Sunday, February 27, 2022

NƯỚC ‘NỔI’ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG MÙA KHÔ?

Nguyễn Minh Quang

17 tháng 2 năm 2022

Mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long. [1]

 

Phần giới thiệu

Ngày 16 tháng 2 năm 2022, báo Thanh Niên có đăng tải một bài báo với tựa đề “Sẽ đảo lộn mùa khô thành ‘mùa nước nổi’ ở ĐBSCL” [1] để tường thuật về buổi hội thảo trên mạng do Trung tâm Stimson tổ chức ngày 15 tháng 2 năm 2022 [2].  Tham dự buổi hội thảo gồm có ông Alan Basist của Eyes on Earth (EoE), ông Brian Eyler và cô Courtney Weatherby của Trung tâm Stimson, chuyên viên Nguyễn Hữu Thiện, với sự điều hợp của cô Socheata Hean của Voice of America Khmer.  Bài báo viết: “Ông Alan Basist, Chủ tịch Dự án quan sát trái đất (Eyes on Earth) và đồng đứng đầu Tổ chức giám sát đập Mê Kông, thông tin: Hiện nay đang đầu mùa khô hạn, mọi thứ diễn biến khá bình thường; nhưng chỉ vài tuần nữa khi vào cao điểm sẽ có nhiều biến động lớn, khi Trung Quốc bắt đầu xả nước trên các đập thủy điện của họ để sản xuất điện. Vào lúc đó lượng nước trên dòng sông Mê Kông sẽ rất dồi dào chứ không phải là mùa khô như quy luật tự nhiên vốn có của nó. Từ đó, ông dự báo có thể vùng hạ lưu sông Mê Kông từ giờ về sau sẽ thay đổi theo hình thức mùa khô sẽ bị ngập lụt đáng kể nhưng mùa mưa dòng chảy bị thiếu hụt. Đây là năm thứ 4 liên tiếp dòng sông này thiếu nước trong mùa mưa mà lại thừa nước trong mùa khô.”

Ông Alan Basist nói gì trong buổi hội thảo trên mạng của Trung tâm Stimson ngày 15 tháng 2 năm 2022?  Mùa khô ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có sẽ đảo lộn thành ‘mùa nước nổi’ hay không?  Bài viết nầy có mục đích trả lời 2 câu hỏi nầy.

 

Phát biểu của ông Alan Basist trong buổi hội thảo

Ông Alan Basist là sáng lập viên của EoE, một công ty cố vấn có trụ sở ở Alexander, North Carolina, Hoa Kỳ, chuyên theo dõi và đánh giá độ ướt mặt đất; thực hiện và theo dõi việc thi hành hiệp ước nước; đánh giá và mô phỏng độ ẩm của đất và sự thay đổi; phân tích rủi ro nông nghiệp, mô phỏng mùa màng và tiên đoán năng suất; và phân tích dòng chảy của sông và tiên đoán lưu lượng ở hạ lưu [3].  Ông Alan Basist cũng là một tác giả của nghiên cứu đầy tranh cãi “Monitoring the Quantity of Water Flowing Through the Upper Mekong Basin Under Natural (Unimpeded) Conditions (Theo dõi Lượng Nước Chảy qua Thượng Lưu vực Mekong trong Điều kiện Tự nhiên (Không Ngăn chận))” trong năm 2020 [4].

Trong buổi hội thảo, ông Alan Basist đề cập đến những điểm sau đây:

·        Các đập ở thượng lưu có khả năng trữ nước rất lớn, có thể đến ½ dòng chảy.  Điều nầy làm thay đổi nhịp chảy tự nhiên của sông ở hạ lưu.

·        Việc trữ nước ở thượng lưu, lượng mưa và việc sử dụng đất làm thay đổi nhịp lũ của sông, ảnh hưởng đến thủy sản của Tonle Sap.

·        Thay đổi khí hậu không theo một chiều, nó có thể gây lũ lụt hay hạn hán.

·        Nước xả ra từ các đập thủy điện không có chứa phù sa vì đã lắng đọng trong các hồ chứa.  Điều nầy có ảnh hưởng đến ĐBSCL.

·        Các quốc gia Mekong nên liên lạc và hợp tác hơn nữa để bảo vệ sông.

·        Kỹ nghệ bảo hiểm có thể thu tiền từ các quốc gia ở hạ lưu và dùng tiền đó để bù cho mất mát tài chánh của Trung Hoa khi xả nước trực tiếp xuống hạ lưu.

Đề nghị thu tiền bảo hiểm nước của ông Alan Basist rất hay, nhưng rất khó thực hiện vì 3 lý do.  Thứ nhất, Trung Hoa phải xả xuống hạ lưu bao nhiêu nước.  Thứ nhì, phải trả cho Trung Hoa bao nhiêu tiền. Và thứ ba, mỗi quốc gia ở hạ lưu phải trả bao nhiêu tiền.

Mùa khô ở ĐBSCL có sẽ đảo lộn thành ‘mùa nước nổi’ hay không?

Theo ông Brian Eyler, Trung Hoa có 129 đập bao gồm 11 đập lớn trên dòng chánh Mekong, đặc biệt là 2 đập Xiaowan (Tiểu Loan) và Nuozhadu (Nọa Trát Độ); Thái Lan có 152 đập nhỏ trong lưu vực Mekong và dùng cho mục đích thủy nông; Lào có 68 đập, gồm có 2 đập trên dòng chánh Mekong, và đang xây thêm 37 đập; Việt Nam có 78 đập trên phụ lưu Mekong, và Cambodia có 9 đập trên các phụ lưu. [5]


Dựa trên mực nước do Ủy hội Sông Mekong đo đạc tại 2 trạm thủy học Tân Châu và Châu Đốc, cửa ngõ của sông Mekong vào Việt Nam, tất cả các đập ở thượng lưu hầu như không có ảnh hưởng đến mực nước trong mùa khô ở ĐBSCL.  Mực nước thấp nhất trong mùa khô ở 2 trạm Tân Châu và Châu Đốc giảm từ khoảng 1 m trong năm 2000 xuống khoảng 0 m trong năm 2003 và ở mức đó cho đến nay; do đó, mùa khô ở ĐBSCL chắc chắn sẽ không thể đảo lộn thành ‘mùa nước nổi.’

Mùa nước nổi là gì?

Ngày trước, vào khoảng tháng 7 âm lịch, nước sông Mekong dâng cao, tràn bờ và gây ngập lụt ở ĐBSCL; vì thế, người dân ở ĐBSCL nói “tháng 7 nước nhảy khỏi bờ” [6] để chỉ mực nước lụt ở ĐBSCL.  Nhưng mực nước lụt thay đổi từ năm nầy sang năm khác, năm cao năm thấp.

“Dựa theo dữ kiện đo đạc từ trước, Nha Thủy vận đã ấn định các mực nước để diễn tả mức độ đe dọa của nước sông Cửu Long và làm mốc cho việc tiên đoán và thông báo tin tức về mực nước lụt trong sông Cửu Long.  Trong số đó, mực nước tại hai trạm Tân Châu và Châu Đốc là quan trọng nhất (Tân Châu và Châu Đốc là hai thị trấn nằm sát biên giới Việt-Miên trên sông Tiền và Hậu).  Tại mỗi nơi có 2 mực nước: mực nước báo động và mực nước báo nguy.  Tại Tân Châu, mực nước báo động là 4,80 m và mực nước báo nguy là 5,20 m.  Tại Châu Đốc, mực nước báo động là 4,30 m và mức nước báo nguy là 4,70 m.  Chính vì sự hợp lý của các mực nước nầy mà Ủy ban Quốc tế Mekong đã dùng làm mốc cho việc phân loại các mùa nước ở ĐBSCL.  Theo cách phân loại nầy, nếu mực nước cao nhất trong năm của sông Cửu Long thấp hơn mực nước báo động, mùa nước năm đó được gọi là hạn.  Nếu mực nước cao nhất trong năm của sông Cửu Long cao hơn mực nước báo động nhưng thấp hơn mực nước báo nguy, mùa nước năm đó được gọi là mùa nước nổi.  Và nếu mực nước cao nhất trong năm của sông Cửu Long cao hơn mực nước báo nguy, mùa nước năm đó được gọi là mùa lụt.” [7]

Dựa trên biểu đồ mực nước ở Tân Châu và Châu Đốc ở trên, mực nước cao nhất của sông Cửu Long trong năm 2000 là 5,06 m ở Tân Châu, cao hơn mực nước báo động, và 4,90 m ở Châu Đốc, cao hơn mực nước báo nguy.  Kể từ đó, mực nước trong sông Cửu Long không dâng cao ngoại trừ trong năm 2001 (4,77 m ở Tân Châu, 4,45 m ở Châu Đốc), 2002 (4,81 m ở Tân Châu, 4,42 m ở Châu Đốc), và 2011 (4,77 m ở Tân Châu, 4,22 m ở Châu Đốc).  Chính vì thế mà đến mùa nước là người dân ĐBSCL “ngóng chờ lũ” để “đua nhau ra giăng lưới, bắt cá, tép nhộn nhịp hoặc đi thu hoạch bông điển điển – loại cây mọc tự nhiên trong mùa lũ.  Đây được coi là nguồn thu nhập không nhỏ của nông dân trong mùa lũ, nhất là đối với các hộ nghèo.” [8]  “Mỗi khi nước rút đi đều để lại lớp phù sa tuyệt vời.  Đó là lớp phù sa, sẽ lại tiếp tục nuôi nấng cho các loại cây trồng lớn lên, để cùng giúp cho những miệt quê, miệt đồng cuộc sống no ấm.” [9]

Mùa nước nổi mang lại nguồn cá dồi dào. [9]

 

Theo Ủy hội Sông Mekong, lũ hàng năm trong sông Mekong mang lại nhiều lợi ích như thủy sản, duy trì hình thái của sông, và lắng đọng phù sa để cải thiện độ phì nhiêu của đất.  Giá trị trung bình hàng năm của lũ lụt được ước tính vào khoảng 8 đến 10 tỉ USD.  Tuy nhiên, lũ hàng năm cũng có những ảnh hưởng tiêu cực ngăn cản việc phát triển kinh tế và giàm nghèo.  Thiệt hại trung bình hàng năm của lũ lụt được ước tính vào khoảng 60 đến 70 triệu USD, với Cambodia và Việt Nam gánh chịu khoảng 2/3 số thiệt hại nầy [10].

Phần kết luận

Báo Thanh Niên ở Việt Nam đăng tải một bài báo với tựa đề “Sẽ đảo lộn mùa khô thành ‘mùa nước nổi’ ở ĐBSCL” để tường thuật về buổi hội thảo trên mạng do Trung tâm Stimson tổ chức ngày 15 tháng 2 năm 2022.  Trong buổi hội thảo, ông Alan Basist nói rằng, chỉ vài tuần nữa, lượng nước trên sông Mekong sẽ rất dồi dào chứ không phải là mùa khô như quy luật tự nhiên vốn có của nó.  Ông cũng đề nghị các quốc gia Mekong nên hợp tác và liên lạc với nhau nhiều hơn để cứu sông Mekong và tạo ra quỹ bảo hiểm để bù trừ cho Trung Hoa khi họ xả nước xuống hạ lưu.

Dựa theo dữ kiện mực nước đo đạc được tại 2 trạm Tân Châu và Châu Đốc, các đập trên thượng lưu Mekong đã không đảo lộn mùa khô thành mùa nước nổi ở ĐBSCL trong quá khứ và sẽ không đảo lộn trong tương lai.  Tuy nhiên, các đập trên thượng lưu Mekong đã làm giảm mùa nước nổi trong mùa mưa, khiến cho người dân ở ĐBSCL phải “trông ngóng” hàng năm vì nó mang lại cho họ nhiều lợi ích.

 

Sơ lược về tác giả

Tác giả nguyên là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của tiểu bang Florida và California.  Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trường Cao đẳng Công chánh, Trung tâm Quốc gia Kỹ Thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972.  Trưởng ty Kế hoạch, Ủy ban Quốc gia Thủy lợi, Bộ Công chánh và Giao thông, Sài Gòn đến tháng 4 năm 1975.  Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh (1983) và Cao học Thủy lợi (1985) tại Đại học Nebraska, Hoa Kỳ.  Chuyên viên Thủy học (Hydrologist) của Sở Quản trị Thủy lợi, Broward County, Florida đến năm 1989.  Từ năm 1990 đến 2015, Kỹ sư Giám sát Trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở Los Angeles.  Về hưu từ năm 2016.

 

Tài liệu tham khảo

[1]       Chí Nhân. 16 tháng 2 năm 2022. “Sẽ đảo lộn mùa khô thành ‘mùa nước nổi’ ở ĐBSCL.”  Thanh Niên.  https://thanhnien.vn/se-dao-lon-mua-kho-thanh-mua-nuoc-noi-o-dbscl-post1429901.html

[2]       Southeast Asia Program. February 14, 2022. “Where’s the water: Mekong Dry Season 2022.”  Stimson Center.  https://www.stimson.org/event/wheres-the-water-mekong-dry-season-2022/

[3]       Eyes on Earth.  Accessed on February 16, 2022. “Our Products.”  Eyes on Earth. https://www.eyesonearth.org/

[4]       Basist, A. and Williams, C. April 10, 2020. Monitoring the Quantity of Water Flowing Through the Upper Mekong Basin Under Natural (Unimpeded) Conditions.  Lower Mekong Initiative, Sustainable Infrastucture Partbership, and PACT.  https://mekongsip.org/download/monitoring-water-quantity-final-version-1-6/  

[5]       Subei Rai Bhandari.  February 2022. “Experts Float Idea: Pay China to Release Mekong Water for Neighbors.”  BenarNews.  https://www.benarnews.org/english/news/thai/water-plan-02152022153226.html

[6]       Nguyễn Nhân. 21 tháng 9 năm 2021. “Miền Tây ngóng lũ.” Công an Thành phố Hồ Chí Minh. https://congan.com.vn/vu-an/phong-su/mien-tay-ngong-lu_120376.html

[7]       Nguyễn Minh Quang. Tháng 8 năm 1999. “Vài nhận xét về công tác thủy lợi và trận lụt 1978 ở Đồng bằng sông Cửu Long.”  Tạp chí Đi Tới. Số 24 Bộ mới.  Montreal, Canada.

[8]       Dân Việt. 30 tháng 8 năm 2016. “Tháng 8, người miền Tây ngóng chờ lũ.” Tri thức & Cuộc sống. https://kienthuc.net.vn/song-4-mau/thang-8-nguoi-mien-tay-ngong-cho-lu-735078.html

[9]       Vũ Xuân. 23 tháng 8 năm 2018. “Miền Tây – mùa nước nổi lại về.”  Thời báo Ngân hàng. https://thoibaonganhang.vn/mien-tay-mua-nuoc-noi-lai-ve-79242.html

[10]     Mekong River Commisssion.  Accessed February 18, 2022.  “Flood and Drought.”  Mekong River Commission. https://www.mrcmekong.org/our-work/topics/flood-and-drought/

 

 

 

 

Sunday, February 20, 2022

DỰ ÁN KINH ĐÀO HỒNG KỲ Ở TRUNG HOA: KHỦNG LONG VÀ TỘI ÁC ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI CỦA BẮC KINH?


Nguyễn Minh Quang

11 tháng 2 năm 2022

 


Dự án kinh đào Hồng Kỳ (màu đỏ) [1]

Phần giới thiệu

Dự án kinh đào Hồng Kỳ (Red Flag River Project), được loan báo lần đầu tiên vào ngày 1 tháng 11 năm 2017, là một dự án được thai nghén bởi Nhóm Nghiên cứu S4679 (S4679 Research Group) gồm có các viện sĩ, giảng sư, và học giả trẻ do giảng sư (GS) Wang Hao (Vương Hạo) của Đại học Tsinghua (Thanh Hoa) ở Trung Hoa cầm đầu. GS Wang Hao cũng là viện sĩ của Viện Hàn lâm Kỹ thuật Trung Hoa, kỹ sư trưởng của Viện Thủy lợi và Nghiên cứu Thủy điện Trung Hoa, và thành viên cốt yếu của Ủy ban Cố vấn của Bộ Thủy lợi Trung Hoa [2].

Đến ngày 11 tháng 2 năm 2022, Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (Voice of America (VOA)) đăng tải một bài viết của nhà văn bác sĩ Ngô Thế Vinh [3], trong đó, tác giả “lên án” “Trung Quốc vắt kiệt nguồn nước Á Châu” và kết luận rằng: “Với Trung Quốc ngày nay, chỉ có một tiếng nói của sức mạnh.  Cuộc đấu tranh để sinh tồn có thể dẫn tới cuộc chiến tranh vì nước ngay trong thế kỷ 21 này.”

Bài viết nầy có mục đích tìm hiểu thêm về dự án kinh đào Hồng Kỳ qua nhản quan thủy học.

Đặc điểm kỹ thuật

Dự án kinh đào Hồng Kỳ là một dự án thủy nông với tham vọng chuyển nước của các sông ở phía nam và tây nam như Yarlung Tsangpo (Brahmaputra), Salween, Mekong, Yangtze, Yalong và Dadu qua 1 hệ thống kinh đào dài 6.180 km để biến vùng Xinjiang (Tân Cương) khô cằn có diện tích khoảng 133.300 km2 thành một ốc đảo xanh tươi [4].


Hình 1. Sơ đồ dự án kinh đào Hồng Kỳ.

[Ảnh: Conservacy Commission of the China’s Ministry of Water Resources]

 

Theo The Diplomat, lưu lượng nước được chuyển là 60 tỉ m3/năm và chiếm 21% nước thượng nguồn của 3 sông quốc tế (Mekong, Salween (Nujiang) và Brahmaputra).  “Tuy nhiên, ảnh hưởng của đề nghị thật sự rất nhỏ.  Trong trường hợp của Mekong, lưu lượng từ thượng lưu sông chỉ chiếm có 2,96% tổng số lưu lượng của sông.  Đối với Brahmaputra, lưu lượng từ thượng lưu là 9,59% mặc dù Trung Hoa có diện tích lưu vực lớn nhất.  Đối với Salween, lưu lượng từ thượng lưu là 13,9%.  Vì những tỉ lệ nầy khá nhỏ, điều nầy có nghĩa là 21% lưu lượng ở thượng lưu được đề nghị cho kinh đào Hồng Kỳ cũng khá nhỏ…  Dựa trên tính toán của chúng tôi, 21% chuyển nước đề nghị từ thượng lưu của 3 sông quốc tế thật sự khá nhỏ về dòng chảy tổng quát của chúng.  Điều nầy cho thấy rằng mất mát ròng được ước tính cho mỗi sông quốc tế không nghiêm trọng như suy nghĩ ban đầu.” [2]

Theo những nhà quy hoạch dự án, nó phải mất 10 năm để xây với chi phí lên đến 4.000 tỉ yuan (650 tỉ USD) hay với chi phí ‘chuyển’ nước là 66 yuan/m3, được xem là quá cao [4].

Nhận xét

Cho đến nay, dự án kinh đào Hồng Kỳ vẫn là một “đề nghị” vì “Bộ Ngoại giao và Bộ Thủy lợi Trung Hoa phủ nhận mối liên hệ với dự án.”  [5]  Tuy nhiên, nó đã “thu hút trí tưởng tượng của trang mạng ở Trung Hoa sau cuộc họp báo đầu tiên được tổ chức để thảo luận dự án trong tháng 11 năm 2017” và “nổi tiếng trên khắp thế giới sau khi các bài tường thuật được dăng tải trên truyền thông Anh ngữ.” [5]

Theo các nhà quy hoạch dự án, “ý tưởng vĩ đại’” nầy đối mặt với những thách thức lớn lao trong nhiều lãnh vực như địa chất, kỹ thuật, kinh tế, xã hội và sinh thái và một bấp bênh rất cao.  Liệu 60 tỉ m3 nước có đủ để phát triển 133.300 km2 đất canh tác?  Một câu hỏi khác là có bao nhiêu nước có thể đến vùng được phát triển ở Xinjiang, nơi có mức rò rỉ và bốc hơi cao.  Đó là chưa kể đến ảnh hưởng môi trường, hậu quả sinh thái, và ảnh hưởng kinh tế xã hội liên quan đến các tiến trình vật lý địa cầu, hóa học và sinh học, cũng như tiến trình phức tạp của sự cân bằng hài hòa của mối liên hệ giữa con người và trái đất. Vì dự án liên quan đến các sông quốc tế, các rủi ro địa chánh trị tiềm tàng cũng cần được lưu ý. [4]

Tuy nhiên, theo Wang Hao, sinh thái không phải là vấn đề.  Ông lập luận rằng: “Những người nầy (các nhà khoa học hoạch định việc chuyển nước) không điên dại… họ có ý thức trách nhiệm.”  Ông nêu ra cái ông gọi là vấn đề chánh: “Không có nước ở tây nam và tây bắc. (Nếu dự án được thực hiện), toàn thể quốc gia sẽ thay đổi, và các thế hệ tương lai sẽ tốt hơn.” [1]

Ảnh hưởng đối với Mekong và Đồng bằng sông Cửu Long

Với những danh từ “đao to búa lớn,” nhà văn bác sĩ Ngô Thế Vinh ví dự án kinh đào Hồng Kỳ là “một khủng long của Bắc Kinh… một đe dọ to lớn, gần như tội ác cho nhân loại” để “vắt kiệt nguồn nước Châu Á” [3].  Ông còn viết: “Rồi ra, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu vẫn có một số vị tiến sĩ hay trí thức khoa bảng trong và cả ngoài nước – sẽ hành xử như những luật sư tự nguyện bào chữa cho Bắc Kinh rằng: Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc.  Họ chỉ biết dựa vào một con số đơn giản, cho rằng chỉ có 16% số lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc.  Và nay, Sông Cờ Đỏ có lấy thêm đi mấy phần trăm của con số 16% ấy thì nạn hạn hán nếu có xảy ra cũng không phải lỗi Trung Quốc.  Thực tế vào mùa khô khi nước khan hiếm nhất, lượng nước từ Trung Quốc xuống Mekong lên tới 40% và 70%, gấp hai tới bốn lần hơn con số họ cố ý trích dẫn [nguồn: https://www.lowyinstitute.org/the-interpreter/china-eyes-its-next-prize-mekong].  Và người ta vẫn có thể tự ru ngủ mà bảo rằng: tranh chấp nước “trên nguồn – dưới nguồn/upstream-downstream” bấy lâu vẫn là chuyện bình thường, ngay cả giữa các địa phương trong cùng quốc gia.”

Dựa theo các đặc điểm kỹ thuật được The Diplomat nêu trên, dự án kinh đào Hồng Kỳ chỉ chuyển 21% số nước ở thượng nguồn của các sông quốc tế, chỉ bằng 2,96% lưu lượng của sông Lancang chảy vào Mekong, và kết luận rằng “21% chuyển nước đề nghị từ thượng lưu của 3 sông quốc tế thật sự khá nhỏ về dòng chảy tổng quát của chúng.  Điều nầy cho thấy rằng mất mát ròng được ước tính cho mỗi sông quốc tế không nghiêm trọng như suy nghĩ ban đầu.” [2].  Chưa thấy một người Việt Nam nào “biện hộ cho Trung Quốc” như nhà văn bác sĩ Ngô Thế Vinh “lo ngại”!

Nhà văn bác sĩ Ngô Thế Vinh đưa ra mấy con số 16%, 40% và 70% mà ông cho là “họ cố ý trích dẫn” để bào chữa cho Trung Hoa nếu hạn hán có xảy ra.  Nhưng trong một phúc trình mới đây về tình trạng hạn hán và dòng chảy thấp trọng Hạ Lưu vực Mekong trong các năm 2019 đến 2021 [6], Ủy hội Sông Mekong cho biết: “Thượng Lưu vực Mekong chiếm khoảng 29% diện tích của toàn lưu vực và đóng góp 64 km3 hay 13,5% dòng chảy hàng năm của sông là 475 km3,” và kết luận rằng tình trạng hạn hán và dòng chảy thấp là do mưa ít và trễ trên toàn lưu vực trong 3 năm đó.

Lưu ý là con số 13,5% là tỉ lệ dòng chảy trung bình hàng năm của sông Lancang ở biên giới Trung Hoa so với sông Mekong ở cửa biển.  Tỉ số nầy thay đổi theo mùa và vị trí, như được trình bày trong Hình 2 [7] dưới đây.

Hình 2. Đóng góp vào dòng chảy trong dòng chánh sông Mekong.

Theo Hình 2, tỉ lệ đóng góp của Trung Hoa vào lưu lượng của dòng chánh Mekong ở Vientiane vào khoảng 39% trong mùa mưa và khoảng 62% trong mùa khô.  Tỉ số nầy giảm xuống ở Kratie, chỉ còn khoảng 15% trong mùa mưa và khoảng 31% trong mùa khô.

Nhưng theo một phúc trình của Đại học Tsinghua và Viện Thủy lợi và Nghiên cứu Thủy điện Trung Hoa [8], tỉ lệ đóng góp trung bình hàng năm của sông Lancang vào lưu lượng của dòng chánh Mekong là 13,8% ở Kratie.  Nếu dùng tỉ lệ nầy để đánh giá ảnh hưởng đối với Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thì dự án kinh đào Hồng Kỳ sẽ làm giảm lưu lượng nước của sông Mekong vào ĐBSCL 2,9% hay 13,7 km3/năm.  Nếu so sánh với lưu lượng ở cửa sông Mekong là 475 km3/năm, tỉ số nầy cũng bằng 2,9%.

Phần kết luận

Vào ngày 1 tháng 11 năm 2017, dự án kinh đào Hồng Kỳ được loan báo lần đầu tiên bởi Nhóm Nghiên cứu S4679, gồm có các viện sĩ, giảng sư, và học giả trẻ do GS Wang Hao của Đại học Tsinghua, Trung Hoa cầm đầu.  Đây là một dự án thủy nông với tham vọng chuyển hàng năm 60 tỉ m3 nước của các sông ở phía nam và tây nam như Yarlung Tsangpo (Brahmaputra), Salween, Mekong, Yangtze, Yalong và Dadu qua 1 hệ thống kinh đào dài 6.180 km để biến vùng Xinjiang khô cằn có diện tích khoảng 133.300 km2 thành một ốc đảo xanh tươi.  Theo các nhà quy hoạch dự án, “ý tưởng vĩ đại” nầy đối mặt với những thách thức lớn lao trong nhiều lãnh vực như địa chất, kỹ thuật, kinh tế, xã hội và sinh thái và một bấp bênh rất cao.  Lập tức, nó đã thu hút trí tưởng tượng của trang mạng ở Trung Hoa và nổi tiếng trên khắp thế giới sau khi các bài tường thuật được đăng tải trên truyền thông Anh ngữ.

Nhưng cho đến nay, nó vẫn là một “đề nghị” vì “Bộ Ngoại giao và Bộ Thủy lợi Trung Hoa phủ nhận mối liên hệ với dự án.  Vậy mà vẫn có người “lo xa” là dự án sẽ “vắt kiệt nguồn nước của Châu Á” và “có thể dẫn tới cuộc chiến tranh vì nước ngay trong thế kỷ 21 này.”  Theo The Diplomat, dự án kinh đào Hồng Kỳ chỉ chuyển 21% số nước ở thượng nguồn của các sông quốc tế, chỉ bằng 2,96% lưu lượng của sông Lancang chảy vào Mekong, và kết luận rằng mất mát ròng được ước tính cho mỗi sông quốc tế không nghiêm trọng như suy nghĩ ban đầu.  Tuy nhiên, The Diplomat đã quên rằng Trung Hoa hiện có 11 đập đang hoạt động trên sông Lancang.; do đó, cắt 21% số nước ở thượng nguồn sông Lancang không chỉ mất bấy nhiêu mà sẽ bị mất 11 lần nếu số nước đó được dùng để sản xuất thủy điện trên sông Lancang.

Dự án kinh đào Hồng Kỳ có thể là một trong những dự án vĩ đại trên thế giới, nhưng nó không phải là “khủng long hay tội ác đối với nhân loại,” vì Trung Hoa có quyền sử dụng các nguồn nước quốc tế để phát triển quốc gia một cách công bình và hợp lý và nhất là không gây nguy hại cho các quốc gia khác.

Sơ lược về tác giả

Tác giả nguyên là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của tiểu bang Florida và California.  Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trường Cao đẳng Công chánh, Trung tâm Quốc gia Kỹ Thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972.  Trưởng ty Kế hoạch, Ủy ban Quốc gia Thủy lợi, Bộ Công chánh và Giao thông, Sài Gòn đến tháng 4 năm 1975.  Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh (1983) và Cao học Thủy lợi (1985) tại Đại học Nebraska, Hoa Kỳ.  Chuyên viên Thủy học (Hydrologist) của Sở Quản trị Thủy lợi, Broward County, Florida đến năm 1989.  Từ năm 1990 đến 2015, Kỹ sư Giám sát Trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở Los Angeles.  Về hưu từ năm 2016.

Tài liệu tham khảo

[1]       Claude Arpi. April 12, 2018. “China’s craving for mad old dreams.” Claude Arpi’s Blog. https://claudearpi.blogspot.com/2018/04/chinas-craving-for-mad-old-dreams.html

[2]       Genevieve Donnellon-May and Mark Wang. October 23, 2021. “Red Flag River and China’s Downstream Neighbors.” The Diplomat. https://thediplomat.com/2021/10/red-flag-river-and-chinas-downstream-neighbors/

[3]       Ngô Thế Vinh. 11/02/2022. “Viễn cảnh 2022: Tung hoành với Sông Cờ Đỏ, Trung Quốc vắt kiệt nguồn nước Châu Á.” VOA. https://www.voatiengviet.com/a/vi%E1%BB%85n-c%E1%BA%A3nh-2022-tung-ho%C3%A0nh-v%E1%BB%9Bi-s%C3%B4ng-c%E1%BB%9D-%C4%91%E1%BB%8F-trung-qu%E1%BB%91c-v%E1%BA%AFt-ki%E1%BB%87t-ngu%E1%BB%93n-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-ch%C3%A2u-%C3%A1/6434135.html

[4]       Claude Arpi. June 6, 2018. “’Red Flag River’ diversion project.” Claude Arpi’s Blog. https://claudearpi.blogspot.com/2018/06/red-flag-river-diversion-project.html

[5]       Abigal Dawson and Matt Schrader. December 7, 2018. “’Red Flag River’: How the Media Falsely Hypes Up Dubious PRC Threats.”  The News Lens.  https://international.thenewslens.com/article/109721

[6]       Mekong River Commission. January 2022. Mekong Low Flow and Drought Conditions in 2019-2021-Hydrological Conditions in the Lower Mekong River Basin. Technical Report.  Mekong River Commission. https://www.mrcmekong.org/assets/Publications/LowFlowReport20192021.pdf

[7]       Mekong River Commission. April 2020.  Understanding the Mekong River’s hydrological conditions: A brief commentary on the “Monitoring the Quantity of Water Flowing Through the Upper Mekong Basin Under Natural (Unimpeded) Conditions” study by Alan Basist and Claude Williama (2020).  Mekong River Commission Secrertariat.  https://www.mrcmekong.org/assets/Publications/Understanding-Mekong-River-hydrological-conditions_2020.pdf

[8]       Fuqiang Tan et al. July 2020. Drought Characteristics of Lancang-Mekong River Basin and the Impacts of Reservoir Regulation on Streamflow.  Tsinghua University and China Institute of Water Resources and Hydropower Research. http://www.lmcwater.org.cn/authoritative_opinion/study/202009/P020200904567203081679.pdf