Thursday, January 30, 2020

DỰ ÁN THỦY ĐIỆN SÔNG NAM OU GIAI ĐOẠN 2 BẮT ĐẦU HOẠT ĐỘNG



(Nam Ou River hydropower project starts 2nd phase operation)

Xinhua – Bình Yên Đông lược dịch
MSN – December 26, 2019

Mô hình của Dự án Thủy điện Bậc thang Sông Nam Ou. [Ảnh:Xinhua]


Đơn vị phát điện đầu tiên của Dự án Thủy điện Bậc thang Sông Nam Ou Giai đoạn 2 đã được phát động ở Luang Prabang, Lào.  Dự án được phát triển qua Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Hoa.

Vientiane – Lễ khởi động đơn vị phát điện đầu tiên của Dự án Thủy điện Bậc thang Sông Nam Ou Giai đoạn 2 được tổ chức vào sáng Thứ Năm ở Luang Prabang, khoảng 220 km về phía bắc của thủ đô Vientiane, Lào
Bộ trưởng Năng lượng và Hầm mỏ Lào kiêm Chủ tịch Hội Hữu nghị Lào-Trung Hoa Khammany Inthirath, và Đại sứ Trung Hoa ở Lào Jiang Zaidong cùng nhấn nút cầu thủy tinh tại buổi lễ để phát động đơn vị phát điện đầu tiên của giai đoạn 2, trên phụ lưu lớn nhất của sông Mekong trong lãnh thổ Lào.

Dự án thủy điện bậc thang Sông Nam Ou, phát triển bởi Công ty Xây dựng Điện lực Trung Hoa (Power Construction Coorporation of China (PowerChina)) qua Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Hoa, cũng là dự án đầu tiên của một công ty Trung Hoa được quyền khai thác toàn thể lưu vực sông ở nước nầy, được chánh phủ và nhân dân Trung Hoa và Lào đánh giá cao.

Vào ngày 31 tháng 8 năm 2015, Chủ tịch Trung Hoa Xi Jinping và nguyên Chủ tịch Lào Choummaly Sayasone đã chứng kiến việc ký kết các thỏa ước nhượng quyền và mua điện cho giai đoạn 2.
Việc khởi động đơn vị phát điện đầu tiên của giai đoạn 2 cho thấy việc xây dựng dự án đã đạt đến một mốc mới, đánh dấu việc phân phối năng lượng sạch có phẩm chất cao để phát triển kinh tế và xã hội ở Lào và thổi động lực mới vào việc phát triển chiến lược hợp tác toàn diện giữa Trung Hoa và Lào.

Đơn vị phát điện đầu tiên của Dự án Thủy điện Bậc thang Sông Nam Ou Giai đoạn 2, 
nhà máy Thủy điện No. 1. [Ảnh: Xinhua]

Dự án được phát triển trong 2 giai đoạn, với công suất thiết trí tổng cộng 1.272 MW và mức sản xuất trung bình hàng năm khoảng 5.064 tỉ KWh.  Khi hoàn tất, nó có thể bảo đảm 12% số điện cung cấp ở Lào.

Trong diễn văn, Bộ trưởng Khammany đã đánh giá cao thành quả mà dự án thủy điện bậc thang sông Nam Ou đã đạt được và tầm quan trọng chiến lược của nó trong kỹ nghệ năng lượng của quốc gia.  Ông nói đây là một dự án cải thiện cuộc sống quan trọng ở bắc Lào có ảnh hưởng rộng rãi, giúp thay đổi cuộc sống và cải thiện điều kiện sản xuất ở địa phương, giúp giải quyết việc cung cấp điện ở địa phương, giảm nghèo và mang lại nhiều đầu tư hơn.
Bộ trưởng cũng nói dự án thì xanh, thân thiện với môi trường và phát triển khả chấp, và sẽ mang đến cho Lào một số điện lớn có phẩm chất cao và có thể chấp nhận được.
Khammany nói, trong lúc xây cất, dự án đã giải quyết nhiều vấn đề ở địa phương như cung cấp điện, giảm nghèo, cải thiện hạ tầng cơ sở và các phúc lợi xã hội khác, được dùng làm gương cho các dự án khác.  Ông cũng nói thêm rằng dự án là một điển hình của sự hợp tác năng lượng và điện lực giữa Lào và Trung Hoa.

Đại sứ Jiang Zaidong phát biểu trong buổi lễ cho rằng sự thành công hôm Thứ Năm là cách tốt nhất để kỷ niệm lần thứ 58th việc thiết lập ngoại giao giữa Trung Hoa và Lào, và việc thực hiện sự nhất trí của lãnh đạo đảng và quốc gia, một bước tiến vững chắc trong việc xây dựng cộng đồng Trung Hoa-Lào cùng chia sẻ tương lai và phúc lợi của nhân dân.
Đại sứ Trung Hoa hy vọng rằng PowerChina sẽ chia sẻ kinh nghiệm xây cất và điều hành với phía Lào, trong khi đóng một vai trò quan trọng trong việc hợp tác hỗ tương.

Hình chụp ngày 26 tháng 12 năm 2019, Bộ trưởng Năng lượng và Hầm mỏ kiêm Chủ tịch Hội Hữu nghị Lào-Trung Hoa Khammany Inthirath (người thứ ba từ phải) và Đại sứ Trung Hoa Jiang Zaidong (người thứ năm từ trái) nhấn nút cầu thủy tinh để cùng khởi động giai đoạn 2 của dự án thủy điện trên phụ lưu lớn nhất của sông Mekong ở Lào. [Ảnh: Xinhua]

Li Yanming, phó tổng quản trị của PowerChina nói Dự án Thủy điện Bậc thang Sông Nam Ou đã mang lại nhiều thành tựu thực tiễn, chẳng hạn như hệ thống tự động theo dõi và báo cáo trong lưu vực Nam Ou, phụ lưu lớn nhất của sông Mekong ở Lào, cung cấp dữ kiện để hỗ trợ Lào trong việc xây dựng một hệ thống quản lý tài nguyên và môi trường nước quốc gia, ngừa lụt và giảm thiểu thiên tai, và quản lý tập trung các nhà máy thủy điện.  Dự án tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm về  khái niệm, kỹ thuật, khí cụ, điều hành và quản lý với nhân dân Lào.

Du Chunguo, tổng quản trị của PowerChina Resources Limited, nhánh đầu tư ngoại quốc của PowerChina, nói rằng công ty cam kết nuôi dưỡng và đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Lào và tiếp tục khuyến khích phát triển hỗn hợp toàn lưu vực sông Nam Ou để thúc đẩy hợp tác điện năng Trung Hoa-Lào.

Trung tâm Điều hành và Bảo trì Dự án Thủy điện Bậc thang Sông Nam Ou của PowerChina, chụp ngày 26 tháng 12 năm 2019. [Ảnh: Xinhua]

Giai đoạn 1 của Dự án Thủy điện Bậc thang Sông Nam Ou gồm có các nhà máy thủy điện Nam Ou No. 2, 5, và 6 với công suất thiết trí tổng cộng 540 MW và bắt đầu hoạt động vào ngày 1 tháng 1 năm 2017.  Đến cuối năm 2019, tổng số điện sản xuất được đã lên đến 4,7 tỉ KWh, thắp sáng hàng chục ngàn gia đình.
Công suất thiết trí tổng cộng của giai đoạn 2, gồm có nhá máy thủy điện Nam Ou No. 1, 3, 4, và 7, là 732 MW với sản lượng hàng năm là 2.874 GWh và được dự trù hoàn tất trong năm 2020.
Khi các nhà máy trong lưu vực hoạt động đầy đủ, một chuỗi “7 viên trân châu lấp lánh” sẽ làm cho Sáng kiến Vành đai và Con đường sáng lạng hơn ở Lào, theo mô tả của quyển sách nhỏ về dự án.

Dự án Sông Nam Ou, dự án thủy điện do Trung Hoa phát triển ở bắc Lào, không chỉ mang điện đến với hàng ngàn gia đình mà còn tạo nên cảnh quan mới cho quốc gia.
Vào lúc khởi đầu của dự án cách đây trên một thập niên, PowerChina đề nghị một kế hoạch phát triển dự án bậc thang gồm 7 đập, trong nỗ lực giảm thiểu ảnh hưởng đối với môi trường và số người phải dời cư.  Dự án cũng cố gắng giảm càng nhiều càng tốt diện tích đất bị ngập, đặc biệt là đất canh tác.
Theo kế hoạch của dự án Sông Nam Ou, 28 làng mới sẽ được xây dựng để định cư khoảng 2.300 gia đình gồm trên 12.600 người.


.

CHUYÊN VIÊN NGHI NGỜ VỀ HIỆU QUẢ CỦA KẾ HOẠCH MỚI ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI HẠN HÁN MEKONG



(Experts doubt effectiveness of new plan to address Mekong drought)

Leonie Kijewski – Bình Yên Đông lược dịch
Al Jazeera News – December 26, 2019


Sông Mekong một thời hùng vĩ chỉ còn là một dòng nước thu hẹp chảy qua bắc Thái Lan. [Ảnh: Lillian Suwanrumpha/AFP]

Kế hoạch chú trọng đến việc tiên đoán hạn hán nhưng những người phê bình nói nó thất bại trong việc đối phó với ảnh hưởng của các dự án xây đập và thủy điện.

Phnom Penh, Cambodia – Một năm sau khi hạn hán nghiêm trọng hoành hành trong khu vực, cơ quan liên quốc gia Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) đã đưa ra những biện pháp mới để giảm nhẹ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, nhưng các chuyên viên nghi ngờ hiệu quả của kế hoạch.
Trong chiến lược 2020-2025 được phê chuẩn hồi cuối tháng rồi ở Phnom Penh và công bố vào tuần trước, MRC đưa ra một chiến lược 5 điểm bao gồm tiên đoán và cảnh báo sớm hạn hán.
MRC cộng tác với các chánh phủ Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam và bộ phận cố vấn để quản lý nguồn nước sông Mekong chung.

Mekong là con sông dài thứ 12th trên thế giới, kéo dài 4.350 km (2.703 miles) từ Trung Hoa ở phía bắc đến Việt Nam ở phía nam.
Kế hoạch, một tài liệu dài 68 trang, nhằm mục đích “củng cố khả năng thích ứng của các quốc gia thành viên trong việc chống chọi với nguy hiểm của hạn hán và giảm nhẹ ảnh hưởng của hạn hán qua việc sử dụng khả chấp nguồn nước.”

Mekong cung cấp nước và sinh kế cho hàng triệu người trên hành trình từ Trung Hoa đến Biển Đông. [Ảnh: Al Jazeera]


Nhưng Pianporn Deetes, cổ động viên của International Rivers ở Thái Lan, nói rằng mặc dù kế hoạch công nhận vài điểm quan trọng, như hạn hán ảnh hưởng đến đời sống của hàng triệu người như thế nào, chiến lược không chú trọng đúng vào vấn đề.
“Chiến lược họ đang dùng thiếu điểm chánh,” Pianporn nói.  Một trong các vấn đề chánh yếu ảnh hưởng đến tình trạng thiếu nước là ảnh hưởng của các dự án thủy điện, nhưng không được đề cập đến trong phúc trình.  “Thay vì thừa nhận các vấn đề hiện hữu, các chánh phủ càng ngày càng cho phép xây nhiều đập hơn.”

Phá vỡ môi trường

Ian Baird, chuyên viên nghiên cứu của Đại học Wisconsin nghiên cứu về Mekong, nói rằng chiến lược mới không đi đủ xa.
Mặc dù hoan nghênh nỗ lực của MRC trong việc thu thập nhiều dữ kiện, Baird nói điều đó chưa đủ.  “Dữ kiện chỉ có giá trị khi người ta dùng nó để lấy quyết định, và điều đó tùy thuộc vào chánh phủ.”  Baird nói rằng việc xây đập dọc theo sông Mekong đã phá vỡ dòng chảy tự nhiên của sông, và điều đó gây nguy hiểm đối với toàn thể hệ sinh thái.

Việt Nam chịu thiệt hại hạn hán nặng nề nhất trong gần một thế kỷ, nước mặn ảnh hưởng đến nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long. [Ảnh: Stringer/AFP]

Một trong những hậu quả của sự phá vỡ là cây chết ở Cambodia, vì lượng nước xả từ đập trong lúc cây không cần nước.  Baird nói thêm là thể thức MRC được hình thành, chỉ có đại diện của chánh phủ mà không có đại diện của xã hội dân sự, cho nên chiến lược hạn hán của nó chỉ đi xa đến thế.  “Các quốc gia luôn luôn chú trọng đến việc duy trì quyền lợi quốc gia.  Và tôi không nghĩ rằng họ có đủ nhận thức cho quyền lợi lâu dài của mọi người.  Mọi người có dự án họ muốn xây, mọi người muốn có đập của riêng họ, và họ muốn có các dự án chuyển nước của riêng mình.  Cho nên không có sự phối hợp.”

“Mekong không phải là vòi nước”

Trong kế hoạch mới, MRC nhấn mạnh đến nhu cầu phối hợp với “đối tác đối thoại” trong khu vực.  Tài liệu viết rằng, “Rất quan trọng để MRC tăng cường hợp tác với Trung Hoa và Myanmar.”
Trong một nỗ lực để cải thiện hợp tác với Trung Hoa, MRC đã ký một thỏa ước với Trung tâm Hợp tác Nguồn nước Lancang-Mekong để quản trị nguồn nước.  Lancang là tên Trung Hoa của sông Mekong.
Trong một thông cáo báo chí, An Pit Hatda, Giám đốc Điều hành Văn phòng MRC, nói rằng việc thỏa thuận nhằm mục đích bảo đảm “việc quản lý có hiệu quả thượng và hạ lưu vực Mekong cho tính khả chấp và quyền lợi chung trong tương lai.”

Một phụ nữ Cambodia bưng một rỗ cá trên bờ sông Mekong ở Phnom Penh.  Mekong là mạch sống của hàng triệu người sống dọc theo sông từ Trung Hoa, Lào, Thái Lan, Việt Nam và Cambodia. [Ảnh: Mak Remissa/EPA]

Nhưng Pianporn của International Rivers nói các quốc gia MRC không có đủ thế lực để có thể gây ảnh hưởng tập thể đối với Trung Hoa.  Pianporn nói thêm rằng ủng hộ cho việc xả nước tùy lúc từ thượng nguồn Mekong không đủ.  “Sông Mekong không phải là một vòi nước.  Nó không phải là cầu tiêu.  Nó không phải khi bạn muốn thì bạn vặn nước: nó là một hệ sinh thái mong manh, một hệ thống vô giá mà bạn cần phải bảo vệ.”
Pianporn thêm rằng các đập chỉ “làm cho ảnh hưởng của thay đổi khí hậu thêm nghiêm trọng.”
“Chúng ta đang hủy diệt sông Mekong để sản xuất điện không ai dùng.  Tại sao thế?”  Pianporn hỏi, cho biết rằng việc sản xuất điện ở Thái Lan khiến cho 50% số điện thặng dư phải xuất cảng.
“Chúng ta cần phải phục hồi chức năng của sông để giảm nhẹ khủng hoảng hạn hán trong lưu vực sông Mekong.”

Trong một tuyên bố với Al Jazeera, Văn phòng MRC nói: “Cũng cần lưu ý rằng các đập trên phụ lưu cũng đóng một vai trò quan trọng giúp giảm bớt hạn hán.  Trong lúc hạn hán, các đập phụ lưu có thể xả nước từ hồ chứa vào dòng chánh để giảm nhẹ vấn đề.  Nhưng một số giới hạn về sản xuất điện trong các thỏa ước về việc mua điện phải được thảo luận.”

.

Wednesday, January 22, 2020

Trung Quốc dòm ngó sông Mêkông để tìm đường ra Biển Đông





Đập thủy điện Xayaburi có chiều dài 820 mét nằm trên đoạn sông Mêkông chảy qua Lào.  CK POWER / AFP

Thụy My

Mêkông, dòng sông huyền thoại của châu Á đang nằm trong tầm ngắm của Trung Quốc nhằm tìm đường ra Biển Đông. Đào đắp, xây đập… Bắc Kinh muốn tạo ra một tuyến đường thủy chiến lược, bất chấp sự phản đối của dân địa phương và các nhà sinh thái. AFP và Japan Times cho biết tại Thái Lan, cuộc đấu tranh diễn ra trên một chiều dài 97 kilomet.
Trên đoạn sông này, Trung Quốc muốn phá đi các ghềnh thác, nạo vét lòng sông cho sâu hơn để cho các tàu chở hàng khổng lồ có thể đi qua, thậm chí cả các chiến hạm.
Mục tiêu là nối tỉnh Vân Nam của Trung Quốc với vùng Biển Đông đang bị tranh chấp quyết liệt, bằng cách tăng cường kiểm soát « Mẹ của các dòng sông » - vốn từ cao nguyên Himalaya đổ xuống Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Cam Bốt và Việt Nam.

Với khẩu hiệu « Chia sẻ dòng sông, chia sẻ tương lai », Bắc Kinh biện minh không có ý định bành trướng, khẳng định các công trình lớn của mình chỉ nhằm phát triển bền vững cho dòng sông dài 5.000 kilomet. Nhưng dân địa phương và các nhà bảo vệ môi trường cảnh báo về các dự án nạo vét của Trung Quốc.
Họ tố cáo Bắc Kinh đã làm thay đổi hẳn sông Mêkông với việc xây vô số đập thủy điện, nhắm vào nhu cầu của một Đông Nam Á đang phát triển cả về kinh tế lẫn dân số. Theo họ, các con đập nhiều khi có kích thước rất lớn này có tác động trực tiếp lên dòng chảy của Mêkông, nguồn lợi thiên nhiên chủ yếu của gần 60 triệu dân Đông Nam Á.
Chỉ đứng sau Amazon, sông Mêkông là nơi có đa dạng sinh học thứ nhì thế giới, với 1.300 loài cá nước ngọt. Lòng sông hiện nay có mực nước thấp một cách bất thường, có những nơi lộ ra những khối đá màu đỏ quạch, vô số bãi cát với thảo mộc bắt đầu mọc lên.

Đất phù sa màu mỡ ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thì ngày càng nghèo đi, và trữ lượng cá giảm hẳn.
Những người muốn xây đập thủy điện lý luận rằng như vậy Bắc Kinh sẽ giảm lệ thuộc vào năng lượng hóa thạch vốn gây hiệu ứng hâm nóng khí hậu.
Cây số 1: Tam giác vàng
Tại làng Sop Ruak, đông bắc Thái Lan, khách du lịch chụp ảnh trước một tấm pa-nô đánh dấu lối vào « Tam giác vàng », vùng đất của dân buôn ma túy nằm vắt ngang Miến Điện, Lào và Thái Lan. Phía dưới là những tảng đá và bãi cát làm nên lòng sông Mêkông.
Chính tại đây Trung Quốc muốn khởi sự nạo vét trước tiên, để những chiếc tàu chở trên 500 tấn hàng có thể đi qua. Dọc theo hai bên bờ, có những nơi sẽ được biến thành « đặc khu kinh tế » với các cảng, các tuyến đường sắt và đường bộ giao nhau.

Zhang Jingjin, một người chuyên bán thang máy ở Bắc Kinh đi cùng với một nhóm khách du lịch phấn khởi nói: « Nếu nhiều tàu có thể đi ngang đây hơn, thì sẽ có thêm nhiều du khách, nhiều cửa hàng và cơ hội làm ăn ». Pianporn Deetes, thuộc tổ chức phi chính phủ International Rivers đáp trả: « Họ muốn biến sông Mêkông thành xa lộ hàng hóa ».

Trước mắt, các dự án của Bắc Kinh đang khựng lại. Sau gần 20 năm chiến đấu, các nhà đấu tranh sinh thái ở Thái Lan hồi tháng Ba đã khiến việc nạo vét 97 kilomet lòng sông bị tạm ngưng. Niwat Roikaew, một nhà hoạt động luôn trên tuyến đầu khẳng định với AFP, việc này sẽ gây thiệt hại khủng khiếp cho môi trường, an ninh thực phẩm và phương tiện mưu sinh của người dân. « Nạo vét quy mô như vậy sẽ tiêu diệt nơi cư trú và sinh sản của cá, chúng cũng khó tìm được thức ăn ».
Nhưng ông lo ngại chiến thắng này chỉ tạm thời, nhấn mạnh rằng những người dân địa phương phản kháng hiếm khi thắng được trước tham vọng của Trung Quốc, vốn coi Đông Nam Á như sân sau của mình. Bắc Kinh cũng đã ngự trị trên một số đoạn của dòng sông chảy qua Cam Bốt và Lào, hai nước đồng minh mà Trung Quốc đã đổ vào hàng tỉ đô la đầu tư.
Cây số 10: Nghề đánh cá sa sút
« Tôi đã giăng lưới hai lần trong hôm nay, nhưng chẳng thu hoạch được gì cả » - ngư dân Kome Wilai than thở. Dự án nạo vét ở đây cũng đã bị dừng lại. Người dân hai bên bờ thở phào nhẹ nhõm, họ nhận ra mực nước sông Mêkông thường hạ xuống 1,5 đến 3 mét một cách bất ngờ.
Theo họ, đó là do đập thủy điện Cảnh Hồng (Jinghong) của Trung Quốc ở thượng nguồn – một trong số 11 con đập được xây dựng trên phần sông Mêkông chảy qua Trung Quốc. Quận trưởng Prasong La On cho biết : « Mỗi khi Trung Quốc đóng cửa đập thì lại ảnh hưởng đến tất cả mọi người sinh sống dọc theo con sông ». Khi kiểm soát lưu lượng, Bắc Kinh sở hữu phương tiện gây áp lực đáng kể lên các nước láng giềng.

Đại sứ Trung Quốc tại Bangkok khi được hỏi đã trả lời rằng Trung Quốc không giữ lại nước trên thượng nguồn và « hết sức quan tâm » đến nhu cầu của các quốc gia hạ nguồn. Về phía China Water Risk, một tổ chức phi chính phủ Hồng Kông thì quy trách nhiệm cho Thái Lan, cũng đã xây dựng nhiều con đập trên sông Mêkông, chủ yếu tại Lào: « Trung Quốc chỉ kiểm soát 12% lượng nước sông Mêkông ».
Nước Lào nhỏ nghèo có tham vọng trở thành nguồn cung cấp điện năng cho Đông Nam Á, và đã cho phép những nước khác tài trợ vài chục đập thủy điện trên sông Mêkông và các nhánh sông.
Trung Quốc, Thái Lan, Lào, hậu quả luôn không thay đổi: lượng cá nước ngọt giảm mạnh, trong đó loại cá lóc khổng lồ của Thái Lan hầu như biến mất. Tạp chí Global Change Biology trong một nghiên cứu công bố hồi tháng Tư khẳng định như trên.
Cây số 45: Nơi loài cá sinh sản
Những tảng đá nối nhau chồng chất, nơi đây dòng nước ngày càng cuộn chảy nhanh hơn theo cùng với việc lòng sông thu hẹp lại. Cũng ở đây, các loài cá và chim thường chọn làm nơi sinh sản.

« Hệ sinh thái này là căn bản cho khu vực. Nhưng nay mực nước sông lệ thuộc vào việc mở cửa đập thủy điện Cảnh Hồng, và sinh sản tự nhiên không còn như trước nữa » - ông Niwat Roikaew than thở.
Về các loại tảo, thức ăn ưa thích của cá lóc khổng lồ, ngày càng ít và mọc lên chậm hơn. Tình hình này có thể gây hậu quả thảm hại cho hàng trăm kilomet hạ nguồn.

Biển Hồ (Tonlé Sap) ở Cam Bốt nối kết với sông Mêkông, đã bị ảnh hưởng. Hồ rộng mênh mông này là nguồn dự trữ protein chính của Cam Bốt, với nửa triệu tấn cá đánh bắt hàng năm – theo Bryan Eyler, giám đốc chương trình Đông Nam Á của Stimson Center, cơ quan tư vấn ở Washington và là tác giả cuốn « Những ngày cuối cùng của dòng sông Mêkông dũng mãnh ».

Về phía Việt Nam, đồng bằng sông Cửu Long bị đe dọa nhiễm mặn. Lượng phù sa bị giảm do các đập thủy điện trên thượng nguồn chận lại, nên nước mặn có thể xâm nhập vào.
Cây số 97: Kháng cự
Ở Huai Lek, một tảng đá cuối cùng chặn lại lòng tham của Bắc Kinh.
Thongsuk Inthavong, cựu trưởng thôn, quan sát phía bờ sông đối diện thuộc Lào. Những mảnh đất nhỏ lần lượt rơi vào tay các nhà đầu tư Trung Quốc, biến thành những trang trại rộng lớn trồng chuối. Bắc Kinh cũng mưu toan thâu tóm đất phía Thái Lan, nhưng vấp phải sự kháng cự. Thongsuk nói : « Trung Quốc coi chúng tôi như những món đồ chơi. Điều này làm tôi phẫn nộ, nhưng chúng tôi quyết bảo vệ dòng sông của mình cho đến cùng ».


Source:
http://www.rfi.fr/vi/vi%E1%BB%87t-nam/20200121-trung-qu%E1%BB%91c-d%C3%B2m-ng%C3%B3-s%C3%B4ng-m%C3%AAk%C3%B4ng-%C4%91%E1%BB%83-t%C3%ACm-%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng-ra-bi%E1%BB%83n-%C4%91%C3%B4ng

.

Monday, January 20, 2020

CÁ LƯU VỰC MEKONG BIẾN MẤT BÁO HIỆU KHÓ KHĂN SẮP ĐẾN Ở CAMBODIA



(Mekong basin's vanishing fish signal tough times ahead in Cambodia)

Zoe Osborne – Bình Yên Đông lược dịch
The Guardian – 16 December 2019

Cá từ Tonle Sap, hồ nước ngọt lớn nhất ở Đông Nam Á (ĐNA), 
nguồn chất đạm chánh của người dân địa phương. [Ảnh: Getty]


Mực nước sông xuống đến mức thấp kỷ lục trong khi đập được tiếp tục xây khiến hàng trăm chủng loại lâm nguy.

Tbong ngồi trong bóng mát của căn chòi xiêu vẹo bên mép hồ Tonle Sap, bao quanh bởi những đứa trẻ tò mò.  Anh nói trong khi nhíu mắt vì chói nắng, “Rắn, cá bông lau, cá mũi voi…  Trước đây, trước đây rất lâu… hồ có rất nhiều cá bông lau.”
Nhưng chỉ trong một thế hệ, tất cả mọi thứ đều thay đổi.  Các loại cá giảm sút, cây cối chết dần và toàn thể hệ thống Mekong đang tan rã.  Đối với bọn trẻ tụ tập chung quanh Tbong, một Tonle Sap phong phú chỉ có trong truyện.

Nằm ở trung tâm của hạ lưu vực Mekong, Tonle Sap là hồ nước ngọt lớn nhất ở ĐNA.  Hồ và vùng ngập lụt phụ cận trở thành khu bảo tồn sinh học của UNESCO trong năm 1997 và hồ cung cấp nơi gây giống, nuôi dưỡng và thu hoạch hàng trăm chủng loại cá và sản phẩm nước ngọt khác.


Tbong, bên phải, thường kể cho bọn trẻ câu chuyện về thời có vô số cá. 
[Ảnh: Zoe Osborne]


Nhưng năm nay, mực nước xuống đến mức thấp nhất lịch sử.

Marc Goichot, cố vấn trưởng của chương trình đại Mekong của WWF, nói: “Không chỉ có mực nước trên khắp hạ lưu Mekong xuống thấp chưa từng thấy kể từ khi thành lập Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) vào năm 1995, nước cũng trở nên xanh bất thường [vì mất phù sa lơ lững].  Màu xanh có thể tốt cho Biển Caribbean, nhưng đối với Mekong nó không tự nhiên và không tốt, đó là sự thay đổi lớn trong hệ sinh thái sẽ có ảnh hưởng rộng rãi như các loại thủy sinh mỏng manh dễ bị kẻ săn phát hiện, suy yếu bờ sông [và] đồng lúa, rừng đước và cá thiếu chất dinh dưỡng cần thiết.”

Trong khi khủng hoảng khí hậu làm vấn đề thêm nghiêm trọng – khiến cả Jeremy Clarson, hướng dẫn viên Grand Tour, cũng thừa nhận ảnh hưởng của khủng hoảng khí hậu lần đầu tiên – các khoa học gia đã cảnh báo về những thay đổi trong lưu vực Mekong từ nhiều thập niên trước.

Ý tưởng xây đập trên hạ lưu Mekong bắt đầu từ chiến tranh lạnh khi Hoa Kỳ, Sô Viết và Trung Hoa bắt đầu xem thủy điện như một tiềm năng chiến lược để phát triển kinh tế.  Nó được thúc đẩy mạnh mẽ vào đầu thập niên 2000s.  Vào lúc đó, MRC ước tính rằng 4 quốc gia thành viên của nó – Cambodia, Việt Nam, Lào và Thái Lan – có thể được lợi lên đến 30 tỉ USD.


Châu thổ Mekong ở Cambodia chụp trong tháng 1 năm 2016.  
Hồ Tonle Sap ở góc trên bên trái. 
[Ảnh: NASA]


Nhưng nhiều năm sau, MRC duyệt xét lại dự đoán của mình, nói rằng những mất mát môi trường liên quan đến các đập vượt quá mọi lợi ích.

Mặc cho những cảnh báo, Trung Hoa nay vận hành 8 đập khổng lồ và các quốc gia hạ lưu Mekong quyết tâm với các kế hoạch thủy điện của họ.  Chỉ ở Lào và Cambodia mà thôi, hơn 140 đập được dự trù trên dòng chánh và các phụ lưu.
Bằng cách chia sông Mekong thành nhiều hồ chứa, các đập thủy điện ngăn chận dòng nước giàu phù sa chảy xuống hạ lưu, thay đổi hình dạng và chiều sâu của đáy và bờ sông.  Từ năm 1992 đến 2014, phù sa lơ lững trong lưu vực Mekong đã giảm trên ½ , theo WWF.

Khi phù sa bị ngăn chận, nước biển bắt đầu xâm nhập sâu hơn vào đất liền, đe dọa hệ sinh thái nước ngọt mong manh [Lời người dịch: Điều nầy không đúng.  Phù sa không có quan hệ gì với sự xâm nhập của nước mặn.]  Sông ngoạm vào bờ và đáy sông để thay thế phù sa, làm cho vấn đề thêm nghiêm trọng, và việc khai thác cát đào hết phần còn lại.
Các đập cũng ngăn chận sự di chuyển của khoảng 160 chủng loại cá trong lưu vực Mekong sống nhờ di chuyển xa.

Goichot nói: “Chúng cần di chuyển xa về thượng lưu (bắc Lào) để sinh sản, và cá con cần trở lại các cánh đồng lụt bao la ở châu thổ Mekong và hồ Tonle Sap để trưởng thành.  Bất cứ trở ngại nào cho việc di chuyển sẽ có cơ hội đưa đến tuyệt chủng.”

Đập trên sông Mekong có ảnh hưởng tiêu cực đến sự di chuyển của cá tra dầu. 
[Ảnh: Zeb Hogan/EPA]

Các chủng loại lớn hơn di chuyển xa hơn và bị ảnh hưởng nặng nhất.  Năm 2010, con số cá tra dầu Mekong giảm 90% trong một thập niên.
“Cá bông lau Siam, từng hiện diện trong khu vực trước đây, bị tuyên bố tuyệt chủng năm 2013.  Trong số 692 chủng loại cá nước ngọt được biết trong lưu vực Mekong, 68 (10%) bị đe dọa tuyệt chủng toàn cầu và 22 (3%) gần tuyệt chủng,” MRC ghi chú trong phúc trình Tình trạng Lưu vực 2018.

Sự sụt giảm không chỉ do thay đổi môi trường.  Thị trường chợ đen cá nước ngọt Tonle Sap là mối kinh doanh quốc tế phát triển mạnh.
Đó rõ ràng là một chủ đề nhạy cảm khi nói về Tonle Sap.  Không ai muốn đề cập đến.  Các chủ tàu không rõ cái họ làm để kiếm sống, người bán ở chợ không nhớ giá cá, và một vài người không nhớ nơi họ lấy cá.  Đó là vì họ không biết chắc cá được đánh bắt hợp pháp hay không.

Siem Reap chảy vào hồ Tonle Sap năm 2013.  
Mực nước sông Mekong xuống đến mức thấp kỷ lục trong năm nay.  
[Ảnh: David Wall/Alamy Stock]

Nhiều thủ phạm là dân địa phương, thôi thúc bởi tuyệt vọng.  Tổ chức Lương Nông Thế giới của Liên Hiệp Quốc cho biết nhiều phương pháp bất hợp pháp, gồm có chất nổ, lưới điện, thuốc độc, và lưới lớn trái phép.
Người dân cũng thường vi phạm lệnh cấm đánh cá từ tháng 6 đến tháng 10 ở nhiều vùng để cá có thể sinh sản.
Một số cá lớn hơn bắt được từ Tonle Sap được đưa sang Việt Nam, nơi cá to được xem là mang lại may mắn và tăng cường sinh lý.  Việc buôn bán cá nầy bị cấm bởi luật pháp quốc tế và luật lệ của Cambodia và Việt Nam, nhưng việc thi hành rất lỏng lẻo.  Con buôn người Việt mua cá từ ngư dân ở Tonle Sap với giá cao để cung cấp cho các nhà hàng đặc sản ở trong nước.

Ảnh hưởng của thị trường chợ đen, cùng với việc xây đập, khai thác cát và các hoạt động khác của con người đang càng ngày càng rõ hơn.
Là một trong những quốc gia sản xuất cá sông lớn nhất trên thế giới, Cambodia phần lớn dựa vào sông Mekong để bảo đảm lương thực.  Trên khắp hạ lưu vực Mekong, phần chất đạm trong chế độ ăn uống trung bình đến từ cá nước ngọt nhiều gấp 2,2 đến 8,6 lần trị số trung bình của thế giới.

Đối với người dân sống gần Tonle Sap, cá thường không mất tiền nhưng nay họ phải mua, với giá càng ngày càng tăng.  Theo một người bán cá ở chợ Siem Reap, Vannak, giá cá đã tăng gấp đôi trong vài năm.  “Năm hay 10 năm trước [chúng tôi mua] 1 kg với 4.000 hay 5.000 riel (1,2 USD).  Nay, cá – “trey rors”, một thức ăn chánh ở địa phương – giá 10.000 1 kg.”  Ông vừa nói vừa chỉ vào cá đang nướng.


Các cộng đồng lân cận thường bắt cá miễn phí từ Tonle Sap, 
nhưng nay hầu hết phải đi mua với giá ngày càng tăng. 
[Ảnh: Zoe Osborne]

Tbong nhớ lúc anh có thể giăng lưới trong rừng đước và cá sẽ vướng vào.  “Nay, khi tôi đánh cá không chỉ 1 ngày, 2 ngày [và rồi] tôi đi về.  Tôi phải ở giữa hồ từ 10 đến 15 ngày.”  Anh cho biết.
Khi cá thiên nhiên càng ngày càng khan hiếm, ngư dân xây ao nuôi cá trong một phần của hồ, trong khi người dân Cambodia quay qua các nguồn chất đạm thay thế.  Nhưng các nguồn chất đạm nầy cũng có ảnh hưởng sinh thái đáng kể.

Goichot nói: “Các nguồn khác, có thể là thịt bò, đậu nành hay cá nuôi, tất cả đều sử dụng đất và nước [và] chúng gây ô nhiễm.  Điều đó có nghĩa là sản xuất chất đạm sẽ tạo thêm áp lực cho đất, và sẽ thúc đẩy việc phá rừng [và] sự cạnh tranh sử dụng nước giữa sản xuất và gia dụng.”
Cái đang xảy ra ở Tonle Sap là một dấu hiệu rất thực tế cho cái sẽ đến trong toàn thể lưu vực Mekong nếu tài nguyên vẫn tiếp tục được khai thác bừa bãi.  Mặc cho cảnh báo của chuyên viên, hành động đáp ứng diễn ra rất chậm.

Ngư dân ở Tonle Sap nói cá thiên nhiên ngày càng khan hiếm. 
[Ảnh: Zoe Osborne]


Goichot nói: “MRC tương đối thành công trong việc thu thập kiến thức, nhưng không mấy thành công trong việc tìm kiếm điểm chung hay thống nhất về các quyết định quan trọng, đặc biệt là thủy điện và quản trị phù sa.”

Một vài chiến lược đã hiện hữu.  Thủ tướng Việt Nam vừa ký Nghị quyết 120 trong năm 2017, mô tả viễn cảnh cho việc phát triển khả chấp Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2100.  Và các tổ chức môi trường tiếp tục thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa chánh phủ và thành phần doanh nghiệp.

Qua sáng kiến Phục hồi Châu thổ Á Châu (Resilient Asia Deltas), WWF cùng làm việc để bảo đảm đầu tư chánh trị và tài chánh cho “việc xây dựng thiên nhiên” khi hoạch định phát triển.  Trong một sáng khiến khác, tổ chức nầy cũng tìm cách để thực hiện một chiến lược về quản lý nước.

Goichot nói: “Điều nầy nhằm mục đích để kỹ nghệ có hành động tập thể và góp phần vào việc đối phó với các thách thức của sông bên ngoài hàng rào của họ và cuối cùng có ảnh hưởng tích cực đến việc quản lý các hệ thống sông.”

Rừng đước ở Tonle Sap năm 2016.  
Rừng đước bị đập cướp đi nước giàu chất dinh dưỡng. 
[Ảnh: Panther Media/Alamy]

Cách quản lý nầy không chỉ khẩn thiết cho tương lai của Mekong, nó khuyến cáo.  Theo một nghiên cứu của MRC thực hiện từ 2012 đến 2017, sinh khối (biomass) sẽ giảm từ 35-40% vào năm tới nếu không có hành động.
“Phát triển thủy điện đến 2040 sẽ khai trừ di ngư trong phần lớn lưu vực Mekong.  Không có chủng loại di ngư Mekong nào có thể sống sót trong hồ chứa của đập dự trù vào năm 2020 và 2040,” phúc trình cảnh bó trong phần tóm lược.

Goichot kết luận: “Hệ sinh thái Mekong rõ ràng đang trải qua những thay đổi quan trọng rất đáng quan tâm; chúng ta còn cách khủng hoảng to lớn bao xa?”

.

MẸ MEKONG VÀ THÁCH THỨC MỚI



(Mekong the Mother and the New Challenge)

Sok Saing Im and Watt Botkosal – Bình Yên Đông lược dịch
ACADEMIA – DECEMBER 2019


Phần giới thiệu


Sông Mekong, cũng được biết dưới tên sông Cái hay sông Mẹ, bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng ở Trung Hoa và chảy qua 6 quốc gia.  Sau khi len lỏi qua các rặng núi cao ở Vân Nam, Mekong ra khỏi Trung Hoa để trở thành biên giới Myanmar-Lào và Lào-Thái Lan rồi xuyên qua thác Khone khi chảy vào Cambodia.  Từ thị trấn Kratie ở Cambodia, sông Mekong chảy vào vùng châu thổ nơi nó nối với hệ thống Tonle Sap-Biển Hồ và Bassac tạo nên một hệ thống điều hòa lũ lụt tự nhiên đặc thù và phong phú sinh học của thế giới.

Bằng chứng cho thấy con người đã định cư trong lưu vực từ 6.000 năm trước, nhưng dù lưu vực có một lịch sử lâu dài, ảnh hưởng của con người không đáng kể.  Không giống như các sông lớn khác trên thế giới như sông Nile và Yangtze với nền văn minh cỗ đại, các thành phố lớn như Phnom Penh và Vientiane là những thành phố tân thời.  Văn minh Angkor là một ngoại lệ nơi mà những người xây dựng cùng lúc xem Mekong như nguồn tài nguyên sanh tử và mối đe dọa, một con đường được quân thù sử dụng.  Chưa bao giờ họ có ý định chế ngự hay sử dụng tài nguyên Mekong.

Người dân trong lưu vực sông Mekong tương đối nghèo hơn người dân trong các lưu vực kế cận như Chao Phraya, Yangtze hay sông Hồng.  Việc đi lại đến các vùng xa xôi không được cải thiện cho đến khi nhiều đường sá được mở ra ở Thái Lan và Lào, nơi mà trước đây sông là con đướng mậu dịch quan trọng duy nhất.

Từ xưa, nguồn tài nguyên hùng vĩ của Mekong được nhiều người bên ngoài biết đến, người Âu Châu từ đầu thế kỷ 16th, lưu tâm ban đầu chú trọng về thủy vận nhất là đường đến Trung Hoa được thực dân Pháp mô tả.  Cuộc thám hiểm 1866-1868 do Carne cầm đầu cuối cùng đến Vân Nam nhưng không thể tìm được nguồn của sông Mekong.  Kinh nghiệm của các cuộc mạo hiểm nầy, khi được nhắc lại ở Paris, cho thấy độ dốc nguy hiểm của sông và ý nghĩ ngông cuồng cho rằng nó là con đường dễ dàng để đi đến Trung Hoa.  Với kiến thức nầy, ước vọng của người Pháp quay sang những con đường vào nội địa khác, nổi tiếng là sông Hồng.  Lưu tâm nầy bị hạn chế vì ranh giới hành chánh giữa các quốc gia có chủ quyền ở trong vùng.  Trong đầu thập niên 1950s, 3 quốc gia Đông Dương thuộc Pháp được trao trả độc lập.  Các chánh phủ mới phải gánh trách nhiệm nặng nề để cai quản và tái thiết đất nước của họ.

Phát triển Mekong

Sau khi được độc lập, các quốc gia Đông Dương cùng với Thái Lan thiết lập Ủy ban Mekong để điều tra nguồn nước và tài nguyên liên hệ của hạ lưu vực Mekong.  Mekong không chỉ được xem như một thủy lộ hay biên giới mà còn là cơ hội đầu tư trong việc phát triển nguồn nước và tài nguyên liên hệ, một mục tiêu thương mại.  Lợi dụng ưu thế của tiềm năng khổng lồ về thủy điện, thủy nông (vào lúc các dự án được cứu xét, chỉ có dưới 3% đất canh tác được dẫn tưới), thủy vận và ngừa lụt và, kiến thức khoa học dựa trên dữ kiện vừa thu thập, hoạt động quy hoạch phát triển được phát động mạnh mẽ.  Đó là thời kỳ mộng lớn của lãnh đạo, kỹ sư, kế hoạch gia trong khu vực và trên khắp thế giới.  Ngoài các quốc gia duyên hà, các dự án Mekong còn được các tổ chức quốc tế (kể cả 12 tổ chức của Liên Hiệp Quốc) và 21 quốc gia khác tham gia.  Các kế hoạch thực dụng phát sinh từ “Tinh thần Mekong” phản ánh hy vọng của người dân dự phần vào quyết tâm kỹ thuật để cải thiện cuộc sống của người dân trong 4 quốc gia duyên hà (Giáo sư Hiroshi Hori và Bob Stenholt, 1999 trong Nancy Hudson-Rodd).  Dựa trên dữ kiện khoa học mới thu thập về dòng chánh Mekong, các phụ lưu và hạ lưu vực, trên 70 dự án đã được xác định vào năm 1969 (đập, nhà máy điện, nông trại kiểu mẫu, khảo sát đất đai, cầu cống, hệ thống dẫn thủy, tiên đoán và ngừa lụt, thủy vận, v.v.  Trong đầu thập niên 1970s, 3 đập được hoàn tất, 2 ở đông bắc Thái Lan (Nam Pung và Nam Pong) và 1 ở nam Lào (Hạ Sedon) với hoạt động ở nhiều giai đoạn khác nhau diễn tiến ở các nơi khác.

Có hơn 50 dự án khác được đặt tên, chấm gạch hay khoanh tròn trên bản đồ mà trong vài năm hay vài chục năm tới sẽ trở thành thị trấn, đập, cầu cống hay hệ thống dẫn thủy, đường sá, nhà máy, đất canh tác mới (Wilson. 1973:54 trong United Nations Universities, 1990).  Niềm lạc quan vô hạn được bày tỏ đối với những lợi ích từ các kế hoạch phát triển to lớn nầy.  Tuy nhiên, dự án phát triển quốc tế đầy tham vọng nầy đã gặp nhiều trở ngại, và Ủy ban Mekong than phiến rằng việc tìm kiếm nguồn tài trợ cho các kế hoạch càng ngày càng khó.  Công tác của dự án bị trì trệ vì chiến tranh Đông Dương leo thang.

Giấc mơ phát triển liên tục cho người dân trong lưu vực Mekong cũng bắt đầu lu mờ vì lo ngại hậu quả cho con người và sinh thái của vài dự án.  Vào thập niên 1980s, một lượng định phát triển cho thấy rằng không có một kế hoạch nào trong số 16 kế hoạch trên dòng chánh được hoàn tất và chỉ có 16 trong số 180 kế hoạch được đề nghị cho toàn lưu vực được thực hiện, với đa số ở đông bắc Thái Lan (Nam Pong, Nam Oon, Nam Pung, Lam Pao, Lam Pra Pleang, Lam Ta Kong, Nam Phrom, và Lan Don Noi) và 2 ở Lào (đập Selabam và Nam Dong) (United Nations, 1984:48).

Nhưng mới đây, sau sáng kiến ECAFE [Economic Commission of Asia and the Far East (Kinh Ủy Á Châu và Viễn Đông)] 4 thập niên, 4 quốc gia thành viên (Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam) đã thương thảo một Thỏa ước mới.  Thỏa ước nầy được ký kết vào năm 1995 và được gọi là Thỏa ước Mekong 1995, giấc mơ đập một lần nữa đến với chúng ta trong khi việc tài trợ quốc tế cho các dự án hạ tầng cơ sở có qui mô lớn càng ngày càng bị áp lực của quần chúng, và phong trào môi trường ở Thái Lan lên tiếng chống đối các dự án thủy điện trong lưu vực Mekong.  Viễn tượng của việc xây cất chuổi hồ chứa khổng lồ trên dòng chánh lu mờ, và tình trạng thiếu nước trong mùa khô là mối bận tâm.  Để bảo vệ kế hoạch cho các dự án chuyển nước qui mô lớn, mặc dù Cambodia, Lào và Việt Nam chống đối, Thái Lan không muốn phục hồi hợp tác theo nguyên tắc của thông cáo chung 1975 (Browder, 2000).  Họ lo ngại rằng một vài nguyên tắc trong thông cáo chung – phải có sự chấp thuận trước của các quốc gia thành viên trước khi sử dụng nước trong dòng chánh và xem các phụ lưu chánh tương tự như dòng chánh – có thể làm trì trệ 2 dự án đại qui mô (Kok-In-Nan và Khong-Chi-Mun) và muốn có một vai trò nhỏ hơn cho Chế độ Mekong (Mekong Regime).  Mặt khác, Việt Nam cảm thấy Ủy ban Mekong Lâm thời quá hạn chế cho việc phát triển thêm các nguồn nước.  Vào giữa năm 1992, mặc dù tất cả các quốc gia thành viên đều muốn duy trì Chế độ Mekong, ý tưởng về cơ cấu, vai trò và trách nhiệm rất khác nhau từ quốc gia nầy đến quốc gia khác.

Phải mất 2 năm thương thảo gay go để 4 quốc gia thành viên đạt được thỏa thuận.  Tất cả 4 quốc gia thành viên đều muốn duy trì Chế độ Mekong nhưng ý tưởng về cơ cấu, vai trò và trách nhiệm khác nhau rất xa.

Thỏa ước Mekong 1995 tạo một khuôn khổ hợp tác để các quốc gia thành viên cộng tác với nhau hầu đạt đến phát triển khả chấp cho toàn lưu vực.  Mỗi quốc gia thành viên cần được bảo đảm quyền lợi tối thiểu từ sông Mekong.  Thí dụ, Cambodia xem việc bảo tồn hệ thống Tonle Sap là tối quan trọng và Việt Nam xem việc duy trì lưu lượng trong mùa khô hiện nay là thiết yếu.  Một khí cụ hỗ trợ đã được phát triển qua chường trình Sử dụng Nước, gồm có Khuôn khổ Hỗ trợ Quyết định (Decision Support Framework (DSF)), các bộ luật để duy trì lưu lượng trong dòng chánh Mekong và nghiên cứu vấn đề xuyên biên giới.  Một số lớn kiến thức đã được thu thập để phát triển khí cụ và “Quản trị Lưu lượng Hỗn hợp (Integrated Flow management))”.  Các khí cụ và kiến thức mới sẽ giúp đẩy mạnh tiến trình quy hoạch các dự án hỗn hợp.  Ngoài ra, cũng cần có thông tin và dữ kiện khoa học phức tạp mới, phân tích, trao đổi và chia sẻ đúng lúc cũng như nhu cầu trau dồi khả năng để quản lý toàn thể hệ thống một cách phối hợp và toàn thể.  Trong ánh mắt của đa số quần chúng tham gia vào giấc mơ Mekong, câu hỏi lớn nhất của họ là điều gì sẽ xảy đến.

Những thách thức

Dân số của lưu vực đã tăng từ khoảng 20 triệu người trong đầu năm 1970 đến 55 triệu hiện nay và được ước đoán vào khoảng 75 đến 90 triệu vào năm 2050.  Đa số dựa vào nông nghiệp để sinh sống.  Lúa là hoa màu chánh của hầu hết nông dân, với 80-90% nông dân chuyên trồng lúa.  Trong những năm gần đây, nền kinh tế của Cambodia, Lào và Việt Nam bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường và tự do mậu dịch.  Các nước nầy được kỹ nghệ hóa hơn như đã xảy ra ở Thái Lan từ 20-30 năm trước.  Những thay đổi nầy rất quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống, lợi tức và mức nghèo của người dân sống trong vùng.

Nghèo khó rất phổ biến và lan tràn khắp hạ lưu vực Mekong (Lower Mekong Basin (LMB)).  Nghèo khó là người nghèo tận mạng không có tài sản, cơ hội hay lợi tức.  Giảm nghèo là một ưu tiên trong các chánh sách phát triển kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia LMB, đặc biệt là ở quốc gia nghèo nhất, nơi phần lớn dân số lệ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên khiến cho quản lý hệ sinh thái trở thành một công việc đầy thách thức.  Ảnh hưởng đối với tài nguyên thiên nhiên trong khu vực được ước tính gia tăng theo thời gian.  Trong suốt 50 năm qua, một số rừng quan trọng đã cạn kiệt, hầu hết ở đông bắc Thái Lan, Lào và với một tốc độ chóng mặt ở Cambodia.  Những tài nguyên nầy hầu hết được sử dụng bên ngoài khu vực hay ở các thành phố thủ đô.

Thỏa ước 1995 chuyển trọng tâm trong lưu vực từ các dự án đại qui mô sang sự hợp tác để phát triển khả chấp và sử dụng bình đẳng tài nguyên thiên nhiên (MRC, 1995).  Quy hoạch phát triển lưu vực hộ trợ mạnh mẽ sự tham gia của cộng đồng vào việc quản lý tài nguyên thiên nhiên của lưu vực.  Các phương thức gồm có: (i) thực hiện các quyền lợi lưu vực trong khi cứu xét đến quyền lợi quốc gia; (ii) cân bằng các cơ hội phát triển với bảo tồn tài nguyên; (iii) sự tham gia rộng rãi của quần chúng; chia sẻ kinh nghiệm và trau dồi khả năng.  Kế hoạch bao gồm các chủ đề môi trường, phát triển nhân lực, kinh tế xã hội, giảm nghèo, bình đẳng giới tính và sự tham gia của quần chúng (MRC, 2003).  Các chương trình khác như môi trường, ngư nghiệp, thủy vận, trau dồi khả năng và nông nghiệp, và dẫn thủy nhập điền và lâm nghiệp cũng được cam kết thực hiện trong Thỏa ước Mekong 1995.  Kế hoạch Phát triển Lưu vực là chương trình then chốt của Thỏa ước Mekong 1995. Do sự phức tạp của việc phát triển và quản lý nguồn nước trong LMB; một phương thức chung rất cần thiết từ cộng đồng đến quốc gia và khu vực.  Để thỏa mãn nhu cầu phát triển của mình, các quốc gia thành viên cần thực hiện nhiều dự án và chương trình.  Việc quản lý, quy hoạch và thi hành trong mỗi nước thường được phân phối đến các bộ phận khác nhau trong các bộ liên hệ.  Quy hoạch quốc gia thường được thực hiện mà không được phối hợp với các bộ phận khác.

Ở cấp tổ chức, các quốc gia thành viên ở các cấp phát triển khác nhau nhưng nói chung đều mới trong lãnh vực nầy mặc dù vài quốc gia đã ở trong giai đoạn cao hơn trong việc phát triển nguồn nước.  Việc thực thi Quản trị Nguồn nước Hỗn hợp (Integrated Water Resources Management (IWRM)) càng phức tạp hơn trong lưu vực Mekong vì sự kém hiểu biết về động lực của sông, hệ sinh thái dòng nước và sự lệ thuộc vào chế độ dòng chảy (Campell, trong Juha et al., 2005).  Điều nầy đưa đến nhiều hạn chế và bất định nghiêm trọng trong việc lượng định ảnh hưởng môi trường.

Dựa trên các mốc chuẩn cho “IWRM tốt” được đề nghị trong (Millington, 2004 trong MRC, 2005, Đường hướng Chiến lược cho IRWM trong LMB):

·        Khuôn khổ cơ chế và pháp lý với trách nhiệm rõ ràng – thiết lập việc quản lý đạo đức và có trách nhiệm
·        Quy hoạch và quản trị theo kiến thức, với việc chia sẻ thông tin công khai
·        Sự tham gia của cộng đồng và các bên có liên quan – hợp tác giữa chánh phủ và cộng đồng trong phương thức hỏi đáp để phát triển
·        Các chánh sách và chương trình hỗn hợp và phối hợp giữa các bộ phận, quốc gia, quyền lợi mâu thuẫn của các bên có liên quan và các cấp của chánh phủ.

Mặc dù có vài tiến triển, các quốc gia thành viên MRC vẫn còn một đoạn đường dài để hoàn tất “IRWM tốt”.

Đập Pak Mun là một thí dụ cho thấy độ phức tạp của việc thực hiện IWRM ngay bên trong biên giới quốc gia.  Người nghèo có cuộc sống dưới mức nghèo khó là người đầu tiên bị thiệt từ các ảnh hưởng tiêu cực.

Cùng lúc, người điều hành ở cấp quốc gia và khu vực có khuynh hướng quên đi bài học Sesan.  Trong trường hợp nầy, không rõ MRC và các quốc gia trực tiếp quan tâm có cứu xét vấn đề một cách lỹ lưỡng và biến nó thành một bài học cho việc quy hoạch và quản lý trong tương lai.

Xây dựng đạo đức Mekong

Nước là một vấn đề khẩn thiết cần được giải quyết lập tức bởi tất cả mọi người.  Nói cho cùng, toàn thể xã hội phải góp phần.  Việc thiết lập một số nguyên tắc hướng dẫn và các luật lệ tiếp theo không thể xem như chấm dứt.  Nhưng có nhu cầu biến cam kết thành hành động trong việc tìm kiếm một mô hình để dùng như một mũi nhọn khoa học của thiên niên kỷ, thúc đẩy bởi lương tâm và đạo đức, và tụ tập tất cả các chuyên viên trong mọi lãnh vực.  Điều nầy cần có những nỗ lực hợp tác quốc tế rộng rãi để tụ tập các khoa học gia và nhà nghiên cứu trên toàn cầu và trong khu vực Mekong kể cả công chúng.  Đạo đức của việc quản lý tài nguyên thiên nhiên trong lưu vực Mekong phải tiến đến cân bằng và bình đẳng tương tự như tối ưu hóa khu vực.  Lý lẽ khoa học đóng một vai trò rõ ràng, nhưng nó không cho biết đầy đủ sự chọn lựa trong việc phân phối tài nguyên hay giải quyết xung đột liên hệ (Tue Kell Nilsen, 2003).

Di sản văn hóa phong phú của khu vực phải được dùng để thực hiện IRWM tốt cùng với sự tham gia đầy đủ của tất cả người dân LMB để bảo đảm cho tương lai khả chấp của nguồn nước trong khu vực.

Kết luận và đề nghị

Thỏa ước Mekong 1995 đáp ứng lòng mong đợi của người dân trong lưu vực để thực hiện một lưu vực sông thịnh vượng kinh tế, công bằng xã hội và lành mạnh môi trường.  Nghệ thuật và thực tiễn của việc phân phối đồng đều và sử dụng nguồn nước ngọt cho tất cả mọi người trong thế kỷ 21st, một quyền căn bản và nghĩa vụ quốc tế, là mẹ của tất cả các vấn đề đạo đức của tất cả tài nguyên xuyên biên giới có giới hạn.  Mẹ Mekong đã có công cho nhiều thế hệ của chúng ta một cuộc sống thanh bình phải không bị quên lãng vì phát triển thiếu phối hợp và nguy hại.  Là người dân, chúng ta có nhiều khác biệt nhưng dòng sông và hệ sinh thái của nó chỉ có một, Mekong và hệ sinh thái của nó rất đặc thù trên thế giới và chúng ta phải sử dụng đúng đắn theo những nguyên tắc và tinh thần tốt đẹp nhất.

Cảm tạ

Các tác giả thành thật cảm ơn nhân viên trong Ủy ban Mekong Quốc gia Cambodia ở các Bộ liên hệ đã hỗ trợ và phê bình xây dựng cho bài viết nầy.

Tài liệu tham khảo

1. Claudia Ringler, 2001. Optimal Allocation and Use of Water Resources in the Mekong River Basin: Multi-Country and Inter-sectoral Analyses.
2. Browder, 2000. Thesis : The Mekong Negotiation (1992-1995) on Mekong Agreement for MRC, USA.
3. Lord Osborne, 2000. L’ethique de l’utilization de l’eau douce: Vue d’ensemble, UNESCO.
4. Matti Kummu, Juha Sarkkula, Jorma Koponen and Jussi Nikula, 2005. Ecosystem Management of Tonle Sap Lake: integrated modeling approach.
5. MRC, 1995. Agreement on cooperation for sustainable development of the Mekong River basin, Mekong River Commission, Bangkok, Thailand.
6. MRC, 2003. State of the Basin Report, Mekong River Commission, Phnom Penh, Cambodia.
7. MRC, 2005. Strategic Directions for IWRM in Lower Mekong Basin, MRCS, Vientiane, Lao PDR.
8. Nancy Hudson-Rodd: River Dreams: The Mekong River.
9. United Nations, 1984. Interim Committee for coordination of investigation of the Lower Mekong Basin, Annual Report. Bangkok: United Nations, Thailand.
10. Tue Kell Nielsen, 2003. River Basin ethics in the context of the Lower Mekong Basin, Chiang Mai, Thailand.
11. United Nations Universities, 1990. Towards Cooperative utilization and coordinated management of international rivers.

.