Sunday, December 31, 2017

GS. Thái Công Tụng - Hoạch định và phát triển nông nghiệp dựa vào các vùng thiên nhiên ở Nam Việt Nam (Tập san Sử Địa, tập 25, 1/3/1973)




Tiến sĩ, Kỹ sư Thổ nhưỡng học Thái Công Tụng
 
***


1.      PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ THIÊN NHIÊN TẠI NAM VIỆT NAM

LIÊN QUAN ĐẾN CÁC LÃNH VỰC NÔNG NGHIỆP

Dựa vào một số tiêu chuẩn như đất đai, địa hình, khí hậu, thủy lợi, miền Nam Việt Nam có thể phân loại thành nhiều vùng nông nghiệp. Mỗi vùng nông nghiệp có các yếu tố vừa kể tương tự như nhau và do đó vấn đề kế hoạch xử dụng đất đai trong các lãnh vực nông nghiệp như canh nông, thủy lâm, chăn nuôi cũng có tính cách tương-tự đối với mỗi vùng nông nghiệp.
Nếu các yếu tố mà thiên nhiên từ ngàn xưa đã phú cho mỗi vùng được xử dụng thích nghi nhất với từng lãnh vực nông nghiệp hay từng loại hoa màu thì sự đầu tư để thực hiện các dự án phát triển nông nghiệp của mỗi vùng cũng do đó sẽ giảm bớt mà thành quả thu hoạch được cũng rất nhiều vì chính ra, ta không thể cưỡng ép thiên nhiên mà chính là phải phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên.
Mỗi vùng thiên nhiên có những ưu điểm riêng của nó và cũng có những vấn đề đặt ra cho sự phát triển. Sự phát triển không thể hỗn loạn, trái với các điều kiện sinh môi mà phải “phát triển trong sự điều hòa” (Progress in Harmony). Đó cũng là đầu đề của Hội Chợ QSAKA tại Nhật vài năm trước đây.


Vậy thử hỏi các điều kiện sinh môi là thế nào và nhất là vị trí của các điều kiện đó trong sư xác định các vùng nông nghiệp? Sau đây, ta hãy thử phân tích các yếu tố thiên nhiên quan yếu nhất đến sự phân loại và sự thích nghi các hoạt động nông nghiệp tại các vùng.
Mọi người đều biết nước ta có nhiều loại đất đai do sự khác biệt về địa chất và khí hậu. Đất miền đồng bằng khác với đất miền cao nguyên mà ngay trong mỗi miền, đất đai cũng khác nhau nữa do sự chuyển hóa của mẫu thạch, thủy cấp...

       Về Canh Nông thì có những vùng đất bằng phẳng, phì nhiêu mà sự canh tác không gặp bất cứ một cưỡng chế nào.
Ngược lại cũng có những vùng đất có nhiều yếu tố giới hạn cho sự phát triển, hoặc là vì:
       Đất quá nhiều cát (đất régosol) ở miền duyên hải.
       Đất quá nhiều phèn (đất ở miền Đồng Tháp)
       Đất quá dốc và nông cạn (đất núi ở dãy Trường Sơn)
       Đất quá mặn và úng thủy (đất mặn ở vùng châu thổ Đồng Nai và Mũi Cà Mau).

       Về Chăn Nuôi thì có nhiều vùng có sẵn khí hậu mát mẻ và nhiều đồng cỏ thiên nhiên rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc mà khỏi lo đến cỏ ngay cả mùa nắng. Nhưng cũng có vùng chỉ có cỏ vào mùa mưa mà mùa nắng kéo dài 6 tháng và thủy cấp quá sâu nên cỏ đều khô cháy mà chỉ cần một ngọn lửa nhỏ cũng đủ làm cháy cả thảo nguyên như bài thơ của Bạch-Cư-Di:
Ly ly nguyên thương thảo
Nhất tuế nhất khô vinh
Giã hỏa thiêu bất tận
Xuân phong xuy hựu sinh
mà Tản Đà đã dịch:
Đồng cao cỏ mọc như chen
Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn
Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn
Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.

       Về Ngư Nghiệp thì có vùng có sẵn kinh rạch ngổn ngang mà về mùa mưa nước tràn vào ruộng đến mùa nước rút chỉ cần đặt ngư cụ ở những chỗ thấp nhất để cá chảy ra là bắt hoặc có thể nuôi cá dễ dàng bất cứ chỗ nào: trước nhà, sau nhà, trong hồ.
Nhưng cũng có vùng sông ngòi đều cạn về mùa nắng (miền Trung) hay có rất ít đất thấp có thể đào ao (miền cao nguyên) mà ngành dưỡng ngư tương đối ít thuận tiện hơn.
Có nhiều vùng đất tốt có đủ điều kiện hướng nông nhưng lại xử dụng vào các mục tiêu như lập khu gia cư, xưởng kỹ nghệ, nghĩa trang mà đúng ra chỉ nên xử dụng các loại đất xấu vào các đối tượng trên vì ít khi lại thấy có trường hợp hi hữu là đất đã lập khu gia cư, xưởng kỹ nghệ... lại trở về đất canh nông.

Có những vùng đất dốc nhiều, đá nhiều ở thượng lưu một dòng sông, suối mà nếu phá rừng không trồng cây lại thì đưa đến các hậu quả tai hại vô lường: lụt ở hạ lưu, cát lấp ở cửa biển, đập nước càng ngày có bùn lắng-tu (siltation) vì sự soi mòn lý học đã đem đi rất nhiều đất màu trên mặt mà không bao giờ lấy lại được. Ngược lại, cũng có những vùng còn rừng mà sự canh tác canh nông không có ảnh hưởng đến sư soi mòn vì đất bằng phẳng mà lại có thể đem đến một lợi tức kinh tế gấp bội cho người dân thì ta phải lựa chọn và cân nhắc để hoạch định các vấn đề trong việc chỉnh trang lãnh thổ.

Đất đai là của các bậc tiền bối để lại mà ta không có quyền phí phạm xử dụng sai lầm. Dòng sông là một tài nguyên quốc gia mà mọi người có bổn phận gìn giữ và xử dụng đồng đều. Ta phải điều hòa 2 khái-niệm PHÁT-TRIỂN νà ΒẢΟ TỒN (Development and conservation). Hai ý niệm đó không có gì mâu thuẫn và thực ra đó chỉ là 2 khía cạnh của cùng một vấn đề: đó chỉ là vấn đề xử dụng đất đai một cách thuần-lý.

Bây giờ ta thử hỏi: Vậy thế nào là xử dụng đất đai một cách thuần lý? Một kế hoạch xử dụng đất đai một cách thuần lý phải dựa vào 3 điều kiện ắt có sau đây:
       Hợp lý về mặt thiên-nhiên (physically sound)
       Khả thi về mặt kinh tế (economically feasible)
       Chấp-nhận được về mặt xã hội (socially acceptable)
Cả 3 tiêu chuẩn trên đều dễ hiểu mà không cần giải thích.


2.  CÁC VÙNG THIÊN NHIÊN

Dựa vào một số tiêu chuẩn như đất đai, khí hậu, thủy lợi, địa hình, có thể phân loại 4 vùng thiên nhiên rộng lớn sau đây tại miền Nam Việt Nam từ Bắc vào Nam:
       Miền duyên hải Trung-Việt
       Miền cao nguyên Trung-Việt
       Miền Đông Nam Phần
       Miền châuThổ Cửu Long
Trong mỗi vùng thiên nhiên rộng lớn, có thể phân biệt nhiều vùng nhỏ hơn do sự khác biệt chi tiết về các tiêu chuẩn vừa kể.

Mỗi vùng thiên-nhiên có các đặc điểm và vấn đề xử dụng đất đai khác nhau.

A.    Miền Duyên Hải Trung-Việt
Trung Phần gồm những đồng bằng nhỏ hẹp nằm giữa dãy Trường Sơn và biển Nam Hải, từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 11. Dãy Trường Sơn chạy dài từ Bắc đến Nam thỉnh thoảng dãy núi nầy lại đâm ra biển thành những mũi như mũi núi ở đèo Hải Vân, giữa Huế và Tourane (Đà Nẵng), mũi Varella tức Đèo Cả giữa Tuy Hòa và Nha Trang và mũi Padaran giữa Phan Rang và Phan Thiết.
Mũi ở đèo Hải Vân xác định một sự khác biệt về khí hậu, thực vậy, vũ lượng ở Huế cao hơn chừng một mét so với vũ lượng tại Đà Nẵng.
Mũi Varella chấm dứt những đồng bằng rộng rãi phì nhiêu phía Bắc và nhường chỗ lại cho các đồng bằng nhỏ hẹp phía Nam. Còn vùng mũi Padaran là vùng có khí hậu khô khan nhất Việt-Nam (700mm nước mưa/năm) và đất đai cũng khác biệt.

Dưới đây chúng ta nêu rõ đặc điểm của từng đồng bằng một từ Bắc chí Nam.

1. Đồng bằng Trị-Thiên (Quảng Trị và Thừa Thiên)
Đặc điểm của đồng bằng này là dài và hẹp. Dãy Trường Sơn ở đây rất gần biển, khoảng cách giữa biển và dãy núi nầy chỉ chừng 10 đến 20km. Đã hẹp mà đồng bằng nầy lại còn chiếm bởi những đồi cát trắng như các đồi cát tại Ái Tử giữa Đông Hà và Quảng Trị, đồi cát vùng quận Phong Điền và những đầm nước mặn (lagune) dọc duyên hải. Vùng này được tiểu thuyết hóa với danh từ “dãy phố đìu-hiu”. Đặc biệt tại đây có phá Tam Giang. Chữ Phá ở miền Trung có nghĩa là cửa một con sông lớn hoặc là chỗ gặp của nhiều cửa sông. Phá Tam Giang là chỗ mà ba cửa của sông Ô Lâu chảy ra. Sông nầy chia ra ba nhánh tục gọi là Hói, Hói lớn nhất là Hói Củi rồi đổ ra nơi gọi là Phá Tam Giang. Phá này chạy dài song song với bờ biển ngăn cách một bên là các đồi cát dọc duyên hải và một bên là ruộng phía nội địa. Phá Tam Giang ở đây cùng với Truông nhà Hồ ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị là 2 địa danh trở thành bất hủ nhờ câu ca-dao:
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ Truông nhà Hồ, sợ Phá Tam-Giang.

Ngoài những đồi cát, sợ phá nước mặn, có các phù sa ven sông ở đây đất cao mà gần nước nên là nơi có nhà cửa ở, các phù sa đất ruộng dùng để trồng lúa và các phù sa cổ sinh thường nông cạn và nghèo nàn mà thảo mộc chỉ gồm những cây thấp như cây sim, cây chủi rành, cây móc.
Các phù-sa cổ sinh gồm nhiều đất Podzolic vàng đỏ rất nông cạn có mẫu thạch gồm nhiều phiến thạch.

Vì đồng bằng có một lưu vực sông ngòi quá hẹp và dãy núi Trường-Sơn gần biển nên rất dễ bị lụt. Nạn lụt lại còn nguy hiểm thêm vì núi non ở đây đã bị đốn phá làm củi từ hàng thế kỷ nay nên rừng rú bị hư hại do ảnh hưởng của người rất nhiều. Ngày nay, với sự xử dụng dầu lửa để nấu ăn, vấn đề dùng củi nấu ăn ở đồng bằng này ít gay cấn hơn, nhưng dù sao rừng rú cũng đã bị hư hại quá độ rồi.
Do đó, nên có chương trình trồng cây gây rừng ở đây, bằng những sắc  mộc thích hợp. Trên đất régosol dọc theo biển từ Cửa Việt vào đến Cầu Hai gần đèo Hải Vân, thì trồng dương liễu để ổn định đồi cát. Giữa các hàng cây rừng nhân tạo, có một số thảm cỏ mọc và có thể dùng để nuôi bò thịt.

Tại những vùng núi nên lập những đập nước để vừa giữ nước cho các vùng hạ lưu ít bị lụt, vừa sản xuất điện để điện khí hóa nông thôn cho làng mạc và ngoài ra để vừa có thể dẫn thủy cho ruộng lúa vì tại đồng bằng Trị Thiên, có nhiều vùng chỉ làm được một vụ lúa tháng 3 vì không có nước tưới làm một vụ lúa tháng 8. Rất nhiều loại cây ăn trái trong Nam như chôm chôm, bơ, sầu riêng chưa được trồng tại đây.

Các cây kỹ nghệ như trà, café, tiêu có thể khuếch trương và cải thiện tại vùng Của và Khe Sanh có đất đỏ tương tự như đất vùng Cao Nguyên Trung Phần.
Ở các đồng bằng phù sa giữa núi và đồi cát thì phải tăng sản lượng lúa làm 2 vụ lúa sau khi tăng cường hệ thống thủy nông tăng gia xử dụng phân hóa học và bảo vệ mùa màng, dùng lúa Than Nông.

Tất cả các biện pháp này nhằm giúp cho đồng bằng Trị-Thiên tự túc càng nhiều càng tốt về phương diện lúa gạo vì đồng bằng này quá xa miền Châu Thổ Cửu Long nên sự tiếp tế lúa gạo đòi hỏi nhiều phương tiện chuyên chở.

2. Đồng Bằng Nam-Tín-Ngãi-Định.

Đồng bằng này nằm phía Nam đèo Hải Vân và tương đối rộng hơn đồng bằng Trị-Thiên vì dãy Trường Sơn ở xa biển hơn.

Đồng bằng Nam-Tín tạo nên bởi các sông Cẩm Lệ, sông Vinh Điện, sông Thu Nồn và các sông nhỏ như sông Tam Kỳ, Sông Lý Ly.

Đồng bằng Quảng Ngãi gồm những đồng bằng nhỏ, từ Bắc đến Nam có thể phân biệt đồng bằng của sông Trà Bồng, sông Trà Khúc chảy qua Quảng Ngãi và sông Vệ. Đặc biệt ở Quảng Ngãi, có thể nhận thấy nhiều diện tích đất đai được dân thủy nhờ các bánh xe đưa nước từ sông Trà Khúc vào ruộng.
Bồng Sơn có sông Lai Giang chảy qua. Sông nầy do sông Kim Sơn yà sông An Lão họp lại. Dãy Chóp Chai ngăn cách đồng bằng Bồng Sơn với đồng bằng Vạn Phú phía Nam. Rồi đến đồng bằng Phú Mỹ có sông La Xiêm Giang chảy vào đầm Nước Ngọt gần biển. Đồng bằng Bình Định thực sự do nhiều sông bồi đắp, nhất là dòng sông Hà giao phát nguyên từ dãy núi An Khê và chảy vào cửa biển Thị Nại (còn gọi là sông Côn Giang) sau khi chia thành nhiều nhánh nhỏ khi tới vùng đồng bằng và dòng sông Hà Thanh phát nguyên từ vùng Vân Canh ở phía Nam cũng chảy vào cửa Thị Nại.
Vũ-lượng có phần ít hơn đồng bằng Trị-Thiên, vì hằng năm vũ lượng các vùng này chỉ quảng 2.000mm, so với 5000mm tại đồng bằng Trị-Thiên.
Ngoài những đồi cát trắng rộng mênh mông ở vùng Quận Thăng Bình tại Quảng Tín hay các đồi cát dọc duyên hải ở Bình Định, những đất phù sa ven sông dọc sông Thu Bồn ở Quảng Nam sông Tam Kỳ ở Quảng Tín, sông Trà Bồng, Trà Khúc ở Quảng Ngãi,  sông Lại Xiêm Giang ở Bồng Sơn, sông Côn ở Bình Định, ta còn gặp những đất podzolic vàng đỏ vùng cận sơn thuộc quận Đức Dục, quận Tiên Phước, quận Hiệp Đức, quận Hậu Đức, những đất podzolic xám tại quận Phù Cát (Bình Định) và dĩ nhiên là những đất núi non.

Triển vọng và vấn đề xử dụng đất đai:
a) Tại vùng Bồng Sơn, Tam Quan, hiện có nhiều rừng dừa. Dừa ở đây nhiều đến nỗi có câu ca dao:
Công đâu công uổng công thừa
Công đâu múc nước tưới dừa Tam Quan
Như vậy có nghĩa là các loại đất ven biển rất thích nghi cho công tác trồng dừa.
Trong tương lai, có thể khuếch trương thêm ngành trồng dừa nhất là trên đất cát có 1 thủy cấp không sâu lắm. Cơm dừa có thể ép dầu làm xà phòng và bánh dầu dừa dùng để trộn làm thực phẩm gia súc.

b) Đất cát trắng dọc duyên hải có một thủy cấp sâu thì nên trồng dương liễu để ổn định cát bay.

c) Hiện đã có một nhà máy đường tại Quảng Ngãi.
Ta nên nhớ là với 5 nhà máy đường Quảng Ngãi, Bình Dương và Hiệp Hòa. Số lượng đường sản xuất ra vẫn không đủ cho nhu cầu trong xứ vì với dự trù sản xuất 60 000T đường chỉ thỏa mãn được quảng 1/5 nhu cầu đường, cho nên có thể khuếch trương trồng thêm mía, đặc biệt là tại đồng bằng Bình Định. Đồng bằng Bình Định có sông Công và các phụ lưu chảy qua và trong tương lai, một dự án làm các đập ở phía thượng lưu sông này hoặc tại sông Ba ở An Khê giúp có thêm nước để tưới mía. Do đó, vấn đề trồng mía nên được để ý không những bởi các cơ quan nông nghiệp mà còn bởi các công ty đường trong tương lai nữa,
Thực ra ở Bình Định cũng có trồng mía nhưng chỉ có các lò đường ép theo lối tiểu công nghệ mà thôi.

d) Đậu phụng hiện chiếm một diện tích khá nhiều ở các đồng bằng Nam-Tín, Ngãi-Định.
       Quảng Nam 4,000 (thống kê nông nghiệp 1967)
       Quảng Tín 3.200 ha
       Quảng Ngãi 2.800 ha
       Bình Định 5.000 ha

Tổng cộng là 15.000 ha nghĩa là riêng 4 tỉnh này đã chiếm đến 40% diện tích toàn quốc (25.000 ha), đủ thấy khả năng đất đai trong việc trồng đậu phụng ở các vùng này. Tuy trồng nhiều nhưng không có được một nhà máy ép dầu vì toàn là ép dầu theo lối tiểu công nghệ vừa tốn công, vừa không trích được nhiều dầu. Vậy tại sao không nghĩ đến việc thiết lập một nhà máy ép dầu trong tương lai ở các vùng này? Thay vì chỉ tập trung tại vùng Sài Gòn? Phối sản của dầu đậu phụng là bánh dầu có thể dùng để biến chế ra tàu vị yểu hay làm thực phẩm gia súc

e) Các vùng đồi núi Cận Sơn của các quận Hiệp Đức, Hậu Đức, Tiên Phước, Trà Bồng, Nghĩa Hành có thể tăng thêm giá trị nên trồng quế là một sản phẩm vừa có thể xuất cảng được, vừa trùng tu lại đất đỡ bị soi mòn vì rừng quế che chở đất đai chống các tác nhân xâm thực.

3. Đồng bằng Yên-Hòa (Phú Yên và Khánh Hòa)

Phía Nam Qui Nhơn các đồng bằng tương đối hẹp hơn vì có nhiều rặng núi đâm ra sát bờ biển. Đường quốc lộ số 1 phải xuyên qua những đèo như đèo Cù Mồng, đèo Cả, đèo Rọ Tượng, đèo Rù Rì

Đồng bằng Phú Yên gồm hai đồng bằng chính: phía Bắc là đồng bằng Tuy An do sông Cái chảy qua, đó chỉ là một đồng bằng nhỏ, và phía Nam là đồng bằng Tuy Hòa do sông Ba bồi đắp. Sông Ba là một sông phát nguyên từ vùng Thượng Kontum sau khi chảy về An Khê và Cheo Reo thì chảy về Tuy Hòa. Nhờ Đập Đồng Cam ở gần Cung Sơn, nên có lối 18.000 ha ruộng có thể dẫn thủy được. Ngoài những vùng đất phẳng lì của vùng đồng bằng, còn có nhiều đồi núi, có nhiều đá basalte sinh ra một loại đất đen ở vùng sông Cầu. Tại miền Cung Sơn có cao nguyên Tân Hội - Trà Khê là một cao nguyên tạo nên bởi đá basalte, sinh ra nhiều đất đen.

Mũi Varella ngăn cách hoàn toàn đồng bằng Phú Yên với đồng bằng Khánh Hòa. Một vài đồng bằng nhỏ như đông bằng Vạn Giả chạy dài giữa biển và núi rồi đến đồng bằng Ninh Hòa ở đây nhiều sông khi tới gần biển, chan hòa lẫn lộn với nhau tạo thành những đầm nước mặn, ở đây có nhiều rừng sát.

Đồng bằng Khánh Hòa thực sự tương đối nhỏ hơn đồng bằng Tuy Hòa, rồi sau đó có một vài vùng ruộng thuộc đồng bằng Ba Ngòi nhỏ và khô khan, báo trước cho vùng đồng bằng Phan Rang - Phan Thiết.

Đồng bằng Phú Yên có đất đai rất màu mỡ. Có thể quả quyết là trong tất cả các đồng bằng miền Trung ở Nam Việt Nam, chỉ có đồng bằng này là có đất đai phì nhiêu nhất (có thể so với đồng bằng Thanh Hóa ở miền Bắc).
Thực vậy, đồng bằng Tuy Hòa có dòng sông Ba chảy qua mà dòng sông này có lưu vực vừa rộng, lại vừa chảy qua các đồi núi nhiều đá, huyền vũ ở phía thượng lưu nên đất miền hạ lưu nhiều thành phần mịn lại vừa nhiều dưỡng liệu nhất là nhiều K.

Ngoài lúa, đất đai rất thích hợp cho việc trồng mía và nếu một nhà máy đường được thiết lập tại đây như có dự định trước kia, vấn đề khả năng trồng mía tại đây không có gì là khó khăn vì đã có nước tưới nhờ đập Đồng Cam.

Các đồi núi cận sơn như vùng Cung Sơn - Tuy Bình - Trà Khê có nhiều đồng cỏ thiên nhiên nên có thể xử-dụng vào dự án phát triển nuôi bò.
Các đất cao màu đen phía Nam vùng Tuy An do đá basalte sinh ra có thể trồng hoa màu phụ, rau cải, cây ăn trái.

Đồng bằng Khánh Hòa gồm có đất phù sa dọc sông Cái ở Nha Trang và đất cao nhiều cát ở vùng Ba Ngòi - Cam Ranh. Khả năng trồng xoài trên đất cao vùng Ba Ngòi và nhất là trồng dừa ven song và đất ven biển có thể nên phát triển.
Khả năng trồng thuốc lá cũng khá lớn tại cả hai đồng bằng Yên-Hòa. Thuốc lá đen và thuốc lá nâu đều có thể trồng được trên đất phù sa ven sông dễ thoát thủy

4) Đồng bằng Ninh Thuận - Bình Thuận

Đặc điểm của hai đồng bằng này là có một khí hậu rất khô khan ảnh hưởng đến tính chất và hợp trạng của đất đai.

Ở Ninh Thuận có đồng bằng Karom và đồng bằng Phan Rang rất phì nhiêu nhờ được đất tốt và lại có nước dẫn thủy nhờ đập Nha Trinh trên sông Kinh Dinh.

Ở Bình Thuận có sông Lòng Sông tạo nên đồng bằng Tuy Phong ở phía Nam suối Vĩnh Hảo, sông Lũy chảy ra Phan Rí. Cửa tạo thành đồng bằng Phan Rí cùng với các đồng bằng Phan Rí cùng với các đồng bằng phụ thuộc như sông Mao, và cuối cùng là đồng bằng Phan Thiết do sông Cái chảy qua.

Ngoài những phù sa đã được canh tác thành ruộng lúa hoa màu, người ta chỉ thấy toàn là những đất nhiều cát rất khô khan, mà thảo mộc là một rừng thưa có nhiều tại vùng Phan Thiết, Phan Rang hay là một thảo nguyên gồm nhiều cây có gai, chống chõi được với sự khô khan. Đồng bằng Phan Thiết cũng có những loại cát đỏ như tại Lương Sơn, cát trắng dọc duyên hải và cát vàng (như thơ của Nguyễn Du: Cát vàng còn nọ bụi hồng dặm kia).

Đất đai gồm từ ngoài biển vào nội địa:
       Đất Régosol hoặc trên cát trắng hoặc trên cát đỏ. Tại các vùng cát trắng gần Phan Rang như tại các vùng ấp Vân Sơn, nông dân bón phân chuồng rất nhiều và tưới nước để trồng rau cải.
       Đất phù sa do các sông Kinh Dinh, sông Lũy, sông Mao, Sông Lòng sông bồi đắp. Có thể trồng lúa, thuốc lá, cây ăn trái, hoa màu-phụ.
       Đất nâu không vôi (non-calci brown soils) là những đất có thể sâu như ở giữa quận Thiện Giáo và Phan Lý Chàm hoặc có thể cạn đầy rẫy những đá như giữa vùng Krong Pha và Tân Mỹ ở dọc đường Phan Rang - Đà Lạt.
       Đất núi có nhiều dãy núi trọc ở vùng này và đất núi gồ ghề, sự xử dụng chỉ có tánh cách hướng lâm.

Triển vọng và vấn đề xử dụng đất đai 

a) Trong tất cả các đồng bằng miền Trung, chỉ vùng đồng bằng Phan Rang, Phan Thiết là còn có đất bỏ hoang chưa khai thác vì nhiều lý do khô khan, chưa có phương tiện dẫn thủy. Cụ thể là:
       Vùng đất cao giữa phía Bắc quận Thiện Giáo và vùng Phan Lý Chàm (Bình Thuận).
       Vùng đất phía Nam Văn Lâm ở Phan Rang đến gần Vĩnh Hảo.
       Vùng đất cao ở Hoài Trung, quận An Phước (Ninh Thuận).
       Vùng đất giữa Ba Tháp và Karom (Ninh Thuận) là các vùng đất tốt nhưng vì thiếu nước nên bỏ hoang.

b) Vùng này nếu có các công trình thủy nông thích nghi, có thể đa loại hóa với những loại hoa màu như: nho, vì nho cần đất thịt pha sét, có nhiều Ca và Mg với khí-hậu khô khan, sâu bịnh ít hơn.
       Mía vì mía thí nghiệm tại Nha Hố (Ninh Thuận) tỏ ra có có nhiều triển vọng tốt đẹp,
       Bông vải vì trước kia (năm 1958, 1959), chuyên viên Pháp cũng đã thử nhiều giống bông vải tại vùng Phan Thiết - Phan Rang và cũng đã nhận thấy vùng này rất thích hợp với bông vải.
       Các loại cây ăn trái như cam, quít cũng dễ thích nghi vì muốn có cam ngọt, thì ngoài giống cam, đất đai cũng phải có nhiều baz như Ca và K.
       Hành tây, tỏi là những rau cải cần pH cao.
c) Các đồi cát gần biển chiếm một diện tích lớn tại đồng bằng Bình Thuận và vì nhiều chỗ là cát trọc, không cây cối nên dễ bị xâm thực và nạn cát bay đã làm cho cát trắng xâm nhập mạnh vào nội địa như vùng phía Nam Vĩnh Hảo đến Phan Rí Cửa. Do đó phải có các dự án trồng cây dương liễu để bảo tồn tài nguyên thiên nhiên vì nếu không, nạn xâm thực càng nhiều.

B. Miền Cao Nguyên Trung Việt

Dãy Trường Sơn chạy dài từ Bắc đến Nam phân chia vùng Cao Nguyên Trung Phần và Trung Phần. Dãy núi nầy rất dốc về phía Đông vì gần biển, còn về phía Tây nó thoai thoải để tạo nên nhiều cao nguyên như Pleiku, Cao Nguyên Darlac, Cao Nguyên Langbian, Cao Nguyên Quảng Đức và Lâm Đồng. Ngoài những cao nguyên còn có những đồng bằng Sông Ba ở Cheo Reo, đồng bằng Lạc Thiện ở Ban Mê Thuột và đồng bằng Sông Bla ở Kontum là 3 cái lớn nhất.

1) Cao Nguyên Kontum:

Cao Nguyên Kontum nằm phía Bắc Cao Nguyên Pleiku và cao độ quãng 400m.
-  2 dòng sông chính là sông Dak Poko chảy theo hướng Bắc Nam để rồi chảy nhập vào sông Sesan qua Stung Treng ở Cambodia.
- Sông Bla chảy hướng Đông Tây qua thành phố Kontum và nhập vào sông Dak Poko. Kontum là một vùng ở cao mgụyên mà người Việt Nam đến định cư từ lâu nhất (từ đời vua Tự Đức). Đồng bằng sông Pla ở Kontum có đất phù sa có thể trồng lúa, bắp, đậu phụng hoặc cây ăn trái trên đất cao ít bị lụt.
Ngoài đất phù sa, tại Cao Nguyên Kontum có đất podzalic vàng đỏ như tại vùng DakTo, Tri Đạo, Tân Cảnh có thể khai khẩn để trồng trọt hoa màu. Các loại đất này tương đối không gồ ghề và nằm dọc 2 bên đường từ Kontum đi DakTo và từ DakTo qua biên giới Wit Lao,
Ngoài ra phần lớn đất đai còn lại, chỗ là núi non trùng trùng điệp điệp, nhất là phía Bắc Đông Bắc là dãy núi Trường Sơn ngăn cách vùng Cao Nguyên với đồng bằng Nam-Tín-Ngãi.


2) Cao Nguyên Pleiku:

cao-độ quãng 800m xung-quanh tỉnh lỵ Pleiku và hạ thấp xuống 400m ở phía Tây (vùng quận Lệ Thanh gần biên giới Cambodia). Cao nguyên nầy hiện còn một vài di tích hỏa diệm sơn cũ như núi Chudron ở phía Nam Pleiku chừng 12km. Ngoài các núi trên, có cả những hồ miệng hỏa diệm sơn (lacs de cratère) như hồ La Bang và Tonueng Prong và các trũng đất thấp hình hơi tròn mà người GiaRao gọi là (Donau).
Cao nguyên nầy thông thương với đồng bằng Bình Định nhờ một vài đèo như đèo Mang Yang 850m và đèo An Khê, và với đồng bằng Tuy Hòa nhờ thung lũng Cheo Reo.

Cao-Nguyên Pleiku gồm những loại đất đỏ có mức phì nhiêu kém hơn những loại đất đỏ Cao Nguyên Banmethuot vì dòng sông Ba chảy gần đó đã đào sâu địa diện nên sự trực di các cation như Ca, Mg rất dễ dàng, pH thấp quãng 4, 5.
Thảo mộc là một đồng cỏ thấp vì nạn làm rầy quá nhiều khiến thảo mộc không kịp tái tạo. Đất đỏ Cao Nguyên Pleiku, đặc biệt là vùng xung quanh thị xã Pleiku xấu hơn đất đỏ ở phía Tây Cao Nguyên này gần biên giới Việt-Miên.

Đất đỏ phía Tây Cao Nguyên Pleiku (vùng quận Lệ Thanh) là vùng có nhiều địa điểm dinh điền xưa kia, sau này vì tình hình an ninh nên bị bỏ phế. Khi hòa bình vãn hồi, vùng này có thể phục hồi lại nhanh chóng bằng cách định cư lập ấp vì đất rất tốt, có thể trồng trà, cây ăn trái hoặc các hoa màu như thuốc lá, khoai lang. Còn vùng quanh thị xã Pleiku cũng có thể trồng các hoa màu như trên, nhưng phải bón phân chuồng và phân hóa học nhiều hơn.

Cao Nguyên Pleiku có đất đai ít màu mỡ hơn đất Cao Nguyên Lâm Đồng vì mùa nắng ở vùng Pleiku gắt hơn. Tuy nhiên với phân hóa học vẫn có thể trồng trọt được nhiều loại hoa màu nhưng nên trồng cây đa niên như cây ăn trái, cây trà vì trồng hoa màu hằng niên, đất dễ bị soi mòn. Trồng trà thì cần lựa vùng nào có thể xây các đập nhỏ trên suối để có thể bơm nước vào mùa nắng.

3) Cao Nguyên An Khê

Cao nguyên này có cao độ quãng 450m và một cách tổng quát, đó là một vùng đất xung quanh An Khê nằm giữa 2 đèo: đèo Mang ở phía Tây, đèo An Khê (tức đèo Mang Yang) phía Đông, và phía Bắc là vùng Kannack cách An Khê chừng vài chục cây số và phía Nam giáp với thung lũng sông Ba ở Cheo Reo.
Cao nguyên này có nhiều đất đai đã được người Việt Nam canh tác từ lâu thành ruộng lúa hoặc vườn cây ăn trái. Về phía Tây cao nguyên nầy là vùng đất đỏ của Cao Nguyên Pleiku.
Sông Ba chảy qua Cao Nguyên An Khê theo hướng Bắc-Nam và sau khi đến Cheo Reo thì chảy ra Nam Hải. Dòng sông Ba ở ngay An Khê lởm-chởm những đá.
Tuy vùng An Khê này thuộc tỉnh Bình Định về phương diện hành chánh, nhưng căn cứ vào hình thể và cao độ thì cao nguyên này thuộc vùng Cao Nguyên Trung Phần chứ không thể cho vào đồng bằng duyên hải Trung Việt.

Mùa mưa ở Cao Nguyên An-Khê trễ hơn ở Pleiku nhưng sớm hơn ở Qui Nhơn. Đất đai một phần là đất phù sa của Sông Ba, nhưng phần lớn thuộc nhóm “đất nâu không vôi” có pH cao, nhiều dưỡng liệu.
Đất đai khả canh tại đây có thể gặp đọc đường từ An Khê đi Kannack phía Bắc An Khê. Đất thích hợp với thuốc lá, hoa màu phụ như bắp, đậu phụng, đậu nành hoặc cây ăn trái như cam quít xoài, nói khác đi, có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp.

4) Cao Nguyên Darlac:

Cao Nguyên nầy có cao độ chừng 400m và địa diện tương đối ít gồ ghề hơn vùng Pleiku. Cao Nguyên Darlac có những phần đất có cao độ lối 800m về phía Đông Bắc, cần chỗ tiếp giáp với dãy núi Chu Dịu và cao độ hạ xuống từ từ về phía Nam và phía Tây, 300m phía Tây Nam ở Bandon, 400m phía nam đồng bằng Lạc Thiện. Cao Nguyên Darlac có nhiều dòng suối chảy về sông Srépok, sông Krong Anna phía Nam. Và sông Ba (Cheo-Reo) phía Đông. Tuy nhiên phần lớn suối đều chảy về phía Nam và phía Đông theo đúng độ dốc tổng quát của vùng nầy.
Một cách tổng quát, về phía Tây Cao Nguyên Darlac, sông suối chảy theo hướng Đông Tây cho nên ta có thể thấy nhiều ngọn đồi rất dài xếp đặt song song theo chiều Đông Tây, còn về phía Đông Cao Nguyên có sông Krong Buk là sông lớn chạy theo hướng Bắc Nam.

Cao-Nguyên Darlac gồm những loại đất đỏ hay đất đen do đá huyền vũ tạo nên, một vài đồn điền cao su như CHPI, đồn điền Meval, đồn điền Buôn Hô đã được thiết lập tại đây từ lâu. Mật độ các làng Thượng khá lớn ở Cao Nguyên Banmêthuột và vào các năm 1960-1962, cũng có nhiều địa điểm dinh điền như Đạt Hiếu, Quảng Nhiêu, Buôn Hô và các địa điểm dọc quốc lộ Banmêthuột đi Nha Trang,

Đất đai cao nguyên này thích hợp với cao su, café bơ, xoài. Mùa nắng là một cưỡng chế trong việc phát triển nông nghiệp vì thủy cấp cao nguyên này rất sâu và các suối thường ít hoặc có một lưu vực nhỏ nên không đủ nước tưới cho hoa màu vào mùa nắng.
Đất đỏ cũng có thể trồng hoa màu phụ nhưng phải bón phân hóa học rất nhiều vì các chất dưỡng liệu ở các lớp mặt dễ bị trôi xuống sâu mà hoa màu phụ thì chỉ có một hệ thống rễ cạn nên không thể hút các dưỡng liệu ở dưới sâu được.

5) Cao Nguyên M’ Drak (Khánh Dương)

Cao nguyên này tuy ở phía Đông Cao Nguyên Darlac, nhưng có nhiều sắc thái độc đáo khiến nó khác hẳn với vùng Darlac.
Về phía Bắc Cao Nguyên M'Drak là đồng bằng sông Ba, phía Nam nó có một dãy núi ngăn cách với đồng bằng sông Krong Pach và Lạc Thiện. Phía Đông, cao Nguyên M'Drak ngự trị một cách rõ rệt trên đồng bằng Ninh Hòa bằng những núi rất dốc. Cao nguyên này gồm nhiều loại đá hoa cương, đá mica-schiste.

Ngoài ra cũng có những loại đá basalte tạo ra đất đỏ, nhất là dọc trên đường từ M'Drak đi Tuy Bình về phía Bắc, tuy nhiên diện tích đất đỏ ở đây không rộng mà cũng không liên tục như ở vùng Banmêthuột. Đất phù sa dưới những chỗ trũng, đất tụ ở chân đồi, đất đỏ, đất podzolic làm cho vùng này tương đối có nhiều nét khác biệt hẳn với sự đồng chất của Cao Nguyên Darlac.
Tuy Cao Nguyên M'Dark này, về phương-diện hành chánh thuộc tỉnh Khánh Hòa, nhưng hình thể và cao độ buộc ta phải cho vào vùng Cao Nguyên Trung Phần chứ không thể cho vào vùng duyên hải Trung Việt được.

Đất đai ở đây có địa diện tương đối gồ ghề và đây đó có thể gặp nhiều đá hoa cương nổi trên mặt.

Thảo mộc thiên nhiên là một đồng cỏ khiến trước đây quãng 1958 đã có một trại nuôi bò thịt nhưng sau này vì lý do an ninh, trại này giải tán. Vùng này có nhiều triển vọng phát triển chăn nuôi bò thịt vì có nhiều đồng cỏ xanh quanh năm

6) Cao Nguyên Quảng Đức (tức vùng Ba Biên Giới)

Cao nguyên này có địa diện gồ ghề hơn vùng Banmêthuột. Nhiều đồi núi rất dốc ngăn cách các thung lũng hẹp. Các thung lũng này nằm sâu hơn các vùng đất bằng phẳng trên cao đến vài trăm mét. Sự xoi mòn ở đây rất mạnh. Độ đốc các triền đồi, khá lớn (trên 150) nên trên triền đồi, đất đai tương đối trẻ hơn là đất trên cao hay ở những nơi bằng phẳng.
Thảo mộc thiên nhiên các vùng đất cao hầu như không có, chỉ là một đồng cỏ lưa thưa (đồi trọc) và đất đai cũng nhiều sỏi latêrít gần lớp mặt. Trái lại, ở dưới thung lũng, thảo mộc là một rừng dày. Những đồi trọc như trên có nhiều ở vùng Ba Biên Giới và còn lan rộng mãi đến vùng Buyam Map ở phía Bắc Phước Long.

Đất ở cao nguyên này phần lớn là latosol đỏ có nhiều rừng dày. Vì địa thế dốc nhiều nên sự xoi mòn đất đai cũng mạnh nếu trồng cây hằng niên. Sau này, nếu muốn khuếch trương ngành sản xuất trà, café thì có lẽ ở Việt Nam, cao nguyên này là thuận lợi nhất vì cao độ quãng 800m, mưa nhiều là các điều kiện sinh môi rất thuận tiện cho việc phát triển 2 loại cây đa niên nói trên.

Tại vùng Tây Cao Nguyên Quảng Đức gần biên giới Việt Miên có nhiều đồng cỏ khắp trên những đồi trọc không cây cối. Diện tích các đồi trọc này quảng 20.000 - 25.000 ha, cổ thể dùng vào việc chăn nuôi bò thịt hoặc bò sữa.

7) Cao Nguyên Lâm Đồng:

Cao nguyên này chiếm các vùng đất đai ở Blao và Di Linh. Những phần đất phẳng của cao nguyên này thường khá rộng, rộng hơn vùng Ba Biên Giới, và thung lũng tương đối nằm rất sâu so với vùng đất trên cao. Các thung lũng thường có hình U, nghĩa là các đáy thung lũng, gồm nhiều phù sa men suối thường rộng. Tuy nhiên cũng có một vài nơi thung lũng rất hẹp có hình chữ V ngăn cách bởi các triền dốc lớn.
Đất đai gồm phần lớn đất latosol nâu cứng ở một vùng vũ lượng cao nên sự phát triển trồng trà rất thích hợp.
Diện tích trà ở cao nguyên hiện nay quãng 10.000 ha và sau này cần trùng tu lại các vườn trà vì qua nhiều năm chiến cuộc, trà bị bỏ phế không ai chăm sóc, ngoài ra phải thay thế trà hột bằng trà cành để năng xuất trà cao hơn. Cũng có thể xử dụng đất đai vào việc phát triển cây ăn trái như bơ, sầu riêng, chôm chôm, nhất là ở các vùng ven suối.

8) Cao Nguyên Liên Khàng và Thung Lũng Dran Finnom

Vùng Cao Nguyên Liên Khàng có gồm có nhiều đất đỏ do đá basalte sinh ra và nhiều trũng nằm ở một vị trí không sâu lắm đối với vùng đất bình nguyên. Trái lại, các thung lũng của các sông chính như sông Đa Dung, Đa Nhim thường nằm rất sâu so với phần đất trên cao. Thung lũng sông Đa Nhim rất hẹp về phía thượng lưu vùng Dran, trở thành rộng khi sông này chảy vào trũng lớn Dran Finnom là một làng ở gần Liên Khàng.
Về phía Tây Nam vùng Cao Nguyên Liên Khàng là vùng Cao Nguyên Cagne mà thảo mộc rất thưa thớt.

Cao Nguyên Liên Khàng bao gồm các phần đất ở cao độ 800m và có điểm trọng tâm ở Tùng Nghĩa là một xã gồm nhiều đồng bào Thái Nùng di cư từ Bắc Việt vào Nam năm 1945. Có thể nói cao nguyên này phía Nam giáp với vùng Di Linh, phía Đông là vùng giới hạn ở quận Đơn Dương gần đập Đa-Nhim, phía Đông là vùng giới hạn với đồng bằng Lạc Thiện, về phía Bắc là chân đèo Prenn. Đất đai gồm nhiều loại như đất phù sa dọc theo sông Đa Nhim ở thung lũng giữa Đơn Dương và Phú Hội, đất đỏ ở Liên Khàng - Tùng Nghĩa và đất thấp đen ở trũng.
Tất cả các loại đất trên đều có mức phì nhiêu cao và do đổ có tính cách hướng nông:
       lúa và rau cải trên đất phù sa.
       cây ăn trái trên đất đỏ (mận, bơ, chuối, đu đủ, thơm)
Ở Cao Nguyên Cagne cách phi trường Liên Khàng chừng vài chục cây số phía Nam, có nhiều đồng cỏ thiên nhiên có thể xử dụng vào việc chăn nuội.

9)  Cao Nguyên Dalat:

Ngự trị trên Cao Nguyên Liên Khàng là Cao Nguyên Dalat nằm ở một cao độ trên 1.200m. Vùng này gồm nhiều đồi thoai thoải ngăn cách các thung lũng hẹp. Thảo mộc thiên nhiên là một rừng thông 3 lá.

Đất-đai có 2 loại đất chính: đất podzolic vàng đỏ ở trên các đồi do sự hủy hoại của đá phiến thạch có một trắc diện sâu, đất hữu cơ ở dưới các thung lũng.
Ngoài ra cũng có thể kể đất đỏ (vùng Cam Ly) nhưng diện tích quá ít.

Hầu hết các nông trại ở quanh thị xã Dalat đều trồng rau cải và loại rau được trồng nhiều nhất hiện nay là cải bắp. Sự xử dụng đất đai có tính cách rất thâm canh: phân hữu cơ, phân vô cơ, thuốc sát trùng, sát khuẩn và máy bơm nước được xử dụng tích cực.
Ngoài rau cải, cây ăn trái ôn đới như: mận, hồng cũng có thể trồng được tại đây.
Tại Cao-Nguyên Dalat, có thể lập thêm nhiều đập nước để trữ nước, vừa nuôi cá, vừa dùn g để bơm nước tưới vào mùa nắng. Các vùng thượng lưu các đập nước thì đừng nên khai phá rừng vì như vậy hồ nước chẳng bao lâu bị bùn lắng tụ làm hồ cạn như kinh nghiệm hồ Xuân Hương hiện nay.

10) Thung lũng sông Ba (Phú Bổn)

Đồng bằng thung lũng sông Ba có cao độ quãng 160m, và là một thung lũng nằm xen giữa vùng Ca -Nguyên An Khê phía Bắc, vùng Cao Nguyên Pleiku phía Tây, vùng dãy núi Chu Dju phía Nam, Thung lũng này chạy dài theo hướng Tây Bắc đến Đông Nam. Đồng bằng nầy khá rộng về phía Bắc Cheo Reo, nhất là trong khoảng giới hạn bởi sông Ayunh, sông Ba và sông Ia Pihao

Thung lũng Sông Ba có hai phong cảnh hình thể chính:
       Đồng bằng phù-sa cận-đại nằm dọc theo các sông Ba và sông Ayunh. Trong khi dòng sông Ba chảy rất thẳng vì lưu lượng nước nhiều hơn thì dòng sông Ayunh có nhiều khúc quẹo (méandre) uốn quanh co.
       Đồng bằng phù sa cổ sinh nằm trên bậc thềm của các dòng sông nói trên. Đất đai ở đây nghèo nàn hơn và nhiều cát, có rừng thưa bao phủ.

Trong các suối chảy vào Sông Ba và sông Ayunh có các suối:
       Ba Pihao, phụ lưu của sông Ba
       Ea RơBal, phụ lưu của sông Ba
       Ea Sol, phụ-lưu của sông Ayunh
       Ea Yao, phụ lưu của sông Ayunh
là có nước quanh năm, còn các suối khác thì cạn về mùa nắng hoặc dòng suối đầy những cát.

Khí hậu ở đây khô khan vì vũ lượng chỉ có 1.300m hằng năm. Vì vũ lượng khô khan, nên đất-đai có pH cao, nhiều Ca và Mg. pH đất quảng 6,5. Đất-đai gồm 3 loại đất chính :
       Đất phù sa thịt pha sét do sông Ba và các phụ lưu Ea Aytunh, Ea RơBal, Ea Pihao bồi đắp.
       Đất régur có nhiều sét trên các phù sa cổ sinh. Đất này cũng có pH cao, nhưng vì nhiều sét nên đất dính và dẻo vì mùa mưa và cứng chắc vào trời nắng.
       Đất podzolic xám nhiều cát, khô khan, có thủy cấp khá sâu.

Thung lũng sông Ba cần nhất là dẫn thủy thì mới có thể phát triển nông sản được vì mùa nắng gắt, mà mùa mưa bảo lại dễ bị lụt vì là một thung lũng nên nước dòng sông dâng lên, nước trên núi chảy xuống. Tuy nhiên, các hoa màu đây có thể thích-hợp:
       Bắp, đậu phụng, đậu nành, trên các đất phù sa của sông Ba, sông Ba Ayunh.
       Bông vải có thể trồng được nhưng phải là bông vải trồng về mùa nắng trên đất có thể dẫn thủy được, vì trồng mùa mưa dễ lụt.
       Thuốc lá đen hay thuốc lá nâu Virginie
       Lúa trên đất régur hoặc mía

Ngoài các hoa màu, đồng bằng Phú Bổn là nơi có thể khuếch trương chăn nuôi theo lối dã thảo (ranch) nghĩa là thả trâu bò ăn trong những đồng cỏ, trên một diện tích quy mô vì ở đây có nhiều rừng thưa có cỏ hòa bản mọc dưới rừng.

Chỉ có 2 địa điểm dinh điền là Quý Đức và Tín Lập có người Việt-Nam ở, còn hầu hết là đồng bào Thượng. Cần nghiên cứu lập thêm nhiều đập nước ở vùng cao để nước có thể xuống các phần đất thấp bằng trọng lực thì triển vọng phát triển nông nghiệp mới lớn vì đồng bằng này quá khô-khan.

11) Đồng-Bằng Lạc Thiện

Phía Đông Nam vùng Banmethuot là đồng bằng Lạc Thiện gồm nhiều phù sa men sông Krong Pach, Krong Anna và phù-sa ngập nước.
Ngoài ra ở những chỗ đất trũng có đất than bùn nhiều chất htti-co.
Ở phía Nam đồng bằng Lạc Thiện là đồng bằng Blao Siêng.

Đồng bằng này gồm nhiều đất phù sa úng thủy và dễ bị lụt về mùa mưa, vì thiếu hệ thống thoát thủy. Trước đây vào năm 1958-1960, có một vài địa điểm dinh điền tại đồng bằng Lạc Thiện, sau này vì tình hình an ninh nên các địa điểm này không còn hoạt-đông, Một khi hòa bình vãn hồi, cần tái lập và đem thêm nông dân vào đây lập nghiệp vì ở đây đất tốt và còn bỏ hoang nhiều.

Ngoài lúa, có thể trồng rau cải, mía, hoa màu phụ. Có thể đào hồ nuôi thêm cá để tận dụng đất đai và ngoài ra lại có thêm nguồn thực phầm nhiều protéin cho nông dân.

C. Miền Đông Nam Phần

Miền Đông Nam Phần là một vùng giao tiếp giữa miền Châu Thổ Cửu Long và Cao Nguyên Trung Phần. Ngoài những đồng bằng phù sa men theo sông Saigon và sông Đồng Nai, vùng này còn có những phù sa cổ sinh của hai sông trên, cũng là những vùng đất đỏ nối tiếp vùng cao nguyên.


1) Vùng Phù sa Cổ Sinh
Vùng này thường gọi nôm-ma là vùng “Đất Xám” chiếm rất nhiều diện tích ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hòa, Bình Tuy và Phước Tuy. Địa-diện vùng này thường bằng phẳng, nhưng có rất nhiều gò mối rải rác cùng mặt đất. Trong vùng đất xám, có những trũng đất thấp, những trũng này có thể là những “trũng tù” (dépression fermée) hoặc là những trũng tạo nên bởi sông suối Các trũng tù thường chỉ ở thấp hơn vùng đất xám. 1-2m, tuy nhiên tiểu địa hình (microrelief) nầy ảnh hưởng lớn đến hợp trạng của đất đai.
Các đất xám này là những phù sa của các sông ngòi lắng tụ trong một thời kỳ địa chất khá xưa (đầu đệ tứ nguyên đại Pléistocène). Sau thời kỳ lắng tụ ấy, có một thời kỳ soi mòn trong đó các sông ngòi đào sâu thêm những thung lũng. Hiện nay, người ta nhận thấy lại có một sự lắng tụ mới theo đó thì các thung lũng bị bồi đắp dần dần bởi các thủy tra phù sa.
Trong vùng đất xám, người ta dễ gặp ở một độ sâu vài thước những lớp đá latêrit. Lớp latêrit này còn gọi là “đất Biên Hòa”, thường mềm khi ở dưới sâu, nhưng trở nên rất cứng lúc bị khô.

Đất-đai ở đây gồm 2 loại chính:
       Đất podzolic xám nhiều cát pha thịt ở trên mặt, màu xám, có thủy cấp sâu.
       Đất podzolic vàng đỏ có mức phì nhiêu cao hơn đất podzolic xám và chỉ giới hạn ở các bực thềm thấp gần sông Saigon.

Đất podzolic xám thích hợp với đậu phụng vào mùa mưa vì sa cấu cát pha thịt nhưng phải bón thêm phân hóa học và một ít vôi khi trồng đậu phụng. Vì nước đào quá sâu và lắm chỗ xa nguồn nước sông, suối nên hiện nay, người ta chỉ giới hạn trồng trọt hoa màu trong những thung lũng nhỏ giữa các ngọn đồi.

Để tận dụng đất podzolic xám, nên trồng cao su vì cao su có rễ sâu nên có thể kháng hạn và có thể hút các dưỡng liệu ở dưới sâu. Có thể khuếch trương diện tích trồng cao su ở các khu vực sau trên vùng phù sa cổ sinh.
       Tây-Nam Trång-Bôm:6.000 ha
       Vùng đất xám giữa An Lộc và Lộc Ninh: 30.000 ha
       Bắc Tây Ninh: 100.000ha
Đất podzolic vàng đỏ cũng nên trồng cây đa niên như cây ăn trái, cao su hoặc cây hằng niên như đậu phụng, mía với điều kiện là phải gần nước tưới.

2) Vùng Phù sa Cận Sinh
Vùng phù sa cận sinh nằm dọc các sông ngòi: sông Saigon, sông Đồng Nai, sông Là Ngà.
Đất-đai thường ẩm ướt nhiều chất hữu cơ. Đồng bằng các vùng này tựu-trung có những tính chất thông thường của một đồng bằng sông ngòi, nghĩa là đất men theo sông suối thì tương-đối cao hơn về địa hình, còn xa sông là đất ruộng thấp hơn. Nhiều nơi ruộng xa sông có những phần đất hữu cơ.

Khả năng đa loại hóa vùng phù sa cận-sinh này rất lớn vì sông ngòi hầu như rất ít bị ảnh hưởng của nước mặn trừ phần hạ lưu của sông Đồng Nai và sông Saigon ở gần Nhà Bè. Đất phù sa men sông Saigon ở Dầu Tiếng (Tây Ninh) ở Thủ Dầu Một (Bình Dương) là những nơi trồng cây ăn trái có tiếng (chôm chôm, sầu riêng, dâu, bưởi) hoặc dùng trồng lúa, mía. Gần Búng và Lái-Thiêu, một vài vùng đất phù sa có bị phèn nhưng nhờ lên líp chất phèn dễ bị trực di trôi đi. Phù sa ven sông La Ngà còn bỏ hoang nhiều, nhất là phía hữu ngạn và có thể xử dụng vào việc trồng mía, hoa màu phụ, cây ăn trái và ngư nghiệp (đào ao thả cá). Ở thượng lưu sông Đồng Nai, cách Ta Lai (km 125 Bắc Định Quán rẽ vào trái chừng 20 km về phía Tây Bắc có thung lũng Trodate nhiều đất phù sa hoàn toàn hoang vu vì không có đường giao thông. Trong tương lai, khi có đường sá, có thể định cư nông đân thêm ở đây vì diện tích vùng Trodate này quảng 6.000 ha.

3) Vùng Cao Nguyên Bình Phước (Bình Long và Phước Long)
Vùng Bình Long, nghĩa là vùng Lộc Ninh, Hớn Quản là vùng đất đỏ bao bọc xung quanh bởi những phù sa đất xám. Trái lại vùng Phước Long toàn là đất đỏ. Cao độ vùng Phước Long chừng 200m.

Cao nguyên này bắt đầu từ mãi bên Cambodge, phía Bắc sông Bé và tràn về phía Đông Nam, qua khỏi quốc lộ 14 để sang địa phận tỉnh Bình Dương.
Độ sâu của các thung lũng đối với địa diện của toàn vùng biến thiên rất nhiều, nhưng phần lớn các thung lũng đều nằm khá sâu. Các phần đất bằng phẳng của cao nguyên có một diện tích khá biến thiên: ở phía Nam sông Bé (trục Molère từ ngoài quốc lộ I4 vào núi Bà Rá) thì các phần đất phẳng có một diện tích tương đối hẹp còn ở vùng phía Bắc sông Bé, diện tích đất bằng phẳng và rộng hơn.
Ở những vùng tiếp giáp giữa đất đỏ và đất xám, có nhiều lớp sỏi latêrit hiện ra trong trắc diện của đất-đai.

Vùng Cao Nguyên Bình Long - Phước Long có nhiều đất đỏ như Cao Nguyên Xuân Lộc, nhưng có cao độ lớn hơn vùng Xuân Lộc. Đồn điền cao su chiếm nhiều diện tích ở quanh tỉnh lỵ Bình Long và vùng Lộc Ninh. Tại Phước Long, cũng có những đồn điền cao su Đồng Xoài, Phú Riềng, Dakir, Budop. Tại Phước Long cũng có nhiều địa điểm dinh điền trồng lúa rầy, hoa màu phụ cây kỹ nghệ.
Vùng Phước Long có nhiều triển vọng khuếch trương nông nghiệp vì đất tốt còn bỏ hoang rất nhiều - đất đỏ phía Bắc Sông Bé, đất đỏ phía Đông quận lỵ Đôn Luân (Đồng Xoài cũ), các vùng đất tốt ven quốc lộ 14 lên tới ranh tỉnh Quảng Đức.

Các hoa màu thích hợp là cây ăn trái, café, cao su nghĩa là những cây đa niên do đó vấn đề soi mòn đất đai ít nguy hiểm hơn.
Diện-tích trồng cao su có thể khuếch trương tại Phước Long quãng 500.000 Ha.

4) Vùng Cao Nguyên Xuân Lộc
Cao Nguyên Xuân Lộc chiến một vùng đất đỏ nằm trong tỉnh Long Khánh. Cao độ biến-thiên từ 100 đến 200m, vùng này có địa diện tương đối phẳng chỉ trừ đây đó có điểm một vài ngọn núi (như núi Chứa Chan). Toàn vùng Cao Nguyên nầy có đá basalte ở lớp dưới sâu, tuy nhiên cũng có nhiều nơi có đá nầy ở ngay lớp mặt, đặc biệt là vùng phía Bắc Định Quản. Nhiều suối chảy qua vùng nầy bắt nguồn từ ngay trong cao nguyên nên thường ít nước về mùa nắng.

Cao Nguyên Xuân Lộc bao gồm phần lớn là những đất đỏ tại các vùng Gia Kiệm, Gia Tân, Hưng Lộc ra đến tận vùng giáp ranh với Bình Tuy.
Cao nguyên này có nhiều đồn điền cao su rất lớn như đồn điền Courtenay, đồn điền Suzannah cũng như nhiều làng do đồng bào di cư ở - người Việt, người Nùng và có trồng nhiều chuối, café, cây ăn trái và hoa màu phụ như đậu nành, bắp...
Triển vọng nông nghiệp của cao nguyên này khá quan trọng vì có nhiều đất tốt lại gần thủ đô là nơi tiêu thụ nông sản rất mạnh.

Do đó, việc khuếch trương nông nghiệp sẽ dễ dàng. Đây là một vùng mà sự đa loại hóa nông nghiệp đã được thực hiện, tuy nhiên cũng có thể ghi thêm, là vùng này có khả năng trồng thuốc lá thơm (thuốc Virginie) vì thuốc lá thơm cần các nhà máy sấy bằng hơi nóng mà củi cao su ở đây lại có nhiều để có thể sấy thuốc lá được.
Tại Cao Nguyên Xuân Lộc, sau đây là các vùng có thể khuếch trương cao-su được:
       Vùng Gia Kiệm - Dốc Mơ: 5.000 Ha
       Vùng Cầm Mỹ - Cầm Đường:  8.000 Ha
       Vùng Bắc Định Quán: 20 000 Ha

D. Miền Châu Thổ Sông Cửu Long
Châu thổ Cửu Long là vùng cổ địa hình rất bằng phẳng. Trừ một vài ngọn núi ở vùng Thất Sơn phía Tây Nam Long Xuyên, còn thì địa diện phẳng lì.

Căn cứ vào các điều kiện địa hình đất đai và thủy lợi, có thể phân biệt các đơn vị thiên-nhiên nhỏ sau đây:
1) Vùng Trung Châu Thổ
Vùng nầy còn gọi là vùng cựu thổ, gồm các tỉnh Định Tường, Long An, Vĩnh Long, Phong Dinh và các phần nội địa của các tỉnh Vĩnh Bình, Ba Xuyên, Gò Công, Kiến Hòa là các tỉnh trọng tâm trong sự sản xuất nông nghiệp tại miền châu thổ. Đất-đai toàn đất phù sa do sông Tiền và sông Hậu bồi đắp.

Địa diện bằng phẳng, chỉ trừ vài giống có đất cao như giống ở Bến Tranh, các giống ở Trà Vinh và các đất cao ven sông.

Phần lớn ruộng vùng Trung Châu Thổ Cửu Long có thể làm 2 vụ lúa một năm vì nhờ nước sông và kinh rạch. Ngoài ra, rau cải, cây ăn trái, chăn nuôi heo, gà, nuôi cá đều có thể phát triển tại đây.
Tại vài vùng bị ảnh hưởng của nước mặn về mùa nắng (Gò Công, Kiến Hòa, Ba Xuyên), hiện nay vì thiếu hệ thống dẫn nước ngọt đến, nên mùa nắng đất đai đều bỏ hoang. Do đó các dự án Gò Công, Kiến Hòa rất quan trọng để tăng gia sản lượng nông nghiệp tại đây.

Ngoài lúa, dừa là một cây kỹ nghệ nên phát triển đặc biệt là trên đất men theo kinh rạch gần biển ở Gò Công, Trà Vinh, Kiến Hòa. Các loại cây ăn trái như mãng cầu xiêm, xoài, chôm chôm, sầu riêng đều trồng được.
Nhờ các phó sản của ngành trồng lúa, ngành chăn nuôi heo có sẵn thực phẩm để phát triển. Nhờ ruộng lúa, ngành nuôi vịt cũng gặp các điều kiện thuận lợi.

2) Vùng Chương Thiện - U Minh.
 Vùng này gồm nhiều đất vừa acid, vừa nhiều chất hữu cơ và là vùng giao tiếp giữa đồng bằng phù sa nước ngọt phía Bắc và đồng bằng phù sa nước mặn ở Cà Mau. U Minh là vùng mà diện tích đất hữu cơ nhiều nhất tại Nam Việt Nam, có nhiều rừng tràm và chịu ảnh hưởng của nước mặn từ các kinh Cán Gáo, Kinh Trèm Trẹm chảy đến. Tỷ lệ chất hữu cơ trên lớp mặt có chỗ nhiều hơn 10%.

Vì lý do an-ninh, nhiều vùng đất còn bỏ hoang.
Hoa màu có khả năng phát-triển ở đây là khóm, khoai mì, khoai lang, rau cải.
Vùng Chương Thiện ít có đất hữu cơ, nhưng có nhiều đất phù sa hơi phèn, nhưng vẫn có thể trồng lúa vào mùa mưa, rau cải, hoa màu phụ vào mùa nắng tại những chỗ có nước ngọt.

3) Vùng Duyên Hải Nước Mặn
Miền này gồm những dãy đất duyên hải bị chi phối bởi nước mặn như các phần đất thuộc Quận Năm Căn, Quận Đầm Dơi ở An Xuyên, Quận Chá Rai, Quận Vĩnh Lợi ở Bạc Liêu, Quận Long Toàn, Quận Cầu Ngang ở Vĩnh Bình, Quận Bình Đại, Quận Ba Tri ở Kiến Hòa.

Đất đai ở đây là những đất mặn có nước thủy triều lên xuống hàng ngày và nhiều vùng còn có rừng Sát vì đất còn chưa cố định và gồm nhiều bùn mặn.

Đối với các phần đất phía trong nội địa hơn, thuộc các tỉnh trên, đất đai tuy cũng còn bị chi phối bởi nước mặn nhưng đã cố định và nông dân vẫn trồng lúa vào mùa mưa vì mùa nắng nước mặn trong sông rạch không thể dùng đề tưới nước.
Do đó, một cưỡng chế quan trọng về việc phát triển nông nghiệp tại đây là vấn đề thiếu nước ngọt để dẫn thủy. Hiện nay nhiều dự án Thủy Nông Tiếp Nhựt, Ba Tri, Kiến Hòa, Gò Công đã, đang hay sẽ được thực hiện và phương pháp căn bản là:
       Tạo ra những đề bao ngạn quanh khu vực chỉnh trang để tránh sự xâm nhập do nước thủy triều đưa đến.
       Đào mương để tháo nước mặn ra khỏi trắc diện.
       Dẫn nước ngọt từ các vùng ở phía thượng lưu đến. Một khi có nước ngọt thì vấn đề phát triển nông nghiệp trong mùa nắng được dễ dàng và có thể trồng được nhiều hoa màu y như vùng đồng bằng phù-sa nước ngọt.


4) Đồng Tháp
Đồng-Tháp bao gồm phần lớn đất-đai 2 tỉnh Kiến Tường và Kiến Phong và đất đai có phản ứng rất chua (pH = 5-4) và úng-thủy vì ở một địa-diện thấp.
Đất phèn về mùa nắng có pH quãng 5; về mùa mưa, vì chất phèn trôi đi xuống sâu nên pH đất cao hơn (pH = 4-4,5) nhưng pH của nước kinh rạch lại thấp vì chất phèn bị trôi ra đây và nước sông rất trong vào mùa mưa do sự kết tủa chất Al.

Công tác chỉnh-trang đầu tiên tại vùng Đồng Tháp là đào kinh để chất phèn trôi khỏi trắc diện dễ dàng. Công tác đào kinh có nhiều mục đích như hạ bớt thủy cấp, làm sự trực di các chất độc dễ dàng hơn và sau đó có thể trồng các hoa màu kháng acid như thơm, khoai mì, rồi sau một vài mùa có thể trồng lúa hay cây kỹ nghệ có rễ cạn như kináp, bắp.

Các phương thức khai thác và quản trị đất có thể có nhiều phương pháp:

 a) Phương pháp đắp mô rồi lên líp để trồng.
Thoạt đầu, phải đắp từng mô nhỏ, mỗi mô cao hơn mặt đất chừng 80cm và diện tích mặt mô chừng 2m2. Mô này cách mô kia quãng 5m để trồng các loại cây trên các mô đó.
Sau vài năm, đổ thêm đất để cho các mô đất dính liền lại và tiếp tục trồng thêm. Nhờ vậy, sau cùng ta có một líp đất và mương ở 2 bên. Nhờ líp đất đắp cao nên sự trực di các chất phèn dễ dàng hơn và nhờ mương nên các chất phèn có thể thoát xuống các mương chính và ra kinh rạch được.


b) Phương pháp đê bao ngạn và mương thoát thủy.
Đê bao ngạn có nhiệm vụ là tránh nước phèn từ các nơi khác chảy vào khu vực định chỉnh trang. Đất lấy để đắp đê bao ngạn phải lấy từ bên trong chứ không thể lấy từ bên ngoài vì đất lấy bên trong khu vực định chỉnh trang sẽ được dùng để làm mương thoát thủy luôn. Mương này vừa dùng để hạ thủy cấp, vừa để thu thập các chất phèn trong khu vực,
Nông Xã Cải Thiện Mỹ Thới ở An Giang, Nông Xã Cải Thiện Cần Thơ và Mộc Hóa đã áp dụng phương pháp này.


Để tháo nước phèn trong mương, người ta:
       Hoặc xử dụng máy bơm để bơm nước phèn ra kinh rạch hay sông ngòi lúc thủy triều xuống (nước ròng).
       Hoặc kử dụng các ống như cây dừa rồng thân để tháo nước trong mương ra kinh bằng trọng lực.
Phương pháp sau này tốn kém hơn phương pháp thứ nhất và chỉ nên áp dụng ở các khu vực dễ bị lụt, còn nếu ở vùng ít lụt (Phong Dinh, Đức Hòa) thì chỉ nên áp dụng phương pháp thứ nhất cũng đủ.
Dù sao thì sau khi quản trị mực nước như trên để bớt chất phèn trong đất, pH đất sau vài năm sẽ tăng lên. Nhưng cũng cần bón thêm phân hóa học để tăng dưỡng liệu cho hoa màu,
Hoa màu có thể trồng được sau khi cải thiện là thơm, khoai mì (rất kháng acid) hoặc trồng lúa trong mùa mưa, rau cải mùa nắng. Về cây ăn trái có thể trồng mãng cầu xiêm tháp trên cây bình bát hay chuối.

5) Vùng đất miền Tây Châu Thổ.

Miền Tây bao gồm đất đai các tỉnh Châu Đốc, An Giang, Kiên Giang và một cách tổng quát, đó là tứ giác Châu Đốc - Long Xuyên - Rạch Giá - Hà Tiên. Đất ở đây gồm 2 loại chính: đất phù sa và đất phèn.
       Đất phù sa ở dọc sông Bassac lan đến vùng Cái Sắn, Núi Sập.
       Đất phèn ở các bưng thấp từ vùng chân núi Thất Sơn đến Hà Tiên lan rộng đến quận Kiên Lương,
Điều kiện thủy lợi ở đây rất đặc biệt vì hằng năm, nước bắt đầu dâng lên cao từ 15/7 âm lịch và chỉ rút xuống vào quảng cuối tháng 9 âm lịch, do đó đến nay chỉ trồng lúa nổi là một loại lúa có thể mọc vươn cao với mực nước.
Lúa nổi năng xuất kém (1T/Ha), chu kỳ dài (180 ngày) và cũng dễ bị mất mùa vì lụt.
Muốn cải-thiện nông-nghiệp ở đây, có thể trồng:
       1 vụ lúa Thần Nông đầu mùa mưa và thu hoạch trước rằm tháng 7 âm lịch (trồng lúa Thần Nông 5 tháng 4 âm-lịch và thu hoạch 15 tháng 7 âm lịch).
       Để đất không trồng trọt vào mùa nước dâng cao.
       Trồng loại dưa hấu 15-10 âm lịch và thu hoạch dưa hấu để bán quảng 25-12 âm lịch.
       Trồng lại bắp 5-1 âm lịch, thu hoạch 30 tháng 5 âm lịch.
Dĩ nhiên, cũng còn có thể trồng đậu nành, đậu xanh hay thuốc lá trong mùa nắng. Tuy nhiên, chỉ có thể thực hiện được sự thâm canh trên nếu có máy bơm để dẫn nước vào. Hiện nay vùng này thiếu rất nhiều kinh để đưa nước từ sông Bassac vào và một khi có kinh đem nước vào thì ở 2 bên bờ kinh sự bơm nước rất dễ dàng và sự đa canh hóa nông nghiệp mới dễ thực hiện.

6) Miền Núi Thất Sơn

Núi Thất Sơn gồm các ngọn núi bao quanh vùng Trị Tôn, phía Nam Châu Đốc. Địa diện rất gồ ghề, đất nông cạn nhiều đá chỉ nên hướng lâm. Trái lại dưới chân núi có những loại đất ít chất hữu cơ và có đốm rỉ đã khai thác thành ruộng vườn trồng rau, đậu, hoa màu.

THÁI CÔNG TỤNG
              GIÁM ĐỐC VIỆN KHẢO CỨU