Từ ngàn xưa, con người khi mới được con Tạo sinh
ra cách đây non một triệu năm, đã nhờ rừng mà tồn tại. Con người cổ sơ phải săn
bắn trong rừng hoang, phải tìm cây rừng để chữa bệnh. Do đó con người tôn
thờ cây như một cái gì linh thiêng, chứa đựng những linh hồn. Các tôn giáo
lớn luôn luôn nhắc nhở đến cây: cây bồ đề trong Phật giáo, rừng trúc mà Phật Thích Ca
truyền đạo.
Ở Ấn Độ, người ta thờ Kalpavrika, cây trường
sinh bất tử và trong sự thờ phượng tôn giáo Ba Tư Zarathoustra, cây thiêng
liêng có tên gọi là Hom: một cây trắng như tuyết mọc trên mọi nguồn của các dòng sông. Cây sồi (chêne) chứa nhiều thần thoại
nhất. Nhiều dân tộc sùng bái: ngưòi Hi Lạp dâng cho Zeus; người La Mã dâng cho
Jupiter; người Đức dâng cho Thor và Thánh Kinh kể lại Abraham đã tiếp
ba vị thánh thần dưới bóng cây sồi.
Trong mọi truyền thuyết dân gian, mối tình sâu
xa giữa linh hồn của cây và của người luôn được nhắc nhở trân qúỵ. Chính Đức
Phật Thích Ca cũng chứng ngộ được Đạo dưới cây bồ đề (Ficus religiosa) .Cây vân sam (Cèdre) tượng trưng cho Chân Lý
và Công Lý và có mặt trong cờ xứ Liban. Cựu Uớc cũng nhắc nhở ở nhiều nơi trong
kinh về sự song hành giữa cây và ý nghĩa cuộc sống. Khi vinh danh con người đặt
lòng tin vào Thượng Đế và trọng luật Thượng Đế bày ra, kinh viết: 'Người ấy như
một cây trồng bên cạnh dòng suối ' (Kinh Chiều 1,3). Câu này còn có nghĩa là
người nhiều lòng tin được dồi dào ơn phước như cây kia được tưới sẽ phát triển
sum sê như bí ẩn nhất của Sáng Thế .
Cây Oliu có nhiều miền Trung Đông, trồng từ ngàn xưa,
tượng trung cho hoà bình..Lá cờ của Liên Hiệp Quốc có nhánh oliu trên đó. Là
cây phong trên lá cờ Canada.
Con
người là một phần của sinh quyển với thực vật và động vật do đó cảnh vật và con
người tạo ra một hệ sinh thái thiên nhiên:
Truyện
Kiều há chẳng có câu: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Vì
tình và cảnh quyện vào nhau: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Người
Việt thuở xưa vì không chế ngự được thiên nhiên: gió, mưa, lụt lội, sấm sét,
thú dữ nên tôn thờ mọi thần linh: thần lửa, thần mưa, thần gió ..Thần linh có
mặt trong rừng, trên cây, khúc sông, thác nước ..cho nên thường có những lễ hội
cầu trời, cầu thần linh phù trợ cho con người:
Ơn Trời mưa nắng phải thì
Trúc
mọc vàng óng trên triền núi Yên Tử. Trúc ken san sát, dáng thanh cao, mảnh mai
nhưng vững chãi. Những con gió bắc thổi ù ù trên triền núi, trúc rạp mình xuống
tránh gió nhưng rồi lại thẳng dậy ngay. Đường đi trong rừng trúc mờ mịt vì mây
khói .. Mây đùn lên từ bên dưới, sà xuống từ bên trên, mây vây bọc xung quanh
đặc quánh.
Vào rừng, thở không khí trong lành, nhìn sao ban
đêm, nhìn suối, nghe nước róc rách, bướm lượn nhởn nhơ, chuồn chuồn, nghe côn
trùng rỉ rả, mặt trăng lên, sao đêm nở đầy trời, giúp ta tránh được các căng
thẳng của cuộc sống máy móc đô thị, giúp ta quên đi những nỗi nhọc nhằn của thể
chất và của tâm linh, ngỡ lòng mình là rừng, ngỡ hồn mình là mây (thơ Hồ Dzếnh), để lắng nghe
tiếng gọi nhiệm màu của vạn vật trong tương quan Thiên-Địa-Nhân, một
tương quan nhiều chiều, lồng ghép, chồng chéo lên nhau. Ta cũng thấy trước cảnh
vật bao la của vũ trụ rằng con người chỉ là một thành phần nhỏ bé
và từ đó cảm thấy khiêm tốn hơn ..
Mà khiêm tốn giúp cho con người đến đức tin chân
thật và đức tin chân thật mới hưóng dẫn con người đến được nơi có Thượng Đế ngự
trị dễ đi vào nội tâm hơn, cõi lòng lắng xuống . Khi tâm yên lặng, ta mới biết
cõi sâu thẳm của ta, mới biết những điều sâu kín ẩn náu trong nội tâm, biết
mình hơn chứ không phải điều mà ta có thể tìm thấy trong sách vở Tôn giáo
phát sinh do lòng sùng kính, do cảm thông không thể nghĩ bàn, bất khả tư nghị
chứ không phải do sự bàn cãi lý luận. Con người, ngoài cái hướng ngoại như đọc
sách, nghiên cứu khoa học, du lịch, thám hiểm cũng phải có chiều kích hướng nội
nghĩa là quay vào cuộc sống nội tâm, suy nghĩ và trầm tư . Họ muốn hướng về sự
an định nội tâm, an lạc, tìm lại sự thanh tản qua sự tu dưỡng tinh thần.
Vào
rừng, nghe gió thổi như là hồn người:
Một vùng cỏ láy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau
Vào rừng thì con người thư giãn, thoải mái
hơn, cởi mở hơn, từ đó tư tưởng có những 'chỗ trống' và chính các 'chỗ trống'
giúp ta thâu nhận các ý kiến mới lạ. Nó giúp ta nghiệm thấy một cái gì mới mẻ
khác, vượt ra ngoài các quan niệm thông thường. Nó nâng tâm thức ta lên một
bình diện mới, một phạm thức mới (new paradigm).
Cũng không phải ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ có Camp
David là nơi thiên nhiên rừng núi mà Tổng Thống Mỹ thường đến nghỉ ngơi. Cuộc
hoà đàm giữa Ai Cập và Do Thái dưói thời Tổng Thống Carter thành công khi
Do Thái chịu rút quân khỏi toàn thể Ai Cập cũng diễn ra ở Camp David. Tâm mà có
định thì mọi sự mới yên đưọc, khi tâm còn xáo trộn, còn phân biệt thì không thể
giải quyết điều gì hết. Cởi bỏ các ràng buộc, phù phiếm, giả tạo của bản ngã,
ra khỏi vòng phân biệt của nhị nguyên, không phân biệt giữa giàu/nghèo,
sang/hèn, thông minh/ngu dốt, anh phải / tôi trái v.v hoặc có/không mà chỉ
thấy mọi việc không có tự thể, biến hoá không ngừng.
Vào rừng, nhờ thư giãn, không khí yên tĩnh nên
thân, khẩu, ý dễ lắng dịu, ngỡ lòng mình là rừng, ngỡ hồn mình là mây, con
người có định tâm, con người dễ dàng loại bỏ phiền não. Không thiền định, con
người sẽ không hiểu đưọc mình là ai, nói cách khác, nó giúp ta trở về chính
mình, nương tựa vào mình mà không nương tựa một ai hay một quyền lực siêu nhiên
nào đó.
Văn minh thảo mộc
Nhà địa lý học Pierre Gourou gọi văn minh nước
ta là văn minh thảo mộc (civilisation du végétal). Người Kinh miền xuôi sử
dụng tre để làm đũa, đan vách, bẫy chuột, đan dụng cụ bắt cá ngoài ruộng, hái
tranh lợp nhà để ở. Người Thượng miền cao thì ở nhà sàn nên lại phải dùng
cột nhiều hơn để làm nhà, cột làm cầu thang, cột để buộc trâu làm lễ tế thần;
khi chết, quan tài bỏ trong rừng. Rừng gắn bó với cuộc sống và khi họ bỏ rẫy đi
canh tác chỗ khác chờ rừng mọc lại thì cái nương rẫy đó vẫn thuộc về đất làng
đó .Rừng không phải chỉ là tài nguyên hay môi trường vật lý mà rừng là tâm
linh, là cõi vĩnh hằng, là cõi sâu thẳm của nội tâm, là 'một cõi đi về', từ đó
đi ra và nơi đó biền biệt cho nên nếu phá rừng, thì không còn văn hoá
rừng nữa.
Cuộc sống xô bồ ngày nay làm con người cứ chạy
đua theo vật chất, theo tiêu thụ, y như người cứ uống nước mặn ngoài biển khơí,
mà càng uống thì càng khát.
Chúng ta ngày nay sống thọ hơn nhưng sống ít ý nghĩa hơn
Chúng ta chinh phục được vũ trụ nhưng không thắng được cõi lòng
Giải trí thì nhiều mà niềm vui thì ít
Đây là thời đại của thu nhập gấp đôi nhưng chia ly thì lại nhiều
Cuộc sống tiện nghi hơn nhưng ít thời gian nhàn rỗi hơn
Và
đó chính là nghịch lý của thời đại ta đang sống, hôm nay và bây giờ.
Tóm
lại, cần một mối liên hệ chân chính với thiên nhiên, tìm lại niềm yêu
thương lặng lẽ của đất, những khoảnh khắc đày phù sa của dòng sông đang trôi
khuất, những giọt sương mai lấp lánh, mặt trời lặn, bớt dục vọng để
tinh thần thảnh thơi như Nguyễn Công Trứ đã viết:
Người ta ở trong phù thế
Chũ vô cầu là chữ thiên nhiên (Nguyễn Công
Trứ )
Ngày nay, đô thị hoá như vũ
bảo mà ta chứng kiến, kỹ nghệ hoá giúp con người thoát khỏi cảnh lam lũ đồng
áng, đầu tắt mặt tối ở chốn bùn lầy nước đọng, đem đến cho ta nhiều tiện nghi
văn minh: liên lạc nhanh hơn, thông tin nhanh hơn.
Nhưng chính sự phát triển
này lại cũng manh mún hoá những cá nhân; con người ở đô thị không còn những
liên kết ràng buộc xã hội như thôn quê. Phát triển kỹ thuật cũng có nghĩa
là thời gian bị đo lường, chắt bóp làm biến đi nhịp sống an nhiên tự tại.
Slow is beautiful ..Con người ở thời đại
công nghiệp này có tâm trí luôn luôn bị động như robot suốt ngày,
làm việc lắp ráp các bộ phận trong dây chuyền sản xuất từ máy điện toán đến ráp
xe hơi, máy bay, mọi công đoạn đều lớp lang, có thời lượng quy định. Người ta
tiến đến cái mà George Ritzer gọi là sự 'MacĐôNan-hoá xã hội' (The
Macdonaldisation of society). Con người không ai biết nhau, xong việc là về
nhà. Tâm lý bị dồn ép. Giá trị cuộc sống bị đảo ngược.
Sự tiến bộ kỹ thuật từ nhiều thập niên gần đây
với sự tăng tốc, cái gì cũng Express, nào là ExpressPost, Fast food, Café
Express..làm phá vỡ cấu trúc các xã hội cổ truyền, lối sống.
Thế giới thay đổi qúa nhanh, con người không kịp
thích nghi với các chuyển biến của thời đại sinh ra mất thăng bằng về tâm lý.
Các căng thẳng này kéo theo một lô bệnh của thời đại: lo âu, buồn rầu vô cớ,
rồi từ đó là trầm cảm dễ đem đến hành vi tự sát. Do đó, trước đây người ta nói
không bệnh tật là sức khỏe. Ngày nay, quan điểm về sức khỏe đã mở rộng hơn vì
sức khỏe phải gồm 3 phần: sức khỏe cơ thể: khỏe mạnh; sức khỏe tâm thần: vui
đời, lạc quan; sức khỏe xã hội: hòa hợp với xã hội, cộng đồng
Có thể vì vậy mà tại Nhật, có phong trào mở
quán café Slow có phương châm 'Slow is beautiful', bắt chước một phương
châm khác có từ trước là 'Small is beautiful ' . Đây chính là một
mô hình kìm hãm được sự thao túng của kỹ thuật lên văn hoá, văn minh, thiên
nhiên.
Lưỡi kiếm Damoclès
Vũ khí chết người càng ngày càng được thu nhỏ,
có thể rơi vào tay quân khủng bố điên dại; môi trường sống bị smog (từ hai chữ
fog và smoke) âm u bao phủ ở bàu trời; những bệnh tình dục như lậu, tim la
tưởng chừng như đã bị tiêu diệt hẳn thì nay lại xuất hiện với siêu vi SIDA,
AIDS nguy hiểm hơn cả vạn lần, làm cả toàn thể Phi Châu, nhất là Uganda,
Rwanda, Nam Phi, Zimbawe bị chết như rạ và nhân lên, lan rộng với sự di
chuyển thông thoáng của con người. Nói khác đi, lưỡi kiếm Damoclès luôn luôn
nằm đâu đó trên đầu nhân loại. Con người trong môi trưòng đô thị vô danh làm
nhân lên nỗi lo âu, cô độc, tác động lên cõi tâm linh sâu thẳm.
Con người sống vội vã không còn trầm tư mặc
tưởng, tra vấn về ý nghĩa thực của cuộc đời: ta là aỉ ? ta đi về đâu ? Vào một
công sở, vào một hãng tư cũng lạnh lẽo, không tình người. Thành phố Paris to
lớn văn minh như vậy nhưng vòng luẩn quẩn BMW (Bus, Metro, Work) hay metro,
boulot, dodo tức chen xe, đi làm, đi ngủ đè nát cuộc đời, căng thẳng thần kinh,
xói mòn thăng bằng thần kinh. Tóm lại chất lượng cuộc sống bị xuống dốc.
Hai giới từ "bên cạnh" và "với"
Sự gia tăng các phuơng tiện truyền thông đi cùng
với sự nghèo nàn về truyền thông giữa các cá nhân: con người sống bên cạnh nhau
nhưng không sống với nhau. Hai giới từ 'bên cạnh' và 'với' nghe tuy đơn giản
biết bao nhưng lại có tầm quan trọng biết bao! Chính căn bệnh tâm hồn, bơ
vơ lạc lõng, sống không ngày mai, thiếu tình thương làm bao thanh niên sa ngã,
mua thuốc lắc, chích ma túy quên đi cuộc đời. Có thể họ tự nghĩ: tôi hút
tức tôi hiện hữu? Các khao khát tuổi đôi mươi bị chìm đi. Thay vào đó là sự
dửng dưng .Vì sự tuyệt vọng đó nên nhà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có diễn tả tâm
trạng của mình, có thể để an ủi mình hay cho một người khác nữa:
'Đừng tuyệt vọng, tôi ơi! Đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông
Hoặc:
' Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi
là ai ?là ai ? là ai ?
Mà
yêu qúa đời này!'
Và chính vào giai đoạn của
sự hoài nghi, của sự khủng hoảng tinh thần này lại đẻ thêm những hình thức chủ
nghĩa bảo căn, nuôi dưỡng hận thù, cuồng tín, hận thù đến cao điểm như trận cảm
tử không tặc đâm vào World Trade Center ngày 11 tháng 9, gây tang tóc cho hàng
ngàn thưòng dân vô tội trong tíc tắc, rồi kéo theo một chuỗi hậu qủa tiêu cực:
máy bay không ai đi, khách sạn không ai ở, nhà hàng không ai tới, thể thao
không ai xem, nên nhân viên bị đuổi hàng loạt vì không ai tiêu thụ.
Khuynh hướng trở về Thiên Nhiên
Chính vì con người càng xa
rời Thiên Nhiên nên hiện nay trào lưu trở về với Thiên Nhiên càng mạnh:
-
Các
tu viện Thiền, các làng Thiền, các môn phái sử dụng Thiền như là trọng tâm sinh
hoạt nẩy nở càng ngày càng nhiều, chính là để phản ứng lại với nếp sống xa rời
các chuẩn mực của thiên nhiên.Các môn yoga, tập thở, y khoa mềm (médecine
douce), các sách về tâm linh , nói về sự luyện tinh thần cho vững chãi trước
những vòng xoáy của cuộc đời đầy cung bậc ngọt bùi cay đắng, đầy chuỗi vui, buồn,
yêu thương, giận hờn .. bán rất chạy.
-
Nông
nghiệp ngày nay càng muốn trở về thiên nhiên: nông nghiệp sinh thái
(agriculture écologique) sử dụng phân mục thay vì phân hoá học, tái chế biến
các phế phẩm trong nông trại làm phân mục, ít sử dụng thuốc sát trùng, vì các
loại thuốc trừ sâu, nếu tích tụ nhiều sẽ tiêu diệt sự điều tiết giữa các giống,
trừ khử cùng một lúc cả các sâu hại lẫn sâu có ích , mà trái lại khuynh hưóng
ngày nay là sử dụng côn trùng có ích đuổi côn trùng độc hại. Sử dụng phân
heo, phân chuồng cho vào hầm ủ để tạo ra khí metan còn gọi là khí biogas để nấu
ăn, vừa sạch, vừa không ô nhiễm, tiết kiệm củi đốt và lao động. Nước thải
biogas (slurry) cũng dùng tưới cây cối. Rơm rạ dùng vào việc nuôi trồng nấm. Lá
mục, cỏ mục, rễ mục dùng làm phân ủ, tiết kiệm phân hoá học. Các chất mục nát
dùng làm môi trường nuôi giun làm thực phẩm cho gà ăn . Nông lâm kết hợp tận
dụng đất và mặt trời để bớt độc canh.
-
Du
lịch cũng có khuynh hướng du lịch sinh thái, nghĩa là đi thăm núi rừng, đi bộ,
nghỉ ngơi, vui chơi ngoài trời. Các loại du lịch dựa vào 3 S: Sand, Sun, Sea ..
-
Nông phẩm cũng vậy: dân Quebec muốn mua thịt gà nuôi theo lối thiên nhiên chứ
không muốn ăn thịt gà vỗ béo bằng hocmôn ; các sản phẩm có nguồn gốc hữu cơ ('BIO'),
sạch, không dùng hoá chất và thuốc trừ sâu, tuy đắt hơn nhưng nhiều người vẫn
yêu chuộng vì tránh được ung thư, tránh được các ảnh hưởng phụ khác.
-
Thuốc men cũng khuynh hướng trở về thiên nhiên với dược thảo, tắm bùn. Hàng
loạt sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên được bào chế làm thành thuốc uống.
-
Mỹ phẩm càng ngày cũng từ nhiên nhiên: cây chanh, bơ, bồ kết, bạc hà, táo
tàu, trái kiwi, đào, nhân sâm, mật ong. Những chất chiết xuất từ chanh,
hạnh đào, trà, cọ, gừng .. đang được dùng trong các sản phẩm săn sóc sắc đẹp.
-
Ngay cả lúc xử lý chất thải kỹ nghệ, người ta cũng có khuynh hưóng dùng thực
vật, vì nếu sử dụng chất hoá học để xử lý thì môi trường lại chứa thêm chất hoá
học.
Hướng dương có thể 'hút' uranium vì có tổng
chiều dài hệ thống rễ rất dài , dương xỉ vô hiệu hoá arsenic, thảo mộc thuộc
dãy núi Alpes có khả năng ăn kẽm, bèo ( 'duckweed') hút bớt chất độc trong nước
thải kỹ nghệ, cây dương (peuplier) làm tiêu hủy một số dung môi . Dùng thực vật
để xử lý các chất thải gọi là phytoremediation.
Sự suy giảm diện tích rừng do dân số tăng, do di
dân tự do bùng phát, do nhiều hồ chứa nước thủy điện đã làm suy giảm tài nguyên
rừng, tác động xấu đến đa dạng sinh học rồi gây thêm lũ lụt, khí hậu khô nóng, Vấn
đề thiếu nước ngọt cũng phải đặt ra vì khi không còn thảm thực vật rừng thì khả
năng tích nước cũng bị giảm và làm qúa trình bốc hơi nước từ mặt đất mạnh mẽ
hơn. Ròi rừng ngập mặn bị phá làm cho bờ biển bị xói mòn và ít đi từng ngày
Làm sao yêu thiên nhiên?
Trước tiên, cần để ý có mối quan hệ mật thiết
giữa dân số và môi trường. Dân số cao qúa sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
vì lẽ dân số tăng thì nhu cầu không gian để ở, để có nhiên liệu cũng tăng và
làm rừng sẽ giảm. Do đó, yêu thiên nhiên là phải kiểm soát sinh đẻ, sinh đẻ có
kế hoạch, cần có chất lượng thay vì số lượng. Giáo dục môi trường phải để ý
khía cạnh nàỵ. Nhưng dân số cũng lại liên hệ đến dân trí (trình độ hiểu
biết, công dân) và dân sinh (nếp sinh hoạt, tăng gia chất lượng cuộc sống).
Như vậy bài toán có tính cách đa chiều và giữa dân số, dân trí và dân sinh lại
có thêm các quan hệ hữu cơ và tương thuộc lẫn nhau: dân trí cao, nếp sống cao
sẽ làm dân số giảm xuống. Nhưng muốn nếp sống cao, thì phải có chương trình
thực tế giúp người dân có thể giải quyết các nhu cầu cơ sở như nước uống, thực
phẩm, chất đốt.. Giáo dục phụ nữ, nâng cao trình độ giáo dục của phụ nữ rất
quan trọng cũng cần thiết để giảm dân số.
Yêu thiên nhiên cũng còn là:
- Sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo được và
không ô nhiễm như gió, như mặt trời, như nước .. Những nhà máy khí sinh
(biogas) nhỏ, rẽ tiền, dùng chất thải của người và động vật để nấu nướng, thắp
sáng. Gió, dòng suối con có thể sản xuất điện ở các vùng xa, vùng sâu . Năng
lượng mặt trời để sưởi nước nóng về mùa đông, để chạy máy bơm nước, sưởi ấm nhà
cửa.
- Tái chế biến và tận dụng các phế phẩm: thay vì
đốn thêm rừng làm bột giấy, thì cần thu luợm giấy báo, sách củ, giấy bìa .. và
tái chế biến ra giấy mới.
- Bảo tồn và làm giàu tài nguyên rừng: trồng cây
gây rừng, trồng thâm canh ở các thung lũng hoa màu lương thực để giảm bớt sức
ép trên các đất dốc; kết hợp trồng rừng và cây ăn qủa; đề phòng nạn cháy rừng
Thay lời kết
Thế giới càng ngày càng nhỏ với các phương tiện
truyền thông hiện đại . Nào là vệ tinh, nào là Internet, nào là email khiến cho
lượng truyền thông chuyển tải cực nhiều, cực sâu, cực nhanh. Ngôi làng toàn cầu
(global village) bé nhỏ đi . Nhưng bên cạnh đó thì tài nguyên cứ ô nhiễm, không
khí ô nhiễm, nước ô nhiễm, đất bị sa mạc hoá, mặn hoá; rừng núi bị lâm tặc,
vàng tặc, thạch tặc tràn lan. Mà thiên nhiên là cơ sở để kinh tế phát triển:
đất bị sa mạc hoá thì đất nông nghiệp giảm, làm an toàn lương thực suy giảm;
núi bị xói mòn và mất rừng thì lụt lội chết người xảy ra mỗi năm.. Tiền bạc
không tạo nên hạnh phúc vì có tiền mà đau ốm, có tiền mà môi sinh ô nhiễm, cướp
bóc và bạo hành tràn lan, thì đó không phải là an lạc.
Đó là nói trong lãnh vực xã hội vi mô (lãnh vực
của những quan hệ giữa người với người); nhưng trên phương diện vĩ mô, thì phải
để ý rằng không có hành tinh nào trong hệ thống thái dương có oxy để con người
di cư lên đó mà sống được: Kim Tinh, Hoả Tinh, Mộc Tinh, mặt Trăng là những
hành tinh không có sự sống như trên Trái Đất ta đang ở.
Trái Đất này không chỉ là một hành tinh vật lý
cộng với một bầu sinh quyển cộng với một nhân loại mà là một tổng thể phức tạp
có tính vật lý/sinh lý/ nhân loại. Con người là một thành phần của Thiên
Nhiên nhưng cũng là một con vật Siêu Nhiên, có bổn phận làm cho Trái Đất được tươi
đẹp hơn, biến qủa đất này, một tinh cầu lưu lạc trong vũ trụ thành cái bến bờ
cứu rỗi của chúng ta.
Công dân thế giới của làng toàn cầu, hãy yêu
thương Trái Đất!
Thái Công Tụng
Tài
liệu tham khảo sơ lược
Walter Kummerly .Le grand livre de la forêt . Elsevier Séquoia
Paris/Bruxelles
Edgar Morin & Anne Brigitte Kern. Dịch giả Nguyễn Hồi Thủ . Quả đất Quê Hương Nhà
xuất bản Chân Mây Cuối Trời Paris 1999
Thích Chơn Thiện . Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli.
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh
No comments:
Post a Comment