách: nghiên cứu thủy sản được thực hiện bởi văn phòng MRC là một trường hợp.  Nhưng sự kiện căn bản nhất là thỏa ước 1995 đã không ngăn cản việc xây đập, với tất cả những vấn đề liên hệ liên quan đến việc xây cất ở Trung Hoa và Lào.

Trong một bài cậy đăng trên Bangkok Post trong ngày trước “Ngày Mekong” gần đây nhất, CEO mới được đề cử của MRC, Anoulak Kittihoun, một viên chức cao cấp Lào là sinh viên bậc cử nhân ở Đại học Quốc gia Australia, viết về ưu tiên của ông “được trang bị với kiến thức hiện đại tốt hơn… để bảo đảm MRC tiếp tục củng cố vai trò của mình như một diễn đàn hợp tác và người môi giới của ngoại giao nước”.  Điều nầy, Kittihoun viết, không chỉ với 4 quốc gia thành viên chủ chốt, gồm có Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, “nhưng với 2 quốc gia láng giềng then chốt ở thượng lưu của chúng ta: Trung Hoa và Myanmar”.  Trong cái gật đầu với những vấn đề MRC đối đầu, ông lưu ý “tổ chức liên chánh phủ trung lập” nầy không phải là “một quan tòa hay bồi thẩm đoàn” nhưng là một diễn đàn để “ hòa giải các quyền lợi “một cách thành thật và quyết tâm”

 

Đập Xiaowan (Tiểu Loan), Langcang Jiang (thượng lưu Mekong) ở Trung Hoa.

 [Ảnh: Guillaume Lacombe/Cirad]

 

Được đặt bên cạnh cái đã xảy ra với sông Mekong trong 4 thập niên qua, ăn mừng Ngày Mekong và giọng điệu tích cực của tân CEO của MRC có vẻ ít nhất cần được kiểm chứng.  Đó là chỉ có 1 lưu ý đến Trung Hoa trong bài cậy đăng của Kittihoun là nổi bật.

Không đầy 40 năm từ khi chánh phủ Trung Hoa bắt đầu chương trình xây đập của họ trên thượng lưu Mekong (được gọi là Lancang Jiang ở Trung Hoa) khi họ bắt đầu xây cất đập Manwan (Mạn Loan) trong năm 1984.  Kể từ đó, Trung Hoa đã hoàn tất 11 đập trong khi chánh phủ Lào đã hoàn tất 2 đập với ít nhất 2 đập khác trong tương lai gần.  Không có đập trên dòng chánh Mekong ở Cambodia nhưng đập Hạ Sesan 2 nay hoàn tất trên 1 phụ lưu quan trọng trong tỉnh Stung Treng đã có ảnh hưởng tai hại đối với dòng chánh.

Khi Trung Hoa bắt đầu xây cất chuỗi đập của họ, không có lối thoát cho sự suy thoái đều đặn của các chức năng của Mekong như một nguồn cá và là một phần quan trọng của các hệ thống canh tác và nuôi cá nuôi dưỡng dân số của hạ lưu vực Mekong gồm có Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam.  Tóm lại, một dòng sông lớn đã được biến đổi để nó không bao giờ trở lại vai trò trước đây như một dòng sông hoang dại chảy tự do.  Điều đó phải là một thảm kịch của con người và sinh thái.  Các quan sát viên chuyên môn biết rõ tình hình vừa được mô tà nhưng không rõ đây là trường hợp của quần chúng rộng lớn hơn.

Ngược với lạc quan của MRC, 3 trích dẫn ngắn sau đây từ nhiều bình luận gia có uy tín trong thời gian gần đây là một cảnh báo thực tế.

“Sông Mekong định nghĩa đời sống của trên 100 triệu người đã biến từ một đơn vị sinh thái nguyên thủy đến những khúc sông đứt đoạn, được khai thác với sự phối hợp giới hạn giữa các quốc gia trong lưu vực.  Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam nằm dưới thấp đang trên đường trở thành nạn nhân tối hậu của nhiệt độ dâng lên toàn cầu, xây đập ở thượng lưu, đô thị hóa nội địa, áp lực canh tác/nuôi cá, phản ánh qua sụt lún đất, sạt lở sông và ven biển, khuếch đại thủy triều và gia tăng SWI [xâm nhâp của nước mặn]” – Nature News 21 July 2021

“Luang Prabang – cố đô [ở Lào] nổi tiếng với di sản kiến trúc cổ điển phong phú và môi trường thanh bình – đã bị ảnh hưởng bởi đập kế tiếp ở hạ lưu, ở Xayaburi.  Mặt sông của Luang Prabang đã biến mất, và thủ đô của hoàng gia xưa nay là một thị trấn bên bờ hồ ở cuối hồ chứa Xayaburi.  Chỉ khi mực nước của hồ chứa 2 hay 3 m dưới mức cung cấp đầy đủ, nước chảy qua Luang Prabang một cách tự nhiên.  Nhưng duy trì mực nước thấp như thế có nghĩa là hy sinh sản lượng điện và vì thế lợi tức của nhà phát triển đập” – Philip Hirsch, Đại học Sydney, trong Bangkok Post 29 June 2021

“Trong 3 thập niên, Trung Hoa đã xây các đập trên thượng lưu vực của sông Mekong, các quốc gia ở hạ lưu lo ngại rằng Trung Hoa có thể ngày nào đó khóa vòi nước.  Dữ kiện mới đây cho thấy trong 6 tháng năm 2019, trong khi Trung Hoa nhận được lượng mưa cao bất thường, các đập của họ giữ nhiều nước hơn bao giờ - ngay khi các quốc gia ở hạ lưu trải qua hạn hán chưa từng thấy.  Những điều được tìm thấy mới nầy xác nhận cái mà nhiều người đã nghi ngờ từ lâu: Trung Hoa đang giữ nước nhiều hơn trước đây và gây ra những thay đổi bất thường và tàn phá trong mực nước ở hạ lưu.” – Brian Eyler, Regan Kwan and Courtney Weatherby, Stimson Center 13 April 2020.

.