Wednesday, February 26, 2020

- Hướng tới Ngày Nước Thế Giới 2020


HƯỚNG TỚI NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020
VỚI CHỦ ĐỀ NƯỚC VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
MỘT ĐBSCL Ô NHIỄM GIỮA MÙA HẠN MẶN


Water, water, everywhere,
Nor any drop to drink
Nước, nước, khắp nơi,
Không có giọt nước uống
[Samuel Taylor Coleridge 1772-1834]

Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Ngô Thế Vinh

OoO

HẠN MẶN VÀ Ô NHIỄM 13 TỈNH MIỀN TÂY

Trên một chuyến phà lớn từ Đại Ngãi qua Cù lao Dung, sóng đánh tung toé, khách như cảm thấy được vị mặn bám đọng trên môi. Thấy nước khắp nơi nhưng là nước mặn đã xâm nhập vào khắp các ngả sông rạch và người dân thì đang lao đao lùng kiếm tìm mua từng lu nước ngọt để uống. Rồi còn phải kể tới những cánh đồng lúa cháy và các vườn cây trái thối rễ do đất bị nhiễm mặn khiến nhiều nông gia mất trắng tay.
Người bạn đồng hành đứng bên, anh dạy Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Đại học Cần Thơ, nói với tôi: “Kể cả có lũ ngọt đổ về, nước hết mặn cũng không uống được vì dòng sông quá ô nhiễm”. Do chất thải kỹ nghệ từ các nhà máy ven sông, do phân bón hoá học từ đồng ruộng tràn ra, và tệ hại hơn nữa là rác rưởi từ các khu gia cư.
Đó là tình cảnh của ngót 20 triệu cư dân Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), phải sống chung với những dòng sông ô nhiễm, và nay họ đang nhận thêm được những tín hiệu báo nguy về hạn mặn sẽ trầm trọng hơn năm 2016 và tới sớm hơn ngay từ hai tháng đầu năm 2020. Do đó, cho dù có thấy “nước, nước, khắp mọi nơi, vậy mà không có giọt nào để uống”. Cho dù ĐBSCL vẫn là nơi nhận nguồn nước cao nhất Việt Nam tính theo dân số. Tuy nước vây bủa xung quanh nhưng là nước bẩn hay nước mặn. Thách đố lớn nhất là làm sao thanh lọc được nguồn nước tạp ấy để có nước sạch đưa vào sử dụng.
Với tầm nhìn qua lăng kính vệ tinh và biến đổi khí hậu, vùng châu thổ Mekong là hình ảnh khúc phim quay chậm / slow motion của một con tàu đang đắm. Một cái chết rất chậm nhưng chắc chắn của một dòng sông Mekong dũng mãnh – lớn thứ 11 trên thế giới với hệ sinh thái phong phú chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon và cả một vùng châu thổ ĐBSCL đang từ từ bị nhấn chìm.

NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI 2020

Không thể tách rời vấn đề Nước và Biến đổi Khí hậu toàn cầu. Đó cũng là quan điểm của Liên Hiệp Quốc, khi chọn chủ đề “Nước và Biến đổi Khí hậu” cho Ngày Nước Thế giới 22/ 03/ 2020 năm nay.
Trước những tình huống cực đoan và biến đổi bất thường về khí hậu có thể làm gia tăng biến thiên chu kỳ nước – water cycle, khiến rất khó mà tiên đoán được về nguồn nước có thể sử dụng – water availability, với những ảnh hưởng trên phẩm chất nước, cả trên tính đa dạng sinh học / biodiversity, và đe doạ sự phát triển bền vững trên nhiều lưu vực của các con sông.
Dân số toàn cầu từ 7.2 tỷ năm 2015 đến nay 2020 – theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, đã vượt qua con số 7.7 tỷ người. Tăng dân số cũng có nghĩa là gia tăng nhu cầu nước, kéo theo gia tăng nhu cầu năng lượng để bơm nước, vận chuyển và xử lý nước – water treatment. Tận dụng nguồn nước cũng dẫn tới sự suy thoái các hồ chứa carbon thiên nhiên – carbon sinks từ các vùng đất đầm lầy.

Tăng cường mối quan tâm về nước để đáp ứng nhu cầu nước ngày một gia tăng trong tương lai; điều ấy đòi hỏi phải có những quyết định mạnh mẽ, làm cách nào để phân chia các nguồn tài nguyên nước – allocate water resources, thích nghi với biến đổi khí hậu giữa những tranh chấp sử dụng nguồn nước giữa các địa phương và các quốc gia.
Một ví dụ điển hình: con sông Mekong dài hơn 4800 km chảy qua 7 quốc gia [Tây Tạng*, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam] giữa mùa khô hạn, đang bị tận lực khai thác bởi chuỗi những con đập thủy điện thượng nguồn, và làm cách nào để chia sẻ và sử dụng công bằng nguồn nước từ con sông Mekong đang là một “tranh chấp nóng” diễn ra hiện nay. Khi mà Cambodia và Việt Nam là hai quốc gia cuối nguồn đang chịu những hậu quả tích luỹ nặng nề nhất: một Biển Hồ như trái tim của Cambodia đang thiếu nước, một ĐBSCL chịu hạn mặn chưa bao giờ khốc liệt như thế. Chưa kể tới khả năng nước lớn Trung Quốc sử dụng con sông Lancang-Mekong như một thứ vũ khí trong cuộc chiến tranh môi sinh – ecological warfare trừng phạt Việt Nam và các nước hạ lưu khác.
[* Tây Tạng nơi phát nguồn con sông Mekong, về phương diện địa dư chính trị, bấy lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm chiếm.]

Chính sách đối phó với biến đổi khí hậu không chỉ trên quy mô quốc gia mà cho toàn lưu vực với mọi hoạch định cần theo một phương cách tích hợp – integrated approach, đối với nhu cầu sử dụng và quản lý nguồn nước.
Để phát triển và xây dựng một tương lai bền vững, cách làm ăn cũ bấy lâu với những quy hoạch thuỷ lợi không hiệu quả; do đó từ nay mọi phương cách quản lý nước cần được phân tích kỹ lưỡng qua lăng kính biến đổi khí hậu – through a climate change lens. Chúng ta cần đầu tư nhiều hơn nữa để cải tiến và cập nhật những dữ liệu thuỷ học – hydrological data, qua các học viện, qua các chính phủ, qua giáo dục, cùng nhau chia sẻ mọi kiến thức, để có được khả năng tiên lượng và đối phó với những rủi ro khan hiếm nước như hiện nay và chắc chắn sẽ trầm trọng hơn nhiều trong tương lai.
Mọi chính sách cần bảo đảm tính đại diện rộng rãi các thành phần tham gia, với thay đổi tác phong ứng xử, tạo được sự tin cậy giữa nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự và lãnh vực tư nhân.
Những kế hoạch thích ứng cần có chiến lược nêu rõ mục tiêu – targeted strategies, ưu tiên trợ giúp các cộng đồng cư dân lợi tức thấp – họ là nhóm người chịu tác động, dễ bị tổn thương và thiệt hại nhiều nhất do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. (1)

GIỚI THIỆU DRAGON MEKONG

DRAGON là chữ viết tắt của Delta* Research And Global Observation Network / Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu. DRAGON nhằm mục đích thiết lập một hệ thống thông tin toàn cầu, tăng cường quan hệ hợp tác và cùng chia sẻ kinh nghiệm lâu dài giữa các vùng châu thổ trên thế giới.
[Ghi chú: Delta* thay vì quen gọi là đồng bằng, nay được gọi là châu thổ do được hình thành từ phù sa của các con sông bồi đắp.]

Ủy ban Liên Chính Phủ về Biến đổi Khí hậu / Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC) do Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meteorological) và Chương trình Môi sinh Liên Hiệp Quốc (United Nations Environment Programme), bao gồm 195 quốc gia thành viên. Theo IPCC hiện có khoảng 300 triệu cư dân sống trong 40 vùng châu thổ / Deltas trên toàn cầu. Các vùng châu thổ là nơi được phù sa các con sông bồi đắp và IPCC đã đưa ra nhận định: “Những vùng châu thổ đó rất dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu, do nước biển dâng, do biến đổi dòng chảy, đồng thời với những chấn động qua quá trình sử dụng đất đai, do chính con người gây ra trong lưu vực / catchment area.”

Từ năm 2007, IPCC đưa ra cảnh báo thêm: 13 vùng châu thổ lớn trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng do hậu quả của Biến đổi Khí hậu và nước biển dâng, trong đó có hai vùng châu thổ sông Mekong Việt Nam và châu thổ sông Mississippi Hoa Kỳ được xếp là vùng dễ bị tổn thương ở mức độ rất cao.
Do tính tương đồng và tầm quan trọng về an ninh lương thực, kinh tế, xã hội và văn hóa của hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi, ngày 21 tháng 11 năm 2008, Đại học Cần Thơ kết hợp với Cơ Quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ – US Geographical Survey (USGS) và Trung tâm nghiên cứu Đất ngập nước quốc gia – National Wetlands Research Center Hoa Kỳ (NWRC) đã tổ chức lễ thành lập Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Mekong với tên viết tắt tiếng Anh là DRAGON Institute Mekong, thuộc Mạng DRAGON toàn cầu, có cơ sở tại Đại học Cần Thơ, ĐBSCL. (4)

Logo Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu Mekong – Đại học Cần Thơ. DRAGON là chữ viết tắt của Delta Research And Global Observation Network – Mạng lưới Nghiên cứu Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu, được thiết lập từ 2008, đến nay là 12 năm, có thể xem như một Viện Nghiên cứu của Đại học Cần Thơ. (4)


Đoàn khảo sát môi sinh ĐBSCL chụp hình trước cơ sở đầu tiên của Viện Nghiên Cứu Biến đổi Khí hậu / DRAGON - Mekong Institute, từ trái: TS Dương Văn Ni (Khoa Môi trường và Tài Nguyên Thiên nhiên ĐHCT), TS Lê Phát Quới (Viện Tài Nguyên Môi Trường ĐHQG Tp. HCM), Ngô Thế Vinh, TS Lê Anh Tuấn (Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí hậu ĐHCT), KS Phạm Phan Long (Hội Sinh Thái Việt), Th.S Nguyễn Hữu Thiện (Chuyên gia Đất Ngập nước / Wetlands), BS Nguyễn Văn Hưng. 
[tư liệu Ngô Thế Vinh 2017]

Xem ra, ngoài nét tương đồng giữa 2 vùng: châu thổ Louisiana sông Mississippi – Vịnh Mexico và châu thổ Mekong sông Mekong – Biển Đông trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, thì riêng ĐBSCL hiện đang phải đương đầu với những thử thách khó khăn hơn nhiều. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây sự khác biệt quan trọng giữa hai dòng sông: (1) Độ dốc thượng nguồn sông Mekong cao hơn gấp 12 lần sông Mississippi, nên có một tiềm năng thuỷ điện vô cùng hấp dẫn mà sông Mississippi không có được; (2) Với 40 con đập cũ trên sông Mississippi phần lớn được xây từ thập niên 1930, không sao có thể sánh được với chuỗi đập khổng lồ trên sông Lancang-Mekong Vân Nam và các con đập dòng chính ở Lào; (3) Sông Mississippi chỉ chảy trong lãnh thổ Hoa Kỳ, trong khi sông Mekong chảy qua 7 quốc gia: Tây Tạng, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam với những mâu thuẫn về quyền lợi rất gay gắt. (3)

Hình chụp cơ sở mới của DRAGON Mekong Institute, với các thành viên tham dự Khoá Tập huấn Báo chí về “Biến đổi Khí hậu và Năng lượng Bền vững” tổ chức từ ngày 22 tới 24 tháng 8, 2019, trong Dự án Mạng lưới Báo chí Địa cầu / Earth Journalism Network. [nguồn: CRUS.Vietnam, Aug 2019]

DRAGON Institute-Mekong-CTU sẽ là điểm nối kết các hoạt động nghiên cứu, giáo dục và chuyển giao kiến thức khoa học đến các nhà lãnh đạo, quản lý và cộng đồng các cấp từ địa phương, quốc gia tới các vùng châu thổ khác trên thế giới nhằm mục đích nâng cao năng lực thích nghi của cư dân đối với thiên tai; phát triển bền vững kinh tế và xã hội, đồng thời bảo tồn các hệ sinh thái thiên nhiên.
Từ khi được thành lập, Viện Biến đổi Khí hậu DRAGON-Mekong đã được nhiều tổ chức trong và ngoài nước đến trao đổi, đề xuất các hướng hợp tác. Với vai trò là một trung tâm dẫn đầu của ĐBSCL, Đại học Cần Thơ và Viện DRAGON-Mekong đang có các bước đi tiên phong trong nghiên cứu các vấn đề liên quan tới Biến đổi Khí hậu với một kế hoạch hành động trước mặt và lâu dài. (4)

DỰ BÁO MEKONG / FORECAST MEKONG

Qua Sáng kiến Hạ lưu Sông Mekong – Lower Mekong Initiative 2020 được khởi xướng từ 2009 do ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton cùng với các ngoại trưởng 4 quốc gia Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam nhằm tăng cường cam kết của Mỹ đối với các quốc gia hạ lưu sông Mekong trong các lãnh vực môi trường, y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở.
Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS chuyên nghiên cứu các vùng châu thổ, đã liên kết / partnership với Viện DRAGON – Mạng lưới Nghiên cứu Đồng bằng Châu thổ và Quan trắc Toàn cầu áp dụng kinh nghiệm từ sông Mississippi với chuyên môn về Mô hình Khoa học-Trái đất [Earth-science modeling] sẽ hỗ trợ cho các quốc gia Mekong phương cách lượng giá biến đổi khí hậu và hoạt động của con người có thể ảnh hưởng trên hệ sinh thái và an ninh lương thực trong lưu vực sông Mekong.

KHÓA TẬP HUẤN DỰ BÁO MEKONG

Trong ba ngày 9-10-11 tháng 12 năm 2009 cùng với viện DRAGON Đại học Cần Thơ, Việt Nam, Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS và Bộ Ngoại Giao Mỹ, đã cùng bảo trợ cho một khoá tập huấn / workshop nhan đề: “Tìm hiểu mối hiểm nguy / risk và đặc tính dễ tổn thương/ vulnerability của các hệ sinh thái nước ngập / Wetlands Ecosystems nơi hai vùng châu thổ Mekong và Mississippi do Biến đổi Khí hậu và Nước biển dâng.”

Cho dù cách nhau 12 múi giờ, hai vùng châu thổ Mekong (trái) và Mississippi (phải), có những điểm tương đồng về sinh cảnh môi trường, kinh tế xã hội và văn hoá. [Mô hình chụp từ vệ tinh của Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ USGS ] (2)

Chương trình Dự báo Mekong được USGS thực hiện, không chỉ với ĐH Cần Thơ mà là một kết hợp mở rộng với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực sông Mekong. Khoá tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong,” một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án phát triển trong lưu vực sông Mekong. (2)

Khoá tập huấn quy tụ được hơn 75 thành viên tham dự, đã cùng xác định những thiếu sót về thông tin liên hệ tới vùng châu thổ Mekong / ĐBSCL và Biến đổi Khí hậu. Những thành viên tham dự bao gồm các nhà khoa học, các viên chức chính phủ từ các quốc gia Cambodia, Lào, Việt Nam, Thái Lan và cả Trung Quốc; đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ và các tổ chức NGOs phi chính phủ và dĩ nhiên với các chuyên gia USGS. Nhiều vấn đề khoa học quan trọng được đặt ra, bao gồm phẩm chất nước, lượng phù sa / sedimentation, những ảnh hưởng của các đập thuỷ điện trên sự đa dạng sinh học / biodiversity, an ninh lương thực, sự thích nghi với biến đổi khí hậu qua thời gian và mức nghiêm trọng của các mùa lũ lụt / seasonal floods, và ảnh hưởng trên sản lượng cá.

Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật để tạo thuận các bước thu thập phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, theo dõi môi trường / environmental monitoring, với các dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện và chuyển giao kỹ thuật, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự án Dự Báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung.

DRAGON đã xây dựng được một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu / comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thuỷ học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và dễ bị tổn thương.

Bằng triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models và với các dụng cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những quyết định chính sách công / public policy decisions có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ.

Cơ quan Khảo sát Địa dư Hoa Kỳ [USGS] đem tới những hiểu biết khoa học rộng rãi từ châu thổ sông Mississippi tới một vùng châu thổ tương đồng, cách xa nửa vòng trái đất đó là châu thổ sông Mekong [ĐBSCL].
Khoá tập huấn này là một phần của dự án có tên “Dự báo Mekong – Forecast Mekong,” một kết hợp dữ kiện hỗ tương, tạo mô hình / modeling, và hệ thống biểu đồ / visualization system nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách / policy makers, các nhà quản lý tài nguyên / resources managers, và công chúng am hiểu và tiên liệu được các tác động do biến đổi khí hậu và triển khai những dự án trong lưu vực sông Mekong. (2)

Chương trình này được thực hiện bởi USGS kết hợp với các chính phủ địa phương và các Đại học trong lưu vực Mekong, Chương trình Dự Báo Mekong / Mekong Forecast sẽ cung cấp một dụng cụ rất giá trị để nhận rõ những hậu quả của Biến đối Khí hậu và cách quản lý dòng sông / river management.

Những bước tiếp theo sẽ là các cuộc nghiên cứu phối hợp của USGS với các nhà khoa học trong lưu vực Mekong, nhằm cung cấp chuyên môn kỹ thuật / technical expertise để tạo thuận các bước phân tích và tích hợp dữ kiện / data analysis & integration, hướng dẫn theo dõi môi trường / environmental monitoring, với những dụng cụ biểu đồ khoa học / science-visualization tools. Các thành viên tham dự cũng đã xác định nhu cầu được huấn luyện / training và chuyển giao kỹ thuật / technological transfer, cùng với ước muốn thiết lập mối quan hệ hợp tác dài hạn và chặt chẽ hơn với USGS.
Dự án Dự Báo Mekong / The Forecast Mekong project cũng sẽ giúp xây dựng nền móng cho các hoạt động trong tương lai qua tăng cường mối liên hệ giữa các nhà khoa học, các tổ chức trong lưu vực Mekong qua các cuộc nghiên cứu chung và chia sẻ các dữ kiện / data sharing.


Một ĐBSCL đã và đang bị tổn thương do những nguyên nhân: (1) do các con đập thượng nguồn, (2) do nạo vét cát dưới lòng sông, (3) do nước biển dâng, (4) do ô nhiễm sông rạch, (5) còn phải kể tới những dự án sai lầm ngăn mặn phá huỷ sự cân bằng hệ sinh thái mong manh của vùng châu thổ sông Mekong. Tính tới 2020, đã có 11 con đập dòng chính khổng lồ của Trung Quốc trên khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn; có thêm 2 con đập dòng chính của Lào (Xayaburi và Don Sahong) đã hoạt động từ 2019. Dự án Luang Prabang 1460 MW, sẽ là con đập dòng chính lớn nhất trên sông Mekong của Lào và điều rất nghịch lý là do Việt Nam làm chủ đầu tư, dự trù có thể được khởi công sớm trong năm nay. 
[International River 2004, do Ngô Thế Vinh cập nhật 2020].

Một ví dụ điển hình, USGS với kinh nghiệm về Trận Bão nhiệt đới Katrina 2005 của thế kỷ trên vùng châu thổ Mississippi với tổn thất 1800 nhân mạng, đã để lại những hậu quả tàn phá lớn nhất trong lịch sử thiên tai của Hoa Kỳ thiệt hại vật chất lên tới 125 tỷ USD, đã cho thấy nhu cầu cấp thiết chia sẻ thông tin và các dữ kiện với các vùng châu thổ trên toàn cầu.
DRAGON đã tạo ra một cộng đồng quốc tế giữa các nhà khoa học và quản lý tài nguyên nhằm chia sẻ những dữ kiện giữa các vùng châu thổ lớn và những con sông thế giới. Những cuộc nghiên cứu đối chiếu comparative studies là cần thiết để hiểu biết và tiên liệu được hậu quả của biến đổi khí hậu trên các dự án xây dựng, sử dụng đất đai, biến đổi về thuỷ học và những ảnh hưởng khác do con người gây ra trên các hệ sinh thái vốn mong manh và rất dễ bị tổn thương.

Bằng triển khai những mô hình đối chiếu / comparative models cùng với các dụng cụ biểu đồ / visualization tools, mục đích của mạng lưới DRAGON là trợ giúp thông tin cho những hoạch định chính sách / public policy decisions có ảnh hưởng tới hệ sinh thái và các cộng đồng cư dân sống trong các vùng châu thổ trên hành tinh này.
Dự báo Mekong: trận hạn hán và nhiễm mặn 2020 sẽ trầm trọng hơn năm 2016. Mekong Delta barbecue / ĐBSCL bị nướng do khô hạn. Tranh biếm hoạ của Babui, tặng Ngô Thế Vinh]

NƯỚC QUANH TA: GIẢI PHÁP DO THÁI

Khan hiếm nước là một thực trạng đang diễn ra ở những mức độ khác nhau trên toàn hành tinh này. Từ tiểu bang Vàng California giàu có tới các nước nghèo khó của lục địa Phi châu. Khủng hoảng thiếu nước sạch nơi châu thổ Mekong cũng nằm trong bối cảnh toàn cầu ấy.
Đất lún, mặt bằng châu thổ Mekong thấp hơn mặt biển, có bài học từ một đất nước Hoà Lan Vùng Đất Thấp vẫn cứ tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ.
Thiếu nước ngọt: nước uống và nước tưới cho hoa màu, có bài học từ một đất nước Do Thái mọc lên giữa sa mạc với đủ loại hoa màu xanh tươi.
Nước được khai thác từ nhiều nguồn, (1) từ giếng tới tầng nước ngầm, (2) từ nước biển khử mặn, (3) từ nguồn nước thải được thanh lọc tái sinh, (4) chiết xuất nước từ độ ẩm trong không khí…

Ưu tiên giải quyết vấn đề nước là một quốc sách của Do Thái ngay từ ngày lập quốc. Bằng trí tuệ sáng tạo và khoa học kỹ thuật từ một sa mạc khô hạn, ngày nay Do Thái đã có đủ nước cho mọi nhu cầu gia dụng, canh nông và kỹ nghệ. Nhưng trên hết, vẫn là ý thức tiết kiệm nước của toàn dân – được giáo dục ngay từ bậc tiểu học qua mọi cấp trong mọi lãnh vực sinh hoạt.
Không chỉ như vậy, họ còn biết sử dụng tối ưu các nguồn nước có được, tới mức còn dư nước viện trợ cho các quốc gia láng giềng thù nghịch và cả chuyển giao kỹ thuật giải quyết vấn đề thiếu nước ra thế giới như một quyền lực mềm trong ngoại giao. Kinh nghiệm Do Thái đã giúp nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc, kể cả quốc gia tiên tiến như Mỹ để giải quyết vấn nạn thiếu nước.


Nông gia Do Thái đã tiết kiệm được rất nhiều nước trong canh tác; một ví dụ nhỏ, bằng cách tưới nhỏ giọt / drip irrigation thay cho kỹ thuật tưới cổ điển tưới bằng vòi phun hay nước ngập đồng. Tưới ngay gốc giảm được lượng nước bốc hơi, cây lớn mạnh hơn và năng suất cũng cao hơn, thêm vào đó cách bón cây nhỏ giọt còn tránh được lượng nitrogen tràn vào các nguồn nước và cả giảm thiểu được lượng hoá chất trên vùng canh tác. 
[Let There Be Water. Seth M. Siegel 2017] (9)

ĐBSCL SẼ VẪN MÃI XANH TƯƠI

Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu thuộc nằm lòng ấy đã có từ một nền giáo dục Quốc văn Giáo khoa thư từ buổi thiếu thời qua nhiều thế hệ. Và nay thì thực sự không còn nữa và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ châu châm ngôn lỗi thời ấy.
Kể từ sau 1975, những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá. Biển bị đầu độc không còn cá. Đất bị sa mạc hoá và xói mòn. Mọi nguồn tài nguyên bị tận lực khai thác tới cạn kiệt. Cho đến cả một ngụm nước sạch để uống và một bầu không khí trong lành để thở rồi cũng trở thành điều mơ ước. Những điều cơ bản ấy cũng chính là quyền con người / human rights.
Với những công trình phát triển tự huỷ, và sắp tới đây, con đập thuỷ điện Luang Prabang lớn nhất của Lào do Việt Nam đầu tư, rõ ràng Việt Nam đang chọn những bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng – walks on thin ice, với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, và cũng từ nay Việt Nam sẽ chẳng thể còn một tiếng nói chính nghĩa và thuyết phục nào đối với cộng đồng 70 triệu cư dân sống trong lưu vực sông Mekong và trước cả thế giới.
Với tầm nhìn của thiên niên kỷ thứ ba, duy trì từng hệ sinh thái phong phú của hành tinh này cũng là bảo vệ một nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, mà không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi. Và cũng đã hơn một lần, trong hơn hai thập niên qua, người viết luôn luôn nhắc tới một vấn đề rất cốt lõi: “Môi sinh và Dân chủ” sẽ mãi mãi là bộ đôi không thể tách rời / Inseparable Duo.

THAY CHO LỜI KẾT

Nhân Ngày Nước Thế Giới 22 tháng 3 năm nay 2020, với chủ đề “Nước và Biến đổi Khí hậu”, trước tình cảnh một ĐBSCL đang ngày một suy thoái, người viết gửi tới các bạn trẻ cùng với 20 triệu cư dân 13 tỉnh Miền Tây trích dẫn câu nói của Oded Distel, một chuyên gia về nước của Do Thái: “Không có kỹ nghệ không gian các quốc gia vẫn sống được, nhưng không thể sống nếu không có nước”. (9) Nước theo cái nghĩa là “nguồn nước sạch” có thể sử dụng được. Oded Distel muốn nhấn mạnh tới sự chọn lựa đâu là bước ưu tiên trong phát triển.

NGÔ THẾ VINH
California 21.02.2020
[Miền Tây, Cù Lao Dung 2017]

THAM KHẢO:

1/ UN-Water Policy Brief on Climate Change and Water, 12 July 2019
https://www.unwater.org/publications/un-water-policy-brief-on-climate-change-and-water/
2/ A Different Delta Force – USGS and U.S. Department of State Assist in the Mekong Delta, By Gabrielle B. Bodin, March 2010 [revised Feb. 2013]
3/ The Mekong and Mississippi Sister-River Partnership, Similarities and Differences. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01.15.2011
4/ Research Institute for Climate Change (DRAGON institute - Mekong)
https://dragon.ctu.edu.vn/
5/ Thăm Khu Nhà Máy Xử lý Nước Thải và Hệ thống Bổ sung Tầng Nước Ngầm tại Quận Cam. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 23.03 - 24.07.2017
6/ From A Mekong Delta Threatened by Salinization to the Carlsbad Desalination Plant. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 01.2020
7/ Promising way to make fresh water for family use, 1.5 gallons per hour for each square meter of solar collecting area.
http://news.mit.edu/2020/passive-solar-powered-water-desalination-0207
8/ Creating Drinking Water from Air. Watergen Technology from Israel.
https://www.watergen.com
9/ Let There Be Water. Israel’s Solution for a Water-Starved World. Seth M. Siegel. Thomas Dunne Books. An imprint of St. Martin’s Press 2017.

SOURCE:


.

Lào với dự án mặt trời nổi 1200 MW lớn nhất thế giới trên hồ Nam Ngum



Bản tin Ngày 21 tháng 2, 2020
Viet Ecology Foundation
 
Vị trí dự án điện mặt trời trên hồ Nam Ngum

Sáng kiến dự án điện mặt trời nổi trên hồ Nam Ngum đầu tiên do KS Phạm Phan Long của tổ chức Viet Ecology Foundation nghiên cứu và công bố trên tạp chí chuyên môn quốc tế PV Magazine tháng 11 2019 và tiếng Việt trên trang mạng Viet Ecology Foundation ngày 1 tháng 11, 2019. Nghiên cứu này có phân tích kỹ thuật, kinh tế và xã hội nhằm thuyết phục Chính phủ Lào thực hiện thay thế cho ba dự án thuỷ điện lớn Mekong bên Lào. Nhà ngoại giao kỳ cựu David Brown nhận xét về dự án tương tự Ks Long soạn thảo cho Biển Hồ Cam Bốt đã cho đó là sáng kiến táo bạo và là giấc mơ của các nhà hoạt động môi trường.

Dự án mặt trời trên Nam Ngum này đã thành sự thật, theo bản tin Laotiantimes ngày 20 tháng 2 2020, Chính phủ Lào đã ký kết với Hangzhou Safefound Technology, nhà sản xuất pin mặt trời Trung Quốc để xây dựng hệ thống giàn nổi 1200 MW thu năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới trên hồ Nam Ngum. Việc Lào chuyển hướng nhanh và mạnh mẽ như thế là tin mừng cho lưu vực sông Mekong vì đây là dấu hiệu cho một bước ngoặt lịch sử; từ nhận thức thuỷ điện với những tác động xấu không giảm thiểu được đã đến lúc phải thoái trào. Nếu chú ý bản đồ Laotiantimes sử dụng chính là biểu đồ KS Phạm Phan Long phác thảo ra cho Nam Ngum về vị trí cho toàn bộ 15 giai đoạn.

Nếu Cam Bốt cũng như Lào thực hiện dự án mặt trời trên Biển Hồ như KS Long đề nghị thì ĐBSCL sẽ được cứu nguy, tránh khỏi tai hại thuỷ điện, sinh kế của 30 triệu dân cư Cam Bốt và Việt Nam được bảo vệ và giải quyết xung khắc quyền lợi chung không nước nào có thể nhượng bộ.
Năng lượng xanh từ mặt trời và gió đã cho nhân loại một lựa chọn công bằng hơn, vừa rẻ vừa trong lành và không phải dựa vào nguyên liệu hữu hạn với ô nhiễm không kiểm soát được như than dầu và khí đốt. An ninh lương thực và sinh kế dân cư sẽ vững vàng hơn và góp phần cắt giảm khí thải carbon cho nhân loại tránh được hiểm họa biển dâng và khí quyển hâm nóng.

Viet Ecology Foundation gửi BVN
Nguồn trích dẫn:
1.      https://www.pv-magazine.com/2019/11/01/can-nam-ngum-solar-replace-mekong-hydro-in-laos/
2.      http://vietecology.org/Article/Article/1344
3.      http://vietecology.org/Article/Article/1351
4.      https://laotiantimes.com/2020/02/20/laos-to-build-worlds-largest-floating-solar-power-project-at-nam-ngum-1/

SOURCE:

Đồng bằng sông Cửu Long: Kênh rạch cạn kiệt, ruộng đồng héo khô



Quốc Trung

Hạn, mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã bước vào cao điểm. Nhiều tháng qua cả vùng không có một trận mưa giải nhiệt, kênh rạch cạn kiệt trơ đáy, nguy cơ cháy rừng ở mức báo động đỏ; mặn xâm nhập ngày càng sâu vào nội đồng gây thiệt hại nặng nề cho ngành nông nghiệp, đời sống người dân đảo lộn…

Cánh đồng lúa ở huyện Long Phú, Sóc Trăng đang thiếu nước ngọt trầm trọng.

Theo Tổng cục Thủy lợi, tình hình xâm nhập mặn ở ĐBSCL năm nay sẽ xảy ra sớm hơn, sâu hơn và nghiêm trọng hơn năm 2015-2016,năm được coi là nặng nề nhất. Tình hình diễn biến phức tạp dưới tác động của tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu, triều cường và nước thượng nguồn sông Mêkông xuống thấp.

Lo cháy rừng
Thống kê của ngành chức năng Cà Mau, toàn tỉnh hiện có hơn 10.200 ha rừng ở mức báo động cháy cấp trung bình (cấp 2), hơn 15.100 ha rừng ở mức báo động cháy cấp cao (cấp 3), gần 13.200 ha rừng ở mức báo động cháy cấp nguy hiểm (cấp 4) và gần 3.000 ha rừng ở mức báo động cháy cấp cực kỳ nguy hiểm.

Phó Giám đốc Vườn Quốc gia U Minh Hạ Lê Thanh Dũng cho biết, do hạn kéo dài và sớm hơn mọi năm nên hơn 8.527 ha rừng của đơn vị đang ở mức báo cháy cấp III. Đặc biệt có trên 2.500 ha rừng bên trên dây leo đã khô héo, bên dưới lớp than bùn cũng khô hanh.
Tại Kiên Giang, khu vực Vườn quốc gia U Minh Thượng cũng đang trong tình trạng báo động. Ông Nguyễn Văn Cường – Phó Giám đốc Vườn Quốc gia U Minh Thượng cho biết, thời điểm này đang là cao điểm mùa khô, nắng nóng gay gắt kéo dài, nước bốc hơi nhanh nên mực nước dưới kênh rạch cạn xuống dần, trung bình mỗi tháng khoảng 15cm. Nếu tiếp tục khô hạn, lâm phần Vườn Quốc gia U Minh Thượng cấp dự báo cháy rừng cấp 3, cấp 4 và có nơi cấp 5, cấp cực kỳ nguy hiểm có thể xảy ra cháy rừng bất cứ lúc nào.
Mới đây, ngày 21/2, gần 21.000m2 ruộng lúa của 3 hộ dân ấp 1/5 (xã Khánh Bình, huyện Trần Văn Thời) đang bước vào giai đoạn chuẩn bị thu hoạch thì bị cháy rụi hoàn toàn. Thời điểm xảy ra vụ cháy thời tiết nắng gắt, gió lớn cộng thêm ruộng lúa bị khô hạn, nên không thể cứu được.

Người dân huyện Long Phú (Sóc Trăng) xót xa vì lúa chết khô.

Lúa chết khô
Nhiều hộ dân trồng lúa vụ 3 ở huyện Long Phú (tỉnh Sóc Trăng) đã phải ngậm đắng khi hàng trăm ha lúa ở khu vực này bị thiệt hại gần như mất trắng do hạn mặn kéo dài. Ông Thạch Tiến, nông dân ở xã Tân Hưng (huyện Long Phú) buồn rầu khi hơn 5 công đất trồng lúa vụ 3 của gia đình ông bị thiếu nước trầm trọng, nền ruộng nứt nẻ, toàn bộ lúa đang chết khô vì thiếu nước, trong khi các con kênh, rạch trên địa bàn có nơi cạn kiệt, nơi nào còn nước đã nhiễm mặn nặng…

Các cánh đồng lúa ở các xã khác trên địa bàn huyện Long Phú như Long Đức, Trường Khánh, Tân Hưng…cũng trong tình trạng tương tự. Theo thống kê của Phòng NNPTNT huyện Long Phú, vụ Đông Xuân muộn năm nay trên địa bàn huyện có khoảng 3.700 ha, diện tích này đã giảm nhiều so với hơn 15.000 ha của vụ mùa năm ngoái.
Ông Trần Trí Dũng- Phó Chủ tịch UBND thị trấn Long Phú cho biết, vụ lúa Đông Xuân muộn năm nay trên địa bàn thị trấn sản xuất hơn 238 ha. Thời điểm này, nhiều diện tích xem như mất trắng do xâm nhập mặn đến sớm và kéo dài.

Ở khu vực ĐBSCL, khi hạn mặn diễn ra thì khu vực huyện Gò Công Đông của Tiền Giang được xem là bị thiệt hại sớm nhất. Anh Dương Văn Thanh Vũ ngụ ấp Kênh Ngang, xã Tân Thành (huyện Gò Công Đông) đành bó tay khi hơn 6 công lúa không có nguồn nước tưới, gần như hư hoàn toàn, đến người mua cho vịt ăn cũng không có hứng thú đủ biết thiệt hại như thế nào. Theo anh Vũ, chưa năm nào hạn hán khắc nghiệt như năm nay. Đến như mùa khô năm 2015-2016 cũng còn lúa để gặt, không đến nỗi mất trắng như năm nay…
Ông Nguyễn Quốc Minh- Phó Chủ tịch UBND xã Tân Thành của huyện Gò Công Đông lo lắng nếu vài ngày nữa mà không có nước ngọt để tưới thì hơn 1.200ha đất trồng lúa có nguy cơ mất trắng.

Người dân phải mua nước ngọt
Bến Tre là địa phương nằm ven biển, đợt hạn, mặn năm nay tỉnh này hầu như bị bủa vây tứ phía. Thống kê của ngành chức năng Bến Tre, toàn tỉnh còn khoảng 57.000 hộ dân ở xa nội đồng thiếu nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Trên các cánh đồng nhìn cảnh bà con ngậm đắng đội nắng cắt lúa non gần như chết khô vì nhiễm mặn về cho bò ăn mà xót xa.

Ghé vào nhà một hộ dân ở xã Mỹ Hưng, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre nơi đây mặn đã bủa vây nhiều ngày qua, gia đình ông Nguyễn Văn Nghĩa cũng như nhiều hộ dân ở đây khoảng hơn 1 tuần qua phải sử dụng nước máy nhiễm mặn. Tuy nhiên cũng chỉ để rửa chén bát và tắm sơ qua chứ không thể dùng để nấu ăn vì độ mặn quá cao.

Hiện trên 200 ngàn người dân tại 24 xã, thị trấn đang sống xung quanh hồ chứa nước ngọt ở huyện Ba Tri đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước ngọt trầm trọng vì hiện nay toàn bộ nước trong hồ cũng đã bị nhiễm mặn. Ông Dương Văn Chương – Phó Chủ tịch UBND huyện Ba Tri, cho biết dù nước trong hồ chứa nước ngọt Ba Tri đã bị nhiễm mặn, có lúc lên đến 1,45‰ nhưng vẫn còn đỡ mặn hơn những nguồn nước khác…

Tình hình hạn mặn ở ĐBSCL vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp, với mức độ gay gắt. Vì thế, chính quyền địa phương cùng người dân cần chủ động hơn nữa để giảm thiểu thiệt hại. Trong đó rất cần có biện pháp trữ nước ngọt để ổn định sinh hoạt.

Từ năm 2007-2018, tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước luôn tăng và tốc độ tăng ngày càng cao. Giai đoạn 2007-2012, trung bình mỗi năm tăng 5,8%; giai đoạn 2013-2018 trung bình tăng 6,4%. Tuy nhiên, tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) vùng ĐBSCL lại giảm. Giai đoạn 2007-2012, GRDP của ĐBSCL tăng trung bình 5,7%, thấp hơn cả nước 0,1 điểm phần trăm; đến giai đoạn 2013- 2018, trung bình mỗi năm chỉ tăng 5,5%, thấp hơn 0,9 điểm phần trăm. Nhóm ngành nông, lâm, thủy sản giảm 10%, GRDP của vùng ĐBSCL có thể giảm 1,84%, GDP cả nước có thể giảm 0,09%.

Nếu nhóm ngành nông, lâm, thủy sản giảm 15% thì GRDP vùng giảm 2,75% và GDP cả nước giảm 1,2%.
Nếu nhóm ngành này giảm 20%, GRDP vùng giảm 3,7% và GDP cả nước giảm 1,7%.
Như vậy có thể thấy, nếu ĐBSCL tăng trưởng thấp sẽ ảnh hưởng không chỉ đối với trong vùng mà còn là với cả nước, vì khu vực này là vựa lúa, vựa trái cây, vựa lúa của cả nước. Trước mắt, nếu không có giải pháp tốt khắc phục tình trạng xâm nhập mặn cũng như khô hạn thì phát triển kinh tế vùng ĐBSCL sẽ càng thêm khó, ảnh hưởng xấu đến kinh tế cả nước.

Q.T.
Nguồn: http://daidoanket.vn/moi-truong/dong-bang-song-cuu-long-kenh-rach-can-kiet-ruong-dong-heo-kho-tintuc459723
http://www.boxitvn.net/bai/68707

Melody Kemp - Lời ru buồn cho Cửu Long



23/02/2020
Melody Kemp
Trần Quốc Việt dịch

Credit: Jesse Hardman

Nguyễn Trung Việt, Chánh văn phòng Biến Đổi Khí Hậu thành phố Hồ Chí Minh, đang phát biểu với nhóm phóng viên và ông giận thấy rõ. "Điều gì khiến tôi ban đêm mất ngủ?" ông hỏi một cách ấn tượng. "Đó là vì có rất nhiều rủi ro, rất nhiều việc phải làm, nhưng chúng tôi được trả lương rất thấp nên không thể dành thời gian vào việc biến đổi khí hậu. Thay vì thế chúng tôi phải làm hai ba công việc cùng một lúc để tồn tại. Thử hỏi sao chúng tôi có thể làm tốt được? Người đứng đầu bộ phận này lương chỉ 200 đô la Mỹ mỗi tháng."

Cho tới năm 2009, nhiều người cảm thấy như thể chẳng ai cầm quyền ở Việt Nam biết hay quan tâm đến biến đổi khí hậu. Để giải quyết điều này, Việt đưa các viên chức chính quyền đến Seoul để cho họ mở mắt. "Họ (cán bộ Đảng cao cấp) biết thành phố Hồ Chí Minh bị rủi ro nhiều nhất nhưng có đến 16 phòng ban cùng nhau lái con tàu này. Hừ! Ngu ngốc!" ông bực dọc thốt lên. "Họ phải trẻ vì điều này cần kế hoạch lâu dài. Họ phải nói tiếng Anh được vì thông tin kỹ thuật toàn là bằng tiếng Anh. Chẳng ai hiểu sự cấp bách này."
"Hệ thống ủy ban của Việt Nam thật sự là cách ngồi không có hệ thống," một nhà báo bất mãn gần đấy cười. "Họ sẽ chỉ nghiêm túc về những vấn đề quan hệ đến của cải quốc gia hay các đảng viên cao cấp."

Nâng cao lên
Thành phố Hồ Chí Minh hay Sài Gòn, sáng rực với những đồ trang hoàng Giáng Sinh. Những thiếu nữ đội cài tóc tuần lộc đỏ phát những tờ quảng cáo, và một người mặc trang phục ông già Noel màu xanh đậm sáng đứng bên ngoài ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Sông Đồng Nai mà hợp lưu với sông Sài Gòn ngay phía bắc thành phố Hồ Chí Minh náo nhiệt với bao ánh đèn và nhà hàng nổi. Nếp sống thương mại thực dụng trong quốc gia Nho giáo, đặc biệt thịnh hành trong thành phố cuồng nhiệt, sáng tạo này.

Thành phố Hồ Chí Minh rõ ràng là đầu tàu kinh tế của Việt Nam, nhưng thành phố cũng là nơi ở trong nước chịu nhiều rủi ro nhất từ sự kết hợp ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nhân tố liên quan đến khí hậu và không khí hậu. Mạng lưới sông ngòi và kênh rạch, chiếm khoảng 15 phần trăm đất thành phố, nằm trên đường đi của bão tố tàn phá. Lưu vực sông Đồng Nai bị khai quang hóa học rất nặng trong cuộc chiến tranh Mỹ ở Việt Nam. Thung lũng cằn cỗi do xử dụng hóa chất, bây giờ trung tâm công nghiệp, là nguồn gốc xói mòn, với dòng chảy ô nhiễm làm trầm trọng thêm nạn ngập định kỳ trong thành phố.

Với dân số độ 6.2 triệu người vào năm 2010, ước tính không chính thức cho biết thành phố hiện nay đã hơn 10 triệu, con số mà Ngân Hàng Phát Triển Châu Á tiên đoán thành phố chỉ có thể đạt đến vào năm 2025.
Nhưng nào ai thật sự biết? "Bà Chang" người chủ nhà máy gợi ý ước đoán chính thức về cuộc di cư từ đồng bằng sông Cửu Long hàng năm là không xác thực. "Ít nhất hai triệu người di cư từ đồng bằng sông Cửu Long" bà nói, "người di cư theo mùa, kẻ di cư luôn và sẽ còn gia tăng khi hoàn cảnh ở đấy tồi tệ hơn."

Ở những khu vực đông dân như Quận 6, dân chúng than phiền về việc hàng năm bị ngập. "Nâng cao lên" là cách nói của người dân địa phương đề cập đến việc nâng cao mức nền nhà lên nhằm đối phó với nước ngập chảy tràn vào nhà. Tuy nhiên những con đường liên quận chính cũng được nâng lên khiến mực nước vào nhà cũng tăng hơn khi nước chảy xiết vào những con hẻm hẹp. "Chúng tôi có nhiều mưa sớm hơn," tất cả cư dân đều đồng ý.
Những ảnh hưởng khí hậu, chẳng hạn như lượng mưa gió mùa nhiều hơn kết hợp với bão lớn thường xuyên hơn và sóng bão, càng ngày càng quyết định đến tình trạng ngập thường và ngập nặng ở thành phố Hồ Chí Minh.
Những cư dân đã nâng nền nhà họ lên 20cm nói "Cách đây 36 năm lúc chúng tôi dọn về đây nơi này là đầm lầy và đồng ruộng. Bây giờ vùng này nổi tiếng bị ngập nên chúng tôi không bán nhà được." Kênh rạch tắc nghẽn với rác plastic và rác không tiêu hủy được đã bốc mùi hôi thối, rất đen và hoạt tính sinh học đến độ mây phản chiếu trên kênh rạch lung linh. Hiện nay 154 trong số 322 xã phường thường xuyên bị ngập, ảnh hưởng đến 40 phần trăm dân số thành phố.

Tư duy sai lầm
"Chúng tôi bắt đầu kiểm soát ngập cách đây 30 năm. Chúng tôi lẽ ra nên bỏ nhiều công sức vào việc quản lý ngập nhưng phương pháp kế hoạch của chúng tôi lạc hậu và vẫn còn dưới sự lãnh đạo của chủ đầu tư bất động sản. Các kỹ sư phải đối phó với các hậu quả," tiến sĩ Hồ Long Phi thở dài. Ông chắc phải biết. Là giám đốc Trung tâm Quản lý Nước và Biến đổi Khí hậu thuộc đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, ông có cái vẻ mệt mỏi và hơi tuyệt vọng của nhà tiên tri nói chẳng ai nghe: "Chúng tôi cần những nhà máy khử muối để làm sạch nước uống. Khi thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu lún, việc khai thác nước ngầm trong hầu hết các trường hợp đều bị cấm. Nhưng trọng tâm vẫn còn là phát triển kinh tế vì thế nhiều nhà máy nhiệt điện chạy than đang được xây dựng. Họ còn dự định xây dựng nhà máy điện hạt nhân cho miền trung Việt Nam. Thử hỏi có điên chưa chứ?"

Sau khi đi ngang qua Philippines, rất thường lệ những cơn bão tiến thẳng vào miền trung Việt Nam, nơi nhà máy điện dự định xây.
"Những người ở cấp cao nhất vẫn còn nghĩ chúng tôi có thể dùng dữ liệu lịch sử để tiên đoán tương lai," Phi khẳng định. "Hệ thống cũ của chúng tôi được dùng để đối phó với những chu kỳ ba năm, nhưng bây giờ chúng tôi đang có 100mm mưa trong một giờ và mực nước biển mỗi năm dâng 1.5 cm. Rõ ràng ta phải đối diện với sự hoàn toàn không chắc chắn được, mọi kế hoạch do đó đều không hoàn hảo Chúng tôi chỉ không biết chúng tôi nên đầu tư bao nhiêu vào việc quản lý ngập vì nó rất năng động."

Vào năm 2010 Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Phát Triển Châu Á, Cơ Quan Phát Triển Nhật Bản ước tính rằng mực nước biển dâng lên 50cm kết hợp với lượng mưa 24mm/ngày vào mùa mưa có thể tạo ra điểm tới hạn mà tại đó biển xâm nhập vĩnh viễn vào những khu vực rộng lớn của thành phố.
Nguyễn Hữu Nhân, thuộc Viện Kỹ thuật Biển, cho biết những trạm nghiên cứu đo mực nước biển dâng mỗi năm từ ba đến bốn cm làm tăng ngập úng cục bộ từ tám đến mười hai cm hàng năm.Ông cũng cho biết những biến đổi thủy triều-cả về tần suất và biên độ-đang thay đổi nhanh chóng, từ đấy ông đồng ý với tiến sĩ Phi rằng dữ liệu lịch sử chẳng có ích gì cho việc dự đoán.
"Có nhiều việc phải làm," ông nói. "Chúng tôi phải xét đến hướng căn cứ vào chiều cao của nước ngập dựa vào một số nhà, giảm dân số thành phố và giảm đầu tư vào những khu vực dễ bị ngập. Nhưng thái độ nói chung là "Tôi muốn xây ở đây và rồi ông phải bảo vệ tôi." Chúng tôi không thể tiếp tục làm như thế. Chúng tôi cũng không thể trông mong vào kỹ thuật hay cơ sở hạ tầng để giải quyết mọi thứ. Chính quyền rất thích làm đê kè và cơ sở hạ tầng vì có quá nhiều lại quả. Nhưng đê kè chẳng ích gì."
"Sau khi Việt Nam vào WTO, có cơn sốt nhà đất," Phi giải thích. "Các chủ đầu tư bây giờ xây bất kỳ chỗ nào họ có thể xây được. Nếu họ phá sản thì việc đầu tư dừng lại thay vì kế hoạch khôn khéo hơn."

Quyền lợi Trung Quốc
Địa lý tự nhiên ngăn chia thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long thành những lưu vực riêng rẽ. Địa lý con người khiến hai nơi này phụ thuộc lẫn nhau-với sự di cư theo mùa, thu nhập từ xuất khẩu và sản xuất lương thực rất cần thiết cho sinh tồn của Sài Gòn.
Cần Thơ, cách thành phố Hố Chí Minh 160km về phía nam, là thành phố và thương cảng lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long với dân số gần hai triệu người. "Năm 2008 người Trung Quốc hoàn thành đập Tam Hiệp," giáo sư về hưu Chung Hương Cheong nói qua về bối cảnh lịch sử. "Rồi địa chính trị thay đổi, khi Trung Quốc bành trướng quyền lợi của họ vào biển Đông và khắp nơi trong vùng sông Mekong."

Cheong cho rằng toàn bộ vùng Đông Nam Á đang rất cận kề với cuộc khủng hoảng nước. "Nếu Trung Quốc và Lào tiếp tục xây dựng các đập thủy lợi như đề xuất thì sẽ có sự thay đổi lớn về thủy học của sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long," ông nói. "Ở Trung Quốc nước ngầm đã khô cạn còn sông ngòi ô nhiễm. Những chất thải tích tụ lại đang tiến theo dòng sông Mekong và giết chết đồng bằng sông Cửu Long." Không có đồng bằng sông Cửu Long, sợ rằng đa phần kinh tế Việt Nam sẽ chết. Không chỉ là các vụ mùa, mà còn các cảng và công nghiệp năng lượng lệ thuộc vào nước."
"Và rồi còn có văn hóa nước nữa," Cheong nói. "Chúng tôi đã có những làng nổi trong suốt hơn một ngàn năm qua. Nhiều nhà di cư xa đến tận Biển Hồ. Lẽ nào các đập cần thiết đến mức họ phải giết chết nền văn hóa của chúng tôi sao?"

Nuôi tôm
Ở cửa sông Cửu Long, hiện nay mực thủy triều dâng là 1.5 mét so với 1.3 m cách đây một năm. Những cây đước mới được trồng, nhưng nhiễm mặn từ nước biển dâng lên và độ pH có sẵn có thể giết chết các cây non.
Lê Anh Tuấn thuộc Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí Hậu ở Cần Thơ lo ngại về nhiễm mặn và giông bão ngày càng lớn. "Nước mặn đang làm hư hại cơ sở hạ tầng như dây cáp điện. Tốc độ gió đang tăng lên. Dần dần nguồn cung cấp nước của chúng tôi bị nhiễm độc và kiệt quệ nhanh. Chúng tôi có thể cần mang nước từ nội địa đến vùng duyên hải. Trước mắt chúng tôi phải khuyến khích trữ nước mưa và tiết kiệm nước. Chúng tôi phải chuyển nông nghiệp ra xa vùng duyên hải."

Nông dân Nguyễn Quốc Biên chỉ về hướng biển. "Trong cơn bão vừa qua, biển vào cánh đồng tôi." Đây không phải là vấn đề riêng biệt. Các nông dân trồng mía nhìn qua con đường đê, hất cằm chỉ những người hàng xóm trồng đước. "Chúng tôi không thể nuôi tôm giống như họ. Chính quyền không cho phép điều ấy ở phía bên này đê. Nhưng các hiệp ước thương mại quốc tế có nghĩa là giảm 50 phần trăm thu nhập và bây giờ chúng tôi lại có ít mưa hơn. Tương lai chúng tôi ở đâu?"
Gần đấy, một nông dân phun thuốc diệt cỏ trên đồng của mình, rồi đổ hết cặn thuốc xuống đê. Thuốc này là sản phẩm dùng để diệt cỏ dại và rễ của cây hoang dại. Khắp nơi ở đồng bằng sông Cửu Long, sản lượng giảm càng khiến xử dụng nhiều hóa chất nông nghiệp hơn, nhưng sâu rầy càng kháng thuốc hơn và nước chảy phải được ngăn cách với các trại tôm ngày càng nhiều.
Ngư dân khẳng định mọi sự đều tốt, nhưng phụ nữ trong vùng lại nói khác: "Cách đây hai ngày thuyền chìm. Mười người chết. Tuần rồi chiếc thuyền khác chìm cùng với 12 người. Trước đấy tám người chết. Những cơn bão dữ không thể đoán trước được. có thể càng xảy ra nhiều hơn."

Trao gánh rủi ro
Một giải pháp chính quyền đang thăm do là một cái đê trị giá 1.4 tỷ đô la Mỹ "không bao nhiêu" do công ty tư vấn Hòa Lan từng quản lý những công trình tương tự ở những nơi dễ bị ngập khác đề xuất. Nhưng giới giảng dạy ở Đại học Cần Thơ không mấy ấn tượng.
"Vấn đề hoàn toàn không phải là xây dựng những thứ vô bổ như thế," Lý Quốc Đẳng ở Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long bày tỏ. "Uỷ ban trung ương thích xây đê vì họ kiếm được tiền, nhưng liệu chúng có hiệu quả?" Ông nhún vai. "Chúng tôi có những chuyên gia của chúng tôi biết hệ thống và nhân dân của chúng tôi. Các giải pháp liên quan đến chính trị hơn là kỹ thuật."

Khác với nhiều viên chức người Việt cấp cao, cả Đẳng và tiến sĩ Phi đều hiểu rằng các biện pháp bảo vệ ngập lụt lớn hơn không nhất thiết tốt hơn, và nếu thành phố muốn phát triển thịnh vượng về lâu dài, thành phố sẽ cần làm việc thuận với thiên nhiên thay vì nghịch với thiên nhiên. Những chính sách ngày hôm nay chỉ chuyển những rủi ro ngập lụt sang cho những thế hệ tương lai.

Theo quan điểm của Phi, chỉ có thảm họa mới có thể thay đổi cách bảo vệ ngập thiển cận của chính quyền. "Có nhu cầu thay đổi xã hội rất lớn," ông nói. "Người nghèo không may sẽ cảm thấy điều này nhất nhưng họ có ít khả năng thích nghi nhất. Nhưng họ sẽ phải thích nghi nếu họ muốn được bảo vệ. Quan trọng nhất cho điều này là khả năng có được thu nhập. Khi mực nước biển tăng, ngập lụt càng tồi tệ hơn. Chúng tôi phải làm cho sinh kế của mọi người ít phụ thuộc vào nước hơn, chẳng hạn bằng cách giảm sự phụ thuộc vào lúa gạo. Nhưng hoàn cảnh đang thay đổi nhanh, quá nhanh so với mức độ phối hợp cần thiết."

Nguồn: Dịch từ tạp chí Anh Geographical số tháng Mười Một 2015 trang 54-59. Tựa đề nguyên tác "Delta Blues". Tựa đề tiếng Việt của người dịch.