Following introduction in
section 1 related to the genesis of Red River delta, with sediments developed
during the post-glacial sea-level rise and alluvium deposited from rivers,
section 2 presented two main river systems
namely the Red River and Thai Binh river . The Red River begins in China’s
Yunnan province and flows southeastward through mountains. Its main
tributaries, the Đà river and Lô river join in near Viet Trì. The river carries
a large quantity of silt, rich in iron oxide, that gives it a red color. The Thai Binh river system consists of 3
rivers namely: Cầu, Thương and Lục Nam rivers. This system joining with Red
River system before spreading out to form the Red River delta .In section 3,
main water problems are highlighted and discussed. Population growth and
economic development increased pressure on water resources, from surface water
pollution due to untreated industrial and municipal waste water to salinization
and arsenic contamination in some aquifers. With these developmental pressures,
the estuarine environment and other ecosystems
face degradation due to threats of pollution, and over exploitation of
water resources. In conclusions in
section 4, an integrated and holistic approach to water resources, from
watershed conservation in uplands to mangrove reforestation and coastal
resources management is crucial.
1. Tổng quan
Tưởng cũng nên biết là
vài trăm ngàn năm trưóc, nhiều châu thổ ngày nay, từ Âu sang Á, đều nằm trong
những vùng biển cạn. Tiểu bang Florida, tiểu bang Louisiana xưa kia cũng nằm
dưới biển. Bờ biển cổ không phải là bờ biển ngày naỵ. Châu thổ của sông Hồng
cũng vậy. Thực vậy, xưa kia, trái đất đã trải qua nhiều thời kỳ băng giá và xen
kẻ là những thời kỳ tan băng:
·
Thời
kỳ thứ nhất gọi tên là Günz (từ 600 000 năm đến 540 000 năm trước)
·
Thời
kỳ thứ hai có tên là Mindel (từ 480 000 năm đến 430 000năm)
·
Thứ
ba là Riss (từ 240000 năm đến 180 000 năm trước)
·
Cuối
cùng có tên là Würm (từ 120000 năm đến 10000 năm trước).
Như vậy, mỗi thời kỳ băng
giá lâu đên cả trăm ngàn năm và giữa hai thời kỳ băng hà lại có một thời kỳ tan
băng, nước băng hà tan chảy ra.
Vào các thời kỳ băng hà
thì nước co cụm lại trong các tảng băng dày nên nước biển co rút lại: đó là lúc
biển lùi (biển rút, biển thoái). Đặc
biệt vào cao điểm của thời kỳ băng hà lần cuối cách nay 20.000 năm, toàn bộ
miền Bắc nước Mỹ, toàn xứ Canada ngày nay, vùng Siberia, Bắc Trung Quốc cũng
như Bắc Âu kể cả Pháp, Đức .. đều bị băng giá bao phủ, bề dày cả chục km! Lúc đó,
mực nước biển sụt xuống 120 mét (-120 m) so với cao độ biển hiện nay (0 mét).
Đó là thời điểm người Bắc Á Châu lội qua eo biển Behring vốn nối liền Siberia
và Alaska và là tổ tiên các bộ lạc đầu tiên định cư xứ Canada này.
Khi băng hà tan, cách nay
chừng 17 hay 18.000 năm, thì mực mước biển dâng cao tương đối nhanh chóng (biển tiến).
Cách nay 11.000 năm - thời Holocen sớm-, mực nước biển còn ở mức
–55 mét
Cách nay 6.500 năm đến 5.000
năm,-vào thời Holocen giữa-, mực nước biển còn ở mức -20 mét và từ từ tiến lên, đạt mực biển như hiện nay
0 mét vào khoảng 5.000 năm trước.
Như vậy, mọi châu thổ đã
từng trải qua nhiều lần:
khi
biển tiến: lúc đó diện tích đất châu thổ bị thu hẹp
khi
biển lùi: lúc đó diện tích đất châu thổ nới rộng ra.
Khi biển tiến vào châu
thổ thì người Việt cổ phải di cư lên vùng cao hơn như vùng Trung Du (Phú Thọ,
Hoà Bình..) và chính vùng này là nơi các vua Hùng dựng nước.
Biển tiến vào châu thổ
kéo theo sự lắng tụ các trầm tích biển ở các trũng thấp, và cùng với phù sa
nước sông, hình thành môi trường nước lợ
(brackish water) với rừng thực vật ngập mặn mọc trên đó, tạo thêm điều kiện
khiến châu thổ chóng trầm tích hơn. Song song theo đó, lại có phù sa sông ngòi
bồi đắp mỗi năm nên các bồi tích tại châu thổ sông Hồng ngày nay vừa có nguồn
gốc sông, vừa có nguồn gốc biển
Nhiều vùng ven biển thuộc
tỉnh Thái Bình, Ninh Bình chỉ cách đây vài trăm năm vẫn còn là biển nhưng với
qúa trình bồi tụ, các bãi lầy ven biển được phù sa bồi đắp dần, cộng thêm sức
chinh phục biển bằng cách quai đê lấn biển, đắp đê ngăn nước mặn, lấp trũng,
khai phá như vài vùng duyên hải Hoà Lan đã làm. Làng Kỳ Bá ở ven thị xã Thái
Bình ngày nay, vào thế kỷ thứ 10, còn là cửa biển nên có tên gọi là 'Kỳ bố hải
khẩu' .Phố Hiến (thị xã Hưng Yên ngày nay) xưa kia là cửa biển, buôn bán sầm
uất nên có câu truyền tụng: 'Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến'.. Sử sách và
ký ức truyền lưu bao đời người kể rằng vào thời hưng thịnh, thế kỷ XVII -
XVIII, thương cảng này đã từng đón bao thuyền buôn đến từ Trung Quốc, Nhật Bản,
Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp và xứ Đàng Trong.
Như vậy, trong tiến trình
thành lập châu thổ, trầm tích phù sa cổ (pleistocène) nằm dưới trầm tích phù sa
mới (holocène), với phù sa biển dưới sâu và phủ dày lên trên là phù sa sông.
Những đồi núi sót trong châu
thổ vốn là những hải đảo cũ và các dải cồn cát trong lòng châu thổ chính là các
dấu vết của các bờ biển cổ. Thực vậy, chỉ trừ tỉnh Thái Bình không có núi còn
tất cả các tỉnh khác của châu thổ Bắc Bộ đều có địa hình núi đồi xen kẻ châu
thổ.
Đồng bằng sông Hồng dễ bị
lụt nên từ đời nhà Lý, đã xây đê trị lụt. Hệ thống đê điều toàn vùng đồng bằng
đã khiến cho sự bồi đắp không đồng đều; thực vậy, bề mặt nhiều nơi còn lồi lõm.Từ
lúc xây đê, sông Hồng đổ phù sa trên cửa biển, thay vì trên đất liền, do đó
trong vùng châu thổ vẫn còn nhiều nơi trũng như tại Hà Bắc và Hà Nam Ninh. Cũng
cần nói thêm ở đây là chính nhờ lượng phù sa rất lớn mà tốc độ tiến ra biển các
vùng duyên hải như Kim Sơn, Tiền Hải rất nhanh, có nơi mỗi năm bồi ra biển từ
80-100m.
2. Sông ngòi
Sông ngòi miền Bắc Việt Nam
thường được phân chia theo hai hệ thống:
·
hệ
thống sông Hồng
·
hệ thống sông Thái Bình.
Hệ thống sông Hồng với
các dòng sông nối liền là sông Chảy, sông Lô, sông Gầm, sông Đà, còn hệ thống
sông Thái Bình gồm các sông như Sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam . Toàn bộ
các dòng sông này tạo nên châu thổ sông Hồng ngày nay.
2.1. Hệ thống sông Hồng
Sông Hồng bắt
nguồn từ bên tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và chảy vào lãnh thổ Việt Nam ở Lào
Cai theo hướng Tây Bắc-Đông Nam qua thành phố Hà Nội, rồi đổ ra Biển Đông ở cửa
Ba Lạt. Chiều dài tổng cọng là 1160km
trong đó phần chảy trên đất Việt nam là 556km .Vì sông có chảy qua một vùng
sa thạch đỏ ở thượng nguồn nên phù sa có màu hồng, nên thường gọi là sông Hồng
. Sông này còn gọi là sông Thao như
trong bài hát của Đỗ Nhuận:
Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê
Cuối sông nhiều bến ai về có thấy
Làn gió xanh rì bát ngát đồng lúa ..ven bờ đê
Hồng Hà trôi xuôi đưa nước trên ngàn về khơi
Sông Thao ngoài bến Việt Trì
Có những chàng áo nâu về say mê giòng nước
…vui tràn trề.
Cuối sông nhiều bến ai về có thấy
Làn gió xanh rì bát ngát đồng lúa ..ven bờ đê
Hồng Hà trôi xuôi đưa nước trên ngàn về khơi
Sông Thao ngoài bến Việt Trì
Có những chàng áo nâu về say mê giòng nước
…vui tràn trề.
Sông
Hồng có hai phụ lưu chính là Sông Đà và
Sông Lô:
Sông
Đà (trong các sách châu Âu, sông Đà dịch là Rivière Noire), có chiều dài gần 1.010km,
vào Việt Nam trên địa phận giáp giới hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, lách qua
khe hẹp giữa hai dãy Phu Mù Su cao 1.609m và ngọn Ka Lăng 1.799m. Là sông nhánh
bên phải của sông Hồng có nguồn từ tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, chảy theo hưóng
Tây Bắc-Đông Nam qua các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Phú Thọ và hội lưu với
sông Hồng tại Việt Trì. Đoạn đầu sông trên lãnh thổ Việt Nam, sông Đà còn được
gọi là Nậm Tè.
Các phụ lưu trên lãnh thổ Việt
Nam gồm Nậm Na (ở tả ngạn), Nậm Mốc (ở hữu ngạn). Qua Lai Châu, dòng sông chảy
trong một thung lũng sâu giữa khối cao nguyên đá vôi vùng Tây Bắc. Đến Hoà Bình, gặp núi Ba Vì nên sông chuyển lên
phía bắc rồi đổ vào sông Hồng ở ngã ba Trung Hà, gần Việt Trì.
Ở khúc quanh sông Đà có
những ngọn núi cao như Ba Vì (1250m). Núi Ba Vì gần Sơn Tây là hai địa
danh đã được nhà thơ Quang Dũng bất hủ
hoá như sau:
Em ở Thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Sông Ðà cũng khiến người
ta mơ đến một chốn đầy cổ tích và thi vị mà nhà thơ Vũ Hoàng Chương gặp được:
Ai đem xáo trộn sầu kim cổ
Trăng nước Ðà giang, mộng Liêu Trai...
Trăng nước Ðà giang, mộng Liêu Trai...
Tuy sông Đà là một nhánh
của sông Hồng, nhưng đó là con sông lớn nhất miền Tây Bắc. Trong thực tế, tổng
lượng nước hàng năm của sông Đà đã góp đến gần một nửa tổng lượng nước của cả
hệ thống sông Hồng gộp lại.
Sông Đà với địa hình thích hợp nên có nhiều tiềm năng thuỷ điện nên hiện nay đã
có 3 đập thủy điện lớn ở Lai Châu,
Sơn La và Hoà Bình, mỗi đập có công suất trên dưới 2.000
megawatt. Các đập thuỷ điện này giúp tạo
điện lực, trữ nước để tưới cho các vụ lúa ở đồng bằng hạ lưu và còn giúp cắt
các trận mưa lũ lớn. Riêng tỉnh Hoà Bình có nhiều suối nước khoáng nóng, với
nguồn nước phun lên ở nhiệt độ 36 độ C, tại Kim Bôi mà nhạc sĩ Tô Hải đã nhắc
trong bài hát:
Ai về sau dãy núi Kim Bôi
Nhắn giùm tim tôi chưa phai mờ
Hình dung một chiếc thắt lưng xanh
Một chiếc khăn màu trăng trắng
Một chiếc vòng sáng long lanh
Với nụ cười nàng quá xinh
Sông Đà và núi Tản đã
được một nhà thơ tiền chiến dùng làm bút hiệu: đó là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu,
nổi danh với bài Thề non nước. Ngọn Tản viên là ngọn cao nhất của dãy núi Ba
Vì.
Ông đã có bao vần thơ
tuyệt bút viết về chốn quê này:
Vì ai cho tớ phải lênh
đênh,
Nặng lắm ai ơi, một gánh tình!
Non Tượng trời cho bao tuổi lẻ,
Sông Đà ai vặn một dòng quanh?
Nặng lắm ai ơi, một gánh tình!
Non Tượng trời cho bao tuổi lẻ,
Sông Đà ai vặn một dòng quanh?
Suối khoáng nóng lộ thiên ở Kim Bôi - Hòa Bình
·
Sông Lô là sông nhánh bên trái của sông
Hồng, bắt nguồn trong tỉnh Vân Nam
(Trung Quốc), chảy vào Việt Nam qua các
tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, rồi đổ vào sông Hồng ở thành phố Việt Trì. Đoạn sông Lô chảy trong địa phận Việt
Nam, qua các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang dài 275 km. Lưu vực sông Lô là 22
600km2.
·
Sông
Lô lại do Sông Chảy và Sông Gầm tạo
nên:
a/ Sông Chảy là phụ lưu bên phải của sông Lô, chảy qua các tỉnh Lào
Cai, Yên Bái, Phú Thọ song song với sông Hồng. Trên sông Chảy có hồ Thác Bà và
nhà máy thủy điện cùng tên.
b/ Sông Gầm là phụ lưu bên trái của sông Lô, dài gần 300 km, bắt nguồn
trên lãnh thổ Trung Quốc, và nhập vào Sông Lô cách thị xã Tuyên Quang khoảng 7
km . Một hồ thiên nhiên lớn là hồ Ba Bể, rộng
6.7 km2 nằm trong vùng núi đá vôi, cách
thị xã Bắc Cạn 60 km, thông với sông Năng, một phụ lưu của sông Gầm.
Hình 1: Châu thổ sông Hồng: các sông chính và ảnh hưởng
thuỷ triều
Tỷ lệ : 1: 1,000,000
Sông Hồng có lưu lượng
nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s (tại cửa sông) với tổng lượng
nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng nước phân bổ không đều. Về
mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có
thể đạt tới 30.000 m³/s. Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng với lượng phù
sa của sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần
1,5 kg phù sa trên một mét khối nước. Phù sa vừa giúp cho châu thổ màu mỡ
và mở rộng tiến dần ra biển nhưng đồng thời cũng làm lòng sông bị lấp đầy khiến
cho lũ lụt xảy ra và vì vậy phải có đắp đê hai bên sông để tránh lũ lụt.
Sông Hồng, khi chảy vào
miền đồng bằng, đã để lại nhiều khúc uốn cũ (old meander). Một trong những uốn
khúc cũ này tạo ra những hồ sót, trong đó hồ Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm thành
phố Hà Nội là một.
Từ Việt Trì trở ra biển,
sông Hồng có những chi lưu như sau:
·
sông Đuống (canal des Rapides), dài 65km, nối sông Hồng với sông Thái Bình ở Phả Lại
thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Sông Đuống đã được nhà thơ Hoàng Cầm thi vị hoá trong bài thơ 'Bên kia
sông Đuống' (1948):
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
hoặc:
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
·
sông
Luộc: (canal des Bambous) là một chi lưu của sông Hồng, chảy sang sông Thái
Bình theo hướng T-Đ, làm ranh giới cho các tỉnh Hưng Yên và Hải Dương ở phía
Bắc và tỉnh Thái Bình ở phía Nam.
Sông Đuống và sông Luộc nối sông Hồng và sông
Thái Bình
·
sông
Đáy, cũng là một chi lưu bên phải của sông Hồng, và chảy trong các tỉnh,
thành Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định với dòng sông chảy gần song song
bên hữu ngạn hạ lưu sông Hồng. Sông Đáy được nhắc đến trong thơ của Quang Dũng:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
(Đôi mắt người Sơn Tây)
Đổ vào sông Đáy có sông
Nhuệ, chi lưu của sông Hồng, dài 74 km, chảy qua thị xã Hà Đông, tỉnh lỵ tỉnh
Hà Tây.
Sông Nam Định và sông Phủ
Lí nối sông Hồng và sông Đáỵ
1.
Hệ thống sông Thái Bình dài
93km, bắt đầu từ khúc Lục Đầu ở Phả Lại. Gọi là Lục Đầu vì đây là chỗ tập
trung của 6 con sông (4 sông chảy vào: sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam,
sông Đuống và 2 sông chảy ra: sông Kinh Thầy, sông Bình Than)
Sông
Thái Bình do 3 sông là sông Cầu, sông
Thương và sông Lục Nam hợp nên, ngang Phả Lại và chảy ra biển:
* sông
Cầu (tên khác: sông Như Nguyệt, sông Nguyệt Đức) dài 290km, bắt nguồn từ
vùng núi tỉnh Bắc Cạn, chảy qua thị xã Bắc Cạn, thành phố Thái Nguyên, các tỉnh
Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương rồi đổ vào khúc Lục Đầu Giang ở Phả Lại. Sông
Cầu có lưu vực 3 480km2
* sông Thương: có chiều dài 157 km, diện tích lưu vực:
6.640 km² cũng phát nguyên từ Lạng Sơn, chảy theo hướng ĐB-TN qua thị xã
Bắc Giang (tên củ là Phủ Lạng Thư ơng), rồi hợp lưu với sông Cầu và sông Lục
Nam ở thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Do đó, sông Thương là
một đường thủy khá quan trọng vì chở nhiều cây tre, nứa, song, mây, gỗ, dược
liệu và các lâm sản khác về xuôi với nhịp chèo đò dị biệt: "Đò ơi! đêm nay dòng sông Thương dâng cao mà
ai hát dưới trăng ngà ...".Và Bàng Bá Lân có đoạn thơ:
Em là con gái Bắc Giang
Đôi dòng trong đục Sông Thương ỡm ờ
Nói cười ra giọng lẳng lơ
Niềm ăn nét ở xem thừa đoan trang
Tên sông đã được Đặng Thế Phong đưa vào trong
nhạc phẩm Con thuyền không bến:
"Lướt theo chiều gió.
Một con thuyền theo trăng trong.
Trôi trên sông Thương.
Nước chảy đôi dòng".
Tại
sao gọi là đôi dòng? Vì có Sông Sim [ngòi sim] bắt nguồn từ Thái Nguyên chảy
qua các huyện Hiệp Hòa và huyện Việt Yên
đến xã Đa Mai thì hợp lưu với dòng sông
Thương. Nước sông Thương vốn trong xanh nay có dòng nước đục thêm vào thành ra
sông có hai dòng chảy song song, một bên trong, một bên đục. Điểm cuối của sông Thương là thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương. Trần Hưng Đạo, một danh tướng nhà Trần vào thế kỷ 13, đã đánh
thắng quân Nguyên tại Kiếp Bạc thuộc tỉnh Hải Dương; phía đông Nam Kiếp
Bạc có núi Phả Lại, nay có nhà máy điện cùng tên. Phía đông Kiếp Bạc là các dãy
núi Côn Sơn vốn có nhiều di tích lịch sử. Nguyễn Trãi (cháu ngoại cûa Trần
Nguyên Hán) cũng thường ẩn tại rừng núi Côn Sơn.
* sông Lục Nam bắt nguồn từ Lạng Sơn, thượng lưu lòng hẹp, gồ ghề,
lắm thác ghềnh nên tốc độ dòng chảy mạnh.
Sông Lục Nam và sông Cầu
họp lại để tạo thành sông Thái Bình. Sông Thái Bình khi chảy qua các địa phương
có những tên gọi khác nhau như: sông Hàm Giang, sông Kẻ Sặt, sông Quý Cao
.. Sông Thái Bình chảy ra Biển Đông ở cửa Thái Bình, còn 2 chi lưu lớn Kinh
Thầy, Văn Úc chảy ra các cửa Bạch Đằng và Văn Úc.
Sông Bạch Đằng, còn gọi tên Nôm là sông
Rừng thường rất nổi tiếng với 3 trận thuỷ chiến:
1/ năm 938 với Ngô Quyền
đánh thắng quân Nam Hán
2/ năm 981 với vua Lê Đại
Hành phá quân Tống
3/ năm 1288: Hưng Đạo
vương thắng quân Nguyên Mông Cổ
Sông này được ghi lại với
những bài hát như Bạch Đằng Giang (Lưu Hữu Phước), Trên sông Bạch Đằng (Hoàng
Quý).
4. Vài vấn nạn sông ngòi miền Bắc
Nước là một tài nguyên
tái tạo vì ‘nước trôi ra biển lại mưa về nguồn’. Nước là một tài nguyên tái tạo và giúp cho
con người trong nhiều lãnh vực: kỹ nghệ (năng lượng, khoáng sản, biến chế, giải
trí ..) , nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, nuôi cá), sinh hoạt (tắm,
giặt..) nhưng với dân số đông, kéo theo
diện tích đất nông nghiệp trên mỗi đầu nông dân ngày càng giảm đi thì tài
nguyên nước càng ngày càng trở nên quan trọng khi mà sa mạc hoá đất đai, hạn
hán gia tăng với biến đổi khí hậu, với El Nino càng trở thành một vấn nạn có
tầm vóc toàn cầu. Một nan đề là ô nhiễm trên các dòng sông, là vì dù là ô nhiễm
không khí với bụi, ô nhiễm đất với mọi hoá chất bảo vệ thực vật thì đều trôi
vào chỗ trũng, nghĩa là vào sông suối.
4.1. ô nhiễm sông ngòi.
Sau đây là trích đoạn
trong báo bên nhà nói qua về ô nhiễm vài
dòng sông miền Bắc:
Lục Đầu Giang, nơi hợp
lưu 6 con sông lớn ở miền Bắc gồm sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông
Đuống, sông Kinh Thầy và nhánh chính sông Thái Bình. Từ bao đời nay, ngã sáu
sông là nguồn sống của hàng nghìn hộ dân làm nghề chài lưới, nuôi cá lồng bè.
Nhưng gần đây, các dòng sông bị đầu độc, nghề sông nước ở Lục Đầu Giang lâm
đường tận vận.Mất tiền tỷ chỉ trong một giờ. Trên khúc sông của Lục Đầu Giang,
bên này là thị xã Chí Linh, bên kia là huyện Nam Sách đều thuộc tỉnh Hải Dương
có hàng trăm hộ dân nuôi cá lồng bè. Cá lăng, cá ngạnh, cá quất… Tấp nập, đông
đúc không thua gì đô thị trên bờ. Nhiều gia đình có thu nhập khá, nhiều địa
phương được khuyến khích phát triển mô hình nuôi cá lồng nhằm để xây dựng kinh
tế mũi nhọn. “Ban đầu thấy cá tôm tự
nhiên chết từ thượng nguồn trôi về dạt vào bờ sống chúng tôi cứ tưởng là dịch.
Chưa kịp đưa cá lên hồ để tránh thì thấy các lồng cá chết nổi ồ ạt như kiểu bị
người ta bỏ thuốc độc vào. Con nào con nấy trắng bụng, máu từ đầu, từ mang ộc
ra đỏ lừ cả lồng bè. Cá nổi đặc lồng, dùng lưới quét không kịp, phải thuê máy
xúc vào đào hố, xúc đi chôn. Chứng kiến cảnh cá chết sạch chỉ trong nháy mắt,
vợ tôi ngất lên ngất xuống, gào khóc kêu trời, đau thắt ruột gan”, Nguyễn Đức
Nho chua chát kể.
Và sau đây là ô nhiễm
trên sông Đáy:
“Tình trạng ô nhiễm của
sông Đáy đã hàng chục năm qua, ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ đời sống mà còn
cả sự phát triển của nhân dân nơi đây. Các khu ruộng sau khi bơm nước sông ô
nhiễm vào, năng suất lúa giảm rõ rêt. Lớp bùn đen đọng lại trên mặt ruộng vài
tháng sau vẫn chưa hết”.
Thôn Lam Điền vốn là “vựa
lúa” của xã Lam Điền. Nhiều năm nay, năng suất lúa đã giảm rõ rệt do phải sử
dụng nước ô nhiễm chứa nhiều độc hại và sâu bệnh. Mặc dù người dân đã áp dụng
nhiều tiến bộ khoa học, kĩ thuật, sử dụng giống mới có năng suất cao nhưng vẫn
không bù lại được.
Nhà anh Vinh cũng có tới
6 sào ruộng. Anh bảo: Trước kia, khi nước sông chưa bị ô nhiễm, năng suất lúa
thường là từ 2 tạ đến 2 tạ rưỡi mỗi sào nhưng bây gìơ thì giảm rõ rệt, chỉ còn
trên dưới 1 tạ, nhà nào cao thì được tạ rưỡi mỗi sào. Anh Vinh cũng cho biết,
nhiều lần thôn và xã đã phản ánh về tình trạng ô nhiễm này, tuy nhiên vẫn chưa
có biến chuyển. Nhân dân vẫn mong mỏi sớm có biện pháp giải quyết để cứu lấy
dòng sông và trả lại môi trường sống trong sạch.
Tôi hỏi anh Vinh rằng tại
sao sông Đáy mấy năm nay ô nhiễm kinh khủng thế, anh ngậm ngùi: “Tại các làng
nghề dọc hai bên bờ sông xả nước thải ra đầu độc chứ còn tại sao nữa”. Vào mùa
cạn, tầm tháng 10 đến tháng 12 là thời cao điểm sản xuất của các làng nghề phía
đầu nguồn, lại trùng dịp mùa cạn, nước sông đen ngòm như bồ hóng, lội xuống,
váng bẩn dính chặt vào chân. Mùi hôi bốc lên khủng khiếp, bay vào sâu trong
làng, cách đó hàng trăm mét còn ngửi được.
Chị Đỗ Thị Bích, bán hàng
ngay bên cạnh dòng sông cho biết: “Sông bây giờ bẩn khủng khiếp. Ngày nào bán
hàng tôi cũng phải bịt kín khẩu trang mà vẫn đau đầu vì mùi hôi bốc lên”. Chị
Bích bảo, trước kia, chỉ khoảng 15 năm thôi, mọi người vẫn dùng nước sông để
ăn, tắm giặt bình thường, bây giờ thì hình ảnh đó chỉ còn lại như một kỉ niệm
đẹp, để kể lại cho nhau nghe mà nhiều lúc còn không dám tin.
Và đây là ô nhiễm trên
lưu vực sông Cầu : lưu vực sông Cầu tiếp nhận nước thải của sáu tỉnh Bắc Cạn,
Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương và một phần nước thải
của Hà Nội. Nước thải từ luyện kim, cán thép, khai thác khoáng sản ở hai tỉnh
thượng nguồn Bắc Cạn và Thái Nguyên được thải trực tiếp ra Sông Cầu, trong khi
đa số các mỏ khai thác tại lưu vực đều không có hệ thống xử lí nước thải . Lưu
lượng nước thải tại nhiều làng nghề sản xuất giấy, nấu rượu, mạ kim loại, tái
chế phế thải, sản xuất đồ gốm.. .cũng lớn và thải trực tiếp vào sông.
4.2.Ngoài ô nhiễm trên sông nước, nước ngầm cũng bị nhiễm
asen (arsenic), nhất
là tại các vùng Hà Nam, Nam Định, ở tại đây,
mức độ ô nhiễm asen nghiêm trọng như ở Bangladesh - nơi được đánh giá là
có độ ô nhiễm asen cao trên thế giới.
4.3. tác động hồ thuỷ điện:
Sông Hồng chuyên chở nhiều lượng phù sa, trong chất phù sa đó, có chứa vôi,
lân, đạm nhưng từ ngày có đập thủy điện Sông Đà, lượng phù sa giảm dần do đó
trong tương lai, ruộng phải sử dụng phân hoá học nhiều hơn. Nguồn nước của lưu
vực sông Hồng chịu sự tác động khá lớn các hồ chứa thủy điện của Trung Quốc. Bắt
đầu từ năm 2008 ở sông Đà và năm 2010 ở sông Thao, các hồ chứa thủy điện đã
thay đổi dòng chảy phía hạ lưu. Nó cũng thay đổi chế độ bùn cát, gây sạt lở, bồi
lắng lòng dẫn hạ du, ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Trên các lưu vực quanh các
đập thuỷ điện, xói mòn
đất trên các triền núi dốc sẽ gây nạn bùn lắng xuống lòng hồ, làm giảm tuổi thọ
các đập nước.
4.4. nước biển dâng lên . Chiều hướng biến đổi khí hậu toàn cầu với khí nhà
kính tăng gia sẽ làm mực nước biển dâng cao, làm ngập lụt một số đất thấp ven
duyên hải, khiến một bộ phận không nhỏ dân cư vùng thấp ven biển sẽ phải di dời
lên vùng đất cao trong khi hiện nay, mật độ dân số đồng bằng sông Hồng đã rất
cao, trên 1200 người/km2, cao gấp 5 lần mật độ dân số trung bình Việt Nam. Dân số cao lại gây áp lực trên tài nguyên
thiên nhiên với nước mặn vào sâu, xói mòn bờ biển, bùn lắng, phá rừng đầu
nguồn, tác động lên muông thú ..
5. Kết luận.
Với nhiều vấn đề vừa kể,
chúng ta thấy tài nguyên nước cần được quản lý tích hợp (integrated water
management) để điều hợp sử dụng tài nguyên này trong chiều hướng phát triển bền
vững: từ thượng nguồn với bảo vệ rừng và
giảm du canh trong lưu vực, cho đến hạ nguồn với trồng rừng ngập mặn ven biển
để giảm bớt cường độ xâm nhập triều và song song theo đó, cũng cần có chương
trình điều hoà dân số vì sức ép dân số sẽ tác động đến tài nguyên. Tại các đô
thị thì cần kiểm soát được ngập úng và ô nhiễm, cải thiện hệ thống thoát nước,
thu gom nước thải, giúp tránh được nhiều bệnh truyền nhiễm. Trước kia, nhu cầu
an ninh lương thực đòi hỏi phải sản xuất lúa gạo tại chỗ nhưng ngày nay, với
giao thông vận tải dễ dàng, phải giảm diện tích trồng lúa tại đồng bằng này vì
lúa đòi hỏi nhu cầu nước và không đem lại cho nông dân nhiều lợi tức bằng các
loại nông sản khác như rau, hoa, quả hoặc dược thảo. Đặc biệt là rau là một
loại hoa màu có nhu cầu tiêu thụ rất cao tại các đô thị, nhất là với tiến trình
đô thị hoá rất nhanh tại châu thổ sông Hồng, thì cần sử dụng nguồn nước
sạch thì rau sản xuất ra mới an toàn,
giúp giảm nhiều chứng bệnh cho người tiêu thụ .
No comments:
Post a Comment