“Ngày Nước
Thế giới” hay “Ngày Nước Sạch Thế giới” được tổ chức vào ngày 22 tháng Ba hằng
năm trong tất cả các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc từ năm 1993, theo Nghị
quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, nhằm kêu gọi toàn thế giới quan tâm đến
tầm quan trọng của tài nguyên nước; cụ thể, không sử dụng nước một cách lãng
phí cũng như tránh làm ô nhiễm nguồn nước ngọt. Viện Nhân Quyền Việt Nam trân
trọng giới thiệu bài Nước và Con Người
của GS Thái Công Tụng.
Abstract
This paper examines the nature, properties, place, significance, importance, and role of water in the life and culture of this planet
1. Tổng quan
Các nhà hiền
triết Hy Lạp cổ đại, từ Platon đến Socrate xem Nước là nguồn gốc của mọi nguồn gốc.
Theo Phật giáo thì vũ trụ do bốn cái lớn trong vũ trụ: đất, nước, gió,
lửa, còn gọi là Tứ Đại. Triết học Trung Hoa cho rằng nước là một trong năm yếu
tố gọi chung là Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Nước vừa mềm
mại, uyển chuyển nhưng có sức mạnh phi thường vì các địa mạo ta thường gặp như
thung lũng, đèo cao, núi thẳm, châu thổ v.v... đều do nước bào mòn, chuyển vận,
lắng tụ, bồi tích. Sách Thánh Kinh có nói về trận hồng thủy. Thần thoại nước ta
cũng nói về Sơn Tinh, Thủy Tinh. Sử sách Việt nói về Lạc Long Quân. Theo giáo
sư Lê Hữu Mục, thì các từ Lạc phải đọc là Đác và chữ Đác với thời gian trở
thành Nác. Nác chính là từ cổ của chữ Nước ta nói ngày nay.
Thực vậy, nhiều
vùng thôn quê ở Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị vẫn còn nói: uống nác
(uống nước), khát nác (khát nước). Nhiều nhà văn hóa học Việt đều cho rằng nước
là một đặc trưng hình thái của tư tưởng Việt Nam hay nói tổng quát hơn - của
văn hóa Việt Nam.
Nước liên
quan đến nhiều chức năng trong cơ thể: sự tiêu hóa, sự tuần hoàn, sự hô hấp, sự
thải hồi. Các nhà khoa học dùng nước để tìm ra các hằng số quan trọng về vật lý
như:
● nước đông đặc ở 0 độ
● nước sôi khi nhiệt độ là 100 độ C
● 1 lít nước cân nặng 1 kgam
● tỷ trọng của nước là 1. Vật nào có tỷ
trọng lớn hơn 1 thì chìm và vật nào có tỷ trọng nhỏ hơn 1 thì nổi. Nước có mặt
ở cả ba dạng vật lý: lỏng, đặc và hơi.
Với dân số
bùng nổ kéo theo một loạt nhu cầu về nước sinh hoạt, nước dùng trong kỹ nghệ
v.v... nên tài nguyên nước trở thành một tài nguyên quý giá của nhân
loại.
2. Nước trong văn học Việt
● Trong văn học dân gian, nhiều tục ngữ
liên quan đến nước: nước chảy đá mòn, nói lên sự kiên nhẫn; nước
đổ lá môn ngụ ý nói không ai nghe;
Sống về gạo, bạo về nước, cho thấy
hai nhu cầu thiết yếu của con người để duy trì sự sống. Thuyết nhân
quả của nhà Phật cũng được diễn tả trong câu: Đời cha ăn mặn, đời
con khát nước.
Trong công việc đồng áng thì nước rất
cần thiết nên ta thường nghe ca dao:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy rơm đun bếp.
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy rơm đun bếp.
Công việc trồng lúa đòi hỏi phải có
nước:
Trời đông, nước đã phơi
bờ
Em về nhổ mạ, anh bừa ruộng chiêm
Em về nhổ mạ, anh bừa ruộng chiêm
Công cha nghĩa mẹ cũng dùng nước để
so sánh:
Công cha như núi Thái
Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Lời mẹ ru con cũng có nhiều câu có
chữ nước:
Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi coi bành vàng
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi coi bành vàng
● Trong văn chương bác học, nói về sắc
đẹp của phụ nữ cũng dùng biểu tượng nước như nghiêng nước nghiêng thành hoặc
mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Nỗi nhớ nhà, nhớ nước được
diễn tả trong câu :
Buồn trông ngọn nước
mới sa
Mây trôi man mác biết là về đâu (Kiều)
Mây trôi man mác biết là về đâu (Kiều)
Thề nguyền cũng dùng nước:
Còn non, còn nước, còn
dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay (Kiều)
Còn về còn nhớ đến người hôm nay (Kiều)
Làm gì cũng phải có kế hoạch, không
đợi ‘nước đến chân mới nhảy’:
Lánh xa trước liệu tìm
đường
Ngồi chờ nước đến nên dường còn quê (Kiều)
Ngồi chờ nước đến nên dường còn quê (Kiều)
Nguyễn Khuyến tả cảnh ao làng vào mùa
thu:
Ao thu lạnh lẽo nước
trong veo
Một chiếc thuyên câu bé tỉ teo
Một chiếc thuyên câu bé tỉ teo
Nước trong, không ô nhiễm trong câu
thơ của Chinh Phụ ngâm:
Ngoài đầu cầu nước
trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Nhưng vượt lên ca dao, tục ngữ, nước
là một tài nguyên quan trọng vì nước là một chất không thể thiếu được
trong sự sống của loài người, từ động vật đến thực vật; là chất đảm bảo sự cân
đối của những vận động tuần hoàn không những của trái đất vĩ mô mà còn cả những
chuyển hóa vi mô trong từng tế bào là đơn vị nhỏ nhất của động vật và thực vật.
3. Nước trong đời sống
Nước là chất
cơ bản, cái nôi của sự sống. Nước quan trọng trong đời sống thực vật. Tục ngữ
ta có câu: Nhất nước, nhì phân, tam cần,
tứ giống chứng tỏ tầm quan trọng của nước. Nước hòa tan các dưỡng liệu
trong đất thì rễ cây mới hút được để chuyển tải lên các bộ phận hoa lá trong
cây. Không có nước thì không có sự quang hợp tạo ra các hydrat cacbon. Để làm
ra 1 kg chất khô, cây bắp cần 350 lít nước, khoai tây cần 575 lít, lúa cần trên
2000 lít v.v…
Nước cũng
quan trọng trong đời sống động vật. Cũng như trong thực vật, nước giúp cho sự
luân lưu, cho sự trao đổi chất: 60 đến 70% trong cơ thể con người là nước nên
khát nước dễ chết hơn khát ăn. Nước cũng cần cho các hoạt động kỹ nghệ: sản
xuất thép, sản xuất chip điện tử, sản xuất tơ nhân tạo cũng cần nhiều nước và
dĩ nhiên sản xuất bia, nước Coca, nước ngọt là từ nước.
Nước cũng ảnh
hưởng đến khí hậu và là nguyên nhân tạo ra thời tiết như mưa, tuyết, bão. Năng
lượng mặt trời sưởi ấm không đồng đều các đại dương đã tạo nên các dòng hải lưu
như dòng Gulf Stream vận chuyển nước ấm từ vùng nóng đến Bắc Đại Tây Dương làm
khí hậu các xứ Bắc Âu ấm áp hơn.
4. Nước trên quả địa cầu
Trên hành
tinh Trái Đất này, mặt trời và nước giúp duy trì cuộc sống. Hơn 70% diện tích
của Trái Đất được bao phủ bởi nước (đại dương, biển kín). Chính vì
vậy mà trái đất nhiều nước mặn (97%) hơn nước ngọt. Nhưng phần lớn nước
ngọt lại nằm ngoài tầm tay của con người vì nằm trong các băng hà ở miền cực
địa cầu (2.7%) hoặc dưới tầng đất ngầm và ẩm độ trong đất, còn lại rất ít là
nước ngọt chứa trong sông, suối, hồ, ao là thực sự xử dụng được cho con người.
Nói khác đi, nước ngọt là một tài nguyên có giới hạn. Ngoài ra, nước lại không
được phân bố đồng đều trên Trái đất: vùng Amazonie nhận được 20% lượng mưa trên
toàn thế giới chỉ cho 10 triệu người, vùng Bắc Phi và Trung Đông với 400 triệu
người lại chỉ hưởng được 1,5%.
Cũng từng đó
nước từ hàng ngàn năm trước, nhưng cái khác là ngày nay, dân đông hơn, cần
nhiều nước hơn để xử dụng vào nhiều mục đích hơn: nước dùng trong sinh
hoạt, trong kỹ nghệ (thủy điện, kỹ nghệ các loại), trong nông nghiệp để
sản xuất lương thực v.v... Theo Hội đồng nước toàn cầu, tiêu thụ nước trong
nông nghiệp là 66%, công nghiệp (20%), các hộ gia đình (10%) và khoảng 4% bốc
hơi từ các hồ dự trữ nước nhân tạo. Tế bào sống hầu như 3/4 là nước
và không nước, con người sẽ mau chết hơn là không ăn. Như vậy, nước là nguồn
tài nguyên vô giá của con người. Những xứ có tài nguyên nước dồi dào phải kể là
những xứ như Canada, Nga, Mỹ, Bresil, Indonesia, Đông Dương còn các xứ ít có
tài nguyên nước nằm các vùng sa mạc như Úc châu hoặc các xứ Sahel. Một vài vùng
trên thế giới thiếu nước vừa phải là các vùng quanh bờ Địa Trung Hải như Ý, Hy
Lạp, Bắc Phi, Ai Cập.
5. Chu kỳ nước
Trong bài thơ
Thề Non Nước của Tản Đà, có câu: Nước trôi ra biển lại mưa về nguồn. Câu thơ
này vô hình chung đã nói về chu kỳ nước trong vũ trụ: nước từ sông, hồ, biển
bốc hơi lên cao, gặp lạnh trên cao sẽ ngưng đọng lại và rơi xuống đất. Khi gặp
mặt đất thì nước một phần thấm vào lòng đất qua các khe đá, lỗ hổng của đất và
tạo thành nước ngầm, một phần chảy tràn để chảy vào sông suối rồi trở lại ra
biển.
Như vậy, nước
cứ luân hồi mãi mãi, từ kiếp này sang kiếp khác, vô thủy vô chung từ lúc Trái
Đất thành hình cách nay hàng ngàn triệu năm và nhờ nước mới có đời sống thực vật,
rồi mới có đời sống động vật.
6. Tài nguyên nước
Có thể phân loại tài
nguyên nước thành 4 loại sau đây:
6.1. Nước mưa.
Có những vùng mưa nhiều, đặc biệt các vùng có khí hậu xích đới. Sau đây liệt kê
vài xứ có lượng mưa nhiều nhất thế giới: Colombia (Trung Mỹ), Liberia (Phi
châu), Myanmar tức Miến Điện (Á châu), Papua New Guinea, Bangladesh (Á châu) có
lượng mưa trung bình hàng năm trên dưới 4000 mm.
Nhưng cũng có những xứ ít mưa như
Iran, Afghanistan, các xứ Á Rập ở Trung Đông. Lục địa Úc châu khô hạn chỉ 800
mm mưa mỗi năm.
Vùng Đông Nam Á nói chung và Việt Nam
nói riêng, vì nằm vùng khí hậu gió mùa nên lượng mưa trung bình hàng năm
khá cao: 1800 mm. Tuy nhiên cũng có những vùng khuất gió thì mưa ít hơn như
đồng bằng 3 Phan: Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết. Ngoài ra, nước mưa không rãi
đều trong năm vì chỉ tập trung vào các tháng mưa còn mùa kia thì nhiều nơi
không có tí mưa, thêm vào gió Lào khô ráo, khiến nhiều vùng thiếu nước.
6.2. Nước mặt.
Đây cũng là tài nguyên nước mặt có trên các sông, suối, hồ ao, kinh rạch… Nước
sông suối hồ ao được xử dụng trong nhiều đối tượng khác nhau như phục vụ sinh
hoạt (nấu cơm, tắm rửa, giặt), phục vụ nông nghiệp (tưới cây, nuôi cá, chăn
nuôi), phục vụ kỹ nghệ (các công nghệ chế biến, sản xuất giấy, thuộc da, phân
bón...)
Nước ‘cứng’ (hard water) là
nước chứa nhiều ion Calci và magnesi. Khi đun nước loại này thường bị đóng váng
vôi, tức là một kết tủa cacbonat calci. Nước ‘mềm’ là nước không có nhiều chất
calci và magnesi.
Nước cứng cũng không dùng để pha chế
thuốc vì có thể gây kết tủa làm thay đổi thành phần của thuốc. Khi dùng nước
cứng nấu thì rau, thịt khó chín; làm mất vị của nước chè. Giặt bằng nước cứng
tốn xà phòng do Ca2+ làm kết tủa gốc axit trong xà phòng và làm xà phòng không
lên bọt. Nhiều công nghệ hóa học đòi hỏi nước có độ cứng nhỏ do đó nếu
nước chứa nhiều calci và magnesi thì phải làm mềm nước cứng bằng cách cho kết
tủa các chất Ca và Mg với sođa (Co3Na2) hoặc tách chúng bằng nhựa trao đổi ion
(ion exchange resin). Trong nhựa trao đổi ion, những hạt mang điện tích trái
dấu sẽ hút nhau như các cation sẽ hút các ion âm tức anion và ngược lại.
6.3. Nước ngầm. Nước từ các nguồn nước mưa, sông, rạch, ao, hồ... một phần thấm vào đất,
nhưng không thể ngấm qua tầng đá dưới sâu nên nước tập trung nhiều ở tầng nước
dưới đất. Đào giếng chính là để khai thác nước dưới đất dùng trong sinh hoạt.
Tại đồng bằng sông Hồng cũng như đồng bằng sông Cửu Long, nhà nào cũng đào
giếng để có nước sinh hoạt. Ngoài ra, nông dân cũng đào giếng, khoan giếng sâu
để lấy nước ngọt tưới rau màu, pha loãng với nước mặn để nuôi tôm v.v... Chính
vì vậy mà hiện nay mực nước ngầm hạ xuống quá sâu kéo theo một số hậu quả: mặt
đất sụt lún xuống, nước mặn xâm nhập vào túi nước ngầm, chưa kể nguy cơ nhiễm
độc asen (thạch tín), ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe người dân. Ngoài ra, phẩm
chất nước ngầm cũng bị ô nhiễm do các chất ô nhiễm trên mặt đất trôi chảy
xuống: nitrat, phenol, thuốc trừ sâu, phân hóa học.
6.4. Nước mặn.
Nước mặn ngoài biển có hàm lượng muối trung bình là 35gram cho mỗi kg nước biển
và gồm 6 chất: sodium (Na+), chlorua (Cl-), sunfat (SO4 2-), magnesium (Mg 2+),
calcium (Ca2+) và potat (K+). pH nước biển biến thiên từ 7.5 đến 8.4: nước biển
có môi trường hơi kiềm. Tuy hàm lượng muối trung bình là 3.5% ( 35 gram/lit ),
nhưng các biển kín thì nồng độ muối cao hơn:
Biển Đỏ, còn gọi là Hồng Hải thì vì
vùng ít mưa, bốc hơi cao, ít sông ngòi chảy vào thì nồng độ muối cao hơn:
40g/l .
Biển Chết ở giữa Jordanie và Do Thái
còn có độ mặn rất cao, đến 330g/lít vì là biển kín. Gọi là biển nhưng thực
ra đó chỉ là một cái hồ lớn nằm ở vùng sa mạc phía Đông Nam Israel. Gọi là Biển
Chết vì nước ở hồ này rất mặn, đến mức không một sinh vật nào có thể sống nổi.
Hồ này rộng 1.040 km2, mặt hồ thấp hơn 400 mét so với mặt nước biển nên là điểm
thấp nhất của bề mặt trái đất.
Ngoài ra, ở các cửa sông, nơi có sự hoà lẫn giữa nước ngọt và nước mặn, còn gọi là
vùng giáp nước thì nồng độ muối giảm nhiều: ta gọi đó là nước lợ. Nước lợ chứa từ 1 đến 10 gram muối trong mỗi lít và các
loại muối trong nước lợ có những chất như CaSO4, MgCO3, NaCl tùy các vùng đất
nước chảy qua
7. Vai trò của nước.
Nước có 4 vai trò sau
đây:
● cung cấp: nước
cung cấp thực phẩm cho nhân loại. Nước ngọt, nước lợ, nước mặn, đều có thủy
sản, hải sản rất phong phú và đa dạng như tôm, cua, cá, ếch, ba ba, rùa. Nước
giúp hòa tan các dưỡng liệu trong đất để thực vật lớn nhỏ có thể nhờ đó mà sinh
trưởng.
● điều hòa khí hậu: các dòng hải lưu ngoài biển ảnh hưởng đến điều hòa khí hậu: ví dụ dòng
Gulf Stream đem hơi ấm cho các vùng miền Bắc Âu Châu.
● văn hóa (tâm linh, giải trí...) Cần lưu ý là nước, ngoài khía cạnh giá trị vật chất, phải
được xem có giá trị tinh thần vì hồ ao, sông suối có tác động thẩm mỹ, thông
thoáng, giúp con người bớt các căng thẳng của cuộc sống xô bồ ngày nay. Thực
vậy:
-
tình
yêu nẩy nở bên cạnh dòng suối:
Dưới cầu nước chảy
trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha (Kiều)
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha (Kiều)
-
cuộc
biệt ly cũng bên cạnh dòng sông:
Đưa người ta không đưa
sang sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng? (Thâm Tâm)
Sao có tiếng sóng ở trong lòng? (Thâm Tâm)
Đò chiều sông lạ tiễn
đưa nhau
Gió nấc từng cơn, sóng vật đầu
Hai ngả lênh đênh trời ngụt khói
Người đi, ta biết trở về đâu? (Vũ Hoàng Chương)
Gió nấc từng cơn, sóng vật đầu
Hai ngả lênh đênh trời ngụt khói
Người đi, ta biết trở về đâu? (Vũ Hoàng Chương)
-
nỗi
nhớ khi nhìn con nước thủy triều lên xuống:
Lòng quê dờn dợn vời
con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà (Huy Cận)
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà (Huy Cận)
-
nhớ
chồng đi ngoài biên ải :
Nước có chảy mà phiền
khôn rửa
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây (Chinh Phụ Ngâm)
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây (Chinh Phụ Ngâm)
-
thư
giãn tĩnh mịch nơi chốn non xanh, nước biếc:
Côn Sơn có suối nước
trong
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm
Côn Sơn có đá tần vần
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi
(Nguyễn Trãi trong Côn Sơn ca - Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật)
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm
Côn Sơn có đá tần vần
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi
(Nguyễn Trãi trong Côn Sơn ca - Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật)
Sông ngòi
luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ, văn, nhạc. Những bài thơ Đường của
Lý Bạch, của Thôi Hiệu, bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản nhạc Dòng Sông Xanh
đều lấy sông làm nguồn cảm hứng.
Riêng văn học
dân gian cũng có nhiều điệu hò trên sông nước. Vì sự vận chuyển hàng hóa bằng
ghe thuyền đòi hỏi chèo chống khó nhọc nên để bớt vất vả khi chèo đò, nhiều
loại hò ra đời với nội dung rất phong phú, phản ánh phong cảnh thiên
nhiên, mối tình trai gái v.v... Cùng với mái chèo cất nhịp, những lời ca giàu
tính chất trữ tình giúp cả khách lẫn trai chèo quên đi những nhọc nhằn, nỗi
lạnh lẽo tịch mịch của đêm trường. Văn học dân gian được phong phú thêm
với những hò Huế, hò Quảng, hò sông Mã v.v...
Dòng sông ở
Huế với nhiều điệu hò: mái nhì, mái đẩy, dô hậy, đẩy nôốc là những thể hò
dân gian trên sông nước.
Tiếng hò của mối tình
ngang trái:
Nước chảy xuôi, con cá
buôi lội ngược
Nước chảy ngược, con cá vượt lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi!
Nước chảy ngược, con cá vượt lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi!
Câu hò mái nhì gợi nhiều
rung cảm do tình yêu đôi lứa:
Nước đầu cầu, khúc sâu
khúc cạn
Chèo qua Ngọc Trản, đến mạn Kim Long
Sương sa gió thổi lạnh lùng
Sóng xao trăng lặn, gợi lòng nhớ thương
Chèo qua Ngọc Trản, đến mạn Kim Long
Sương sa gió thổi lạnh lùng
Sóng xao trăng lặn, gợi lòng nhớ thương
Trong mọi tôn
giáo, từ Ấn độ giáo, Phật giáo đến Công giáo, Hồi giáo, đều dùng nước làm biểu
tượng. Vì nước là căn nguyên đầu tiên của vũ trụ, nên trong mọi tôn giáo luôn
luôn có nước. Ấn độ giáo thì nước sông Hằng ở đó trong nhiều lễ hội hàng chục
ngàn người nhảy xuống tắm để gột rửa mọi phiền não; ở Công giáo thì nước
dùng trong bí tích rửa tội; ở Hồi giáo thì phải rửa tay, rửa ngón chân trước
khi lạy về hướng thánh địa La Mecque; ở Phật giáo thì trong các lễ vật để dâng
lên cúng vái ông bà trên bàn thờ không thể thiếu chén nước. Nước cũng xử
dụng trong lễ tắm Phật các ngày Phật đản. Một bộ kinh như kinh Thủy Sám có nói
về nước chữa bệnh.
Nhìn những
cảnh sông nước, bát ngát của đất trời, con người chợt nhận ra sự cần thiết của
im lặng, của tĩnh tại, nó giúp nhen nhúm ngọn lửa tâm lý và năng lượng
này, tức tâm năng giúp chuyển hóa thành năng lượng vật lý; nói khác đi tâm năng
và động năng/thể năng có tác động thuận nghịch cũng như giữa đức tin và
lý trí bổ túc cho nhau. Chúng ta cảm thấy sự buông xả cho dòng nước cuốn
trôi đi mọi phiền não thật cần thiết.
Nước tượng
trưng cho sự vô thường: dòng nước thay đổi liên tục vì giọt nước này tiếp nối
giọt nước kia, tạo thành dòng chảy. Tâm của ta cũng vô thường như dòng sông
nghĩa là chuyển động tiếp nối, khi vui khi buồn, khi nghĩ đến quá khứ, lúc nghĩ
đến tương lai. Sự lưu chuyển của tâm ta như nước chảy không ngừng. Khổng Tử
thấy dòng nước lững lờ trôi cùng năm tháng: thị giả như tư phù, bất xả trú dạ
(Luận -ngữ, IX, 16 ): cứ chảy hoài như vậy, đêm ngày không bao giờ ngừng.
Nước tượng
trưng cho sự vô trụ; nó không vướng mắc mà cứ lững lờ chảy, biết buông xả,
không chấp trách.
Nước tượng trưng cho sự
vô ngã, vì nó khiêm tốn, nó nhận mọi ô nhiễm.
● yểm trợ: nước
giúp cho các hoạt động yểm trợ du lịch cũng như y tế. Nói về vai
trò của nước trong các hoạt động du lịch, ta có thể kể du lịch biển, du lịch
sông ngòi. Nói về vai trò yểm trợ trong các hoạt động y tế, có thể
nói về các suối nước nóng mà xứ nào cũng có. Riêng ở Việt Nam, tại Khánh
Hòa có nhiều suối nóng có nhiều chất khoáng, giúp trị bệnh. Ngoài suối nước
nóng còn có nước suối lấy ở các vùng nhiều chất khoáng, cho vào chai để
uống như nước khoáng Vĩnh Hảo là nước khoáng duy nhất của Việt Nam có hàm lượng
Bicarbonat (HCO3) cao. Ngoài ra, còn có một số nguyên tố vi lượng có ích khác,
có tác dụng bồi bổ cơ thể rất tốt, giúp tiêu hóa và lợi tiểu, làm đẹp làn da và
hỗ trợ trị bệnh đau dạ dày.
Nước tạo ra
năng lượng thủy điện, giúp cho các hoạt động kỹ nghệ (đồ uống, bột giấy,
bauxit), chuyển vận (ghe, đò, tàu thuyền). Nước giúp cho sự tạo thành đất. Thực
vậy, nước chuyên chở các trầm tích từ nhiều lưu vực để bồi đắp phù sa, nước bào
mòn các loại đá làm đá bể rời ra nhanh chóng, giúp cho sự phong hóa hóa học dễ
dàng hơn.
8. Ô nhiễm nước
Nhiều nguồn
nước bị ô nhiễm do nước thải từ các ngành kỹ nghệ khác nhau cũng như nước thải
sinh hoạt không được xử lý đổ thẳng xuống sông nên nhiều loại cá tôm…
trên sông ngòi chết dần.
Sau đây là các tiêu chuẩn
để đánh giá nguồn nước bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ:
● BOD5 tức
biological oxygen demand, nhu cầu ôxy sinh học- là lượng ôxy được xử dụng cho
hoạt động sống của vi sinh vật để phân hủy hết các chất hữu cơ không bền vững
trong 1 lít nước (mg O2/ l) trong 5 ngày; người ta lấy thời gian 5 ngày để xác
định nhu cầu oxy sinh học và gọi là BOD5 vì thông thường sau thời gian 5 ngày ở
20o thì phần lớn các chất hữu cơ dễ phân hủy sẽ bị phân hủy. Trong nước càng ô
nhiễm nhiều (lượng chất hữu cơ nhiều) thì lượng BOD5 càng cao. Thông thường thì
nước dùng cho sinh hoạt phải có BOD5 nhỏ hơn 4 mg/ l; nước dùng cho thủy sản
thì BOD5 phải nhỏ hơn 10 mg/ l. Nếu BOD5
lớn hơn 10 mg/ l thì xem như nước bị ô nhiễm hữu cơ rõ rệt.
● COD, tức
chemical oxygen demand, -nhu cầu ôxy hoá học-, là lượng oxy cần thiết để phân
hủy hết các chất hữu cơ có trong nước theo con đường hóa học. Nồng độ COD cho
phép đối với nguồn nước mặt là COD lớn hơn 10 mg/l
Khi BOD và COD cao, điều đó có nghĩa
là nồng độ oxy hòa tan trong nước bị giảm, hậu quả là tôm cá trong ao, hồ sẽ
chậm phát triển hoặc chết. Ngoài ra, trong các điều kiện kỵ khí, yếm khí, các
chất hữu cơ phân hủy sinh ra mùi hôi thối; thực vậy mùi bùn hôi tanh (hoa
sen 'gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn') là do sự phân hủy các chất hữu cơ.
● DO, tức
dissolved oxygen, -nồng dộ oxy hoà tan- là lượng oxy tự do ở dạng hoà tan trong
nước. DO trong nưóc uống không được nhỏ hơn 6 mg/l. Lượng oxy trong nuớc
là yếu tố quan trọng của nước để tự làm sạch nhờ hoạt động các vi sinh vật hiếu
khí. Khi BOD và COD quá cao sẽ làm giảm DO và nếu DO giảm sẽ tạo điều
kiện cho các vi sinh vật yếm khí họat động, gây ra nhiều H2S tạo mùi hôi
thối cho các vùng bị ô nhiễm.
9. Nước và phát triển bền vững
Nước đóng góp
rất lớn vào mọi khía cạnh của nền kinh tế, đặc biệt là nước ngọt vì từ nông
nghiệp đến kỹ nghệ đều cần loại nước này: tưới cây, chế biến trong kỹ nghệ thực
phẩm, sản xuất trong hầm mỏ, kỹ nghệ giấy. Thiếu nước sẽ làm tê liệt các ngành
hoạt động trên. Sự gia tăng dân số, sự phát triển kỹ nghệ sẽ ngày càng tác động
mạnh đến môi trường nước (dân số tăng lên một lần, nhu cầu nước tăng lên
ba lần), do đó tài nguyên nước phải cung ứng nhiều hơn cho dân số tăng không
những về lượng mà còn về phẩm. Muốn thế, phải tăng sự tái chế biến nước (water
recycling) và tiết kiệm tài nguyên này, nghĩa là không xài phung phí nước. Nước
tái chế biến là nước thải trong các ống cống nhưng đã được xử lý vứt bỏ các
chất cứng và vài chất dơ để dùng lại trong tưới cây, tưới vườn, tưới sân golf,
xe chữa lửa v.v... Tiết kiệm nước có thể là theo tuần tự: rửa mặt, giặt
giũ, rửa chân tay, cuối cùng mới dùng cho nhà vệ sinh. Từ đó lượng nước sử dụng
đã giảm một nửa. Tiết kiệm nước tưới trong nông nghiệp như xử dụng nước
nhỏ giọt (drip irrigation), tưới đúng chỗ, đúng kỳ, như tráng xi măng trên các
mương dẫn nước, như vậy vừa bớt hư hao nước, vừa bớt cỏ dại ven mương.
Một công nghệ
tái chế biến nước càng ngày càng ứng dụng (như ở thành phố Luân Đôn và
Singapour) là thẩm thấu ngược (reverse osmosis). Thẩm thấu là một hiện tượng tự
nhiên: nước bao giờ cũng chuyển dịch từ nơi có nồng độ muối khoáng thấp đến nơi
có nồng độ cao hơn và quá trình diễn ra đến khi nồng độ muối khoáng từ 2 nơi
này cân bằng. Trong thẩm thấu ngược, người ta phải dùng một áp lực đủ để đẩy
ngược nước từ nơi có hàm lượng muối cao ‘thấm’ qua một loại màng đặc biệt để
đến nơi có ít muối khoáng hơn.
Ngoài ra, bảo
vệ tài nguyên nước cũng bao hàm phải chú trọng các vùng núi non hiểm trở
vì chính các vùng này là nguồn phát sinh ra nước của dòng sông: đó là những
tháp nước đưa nước về miền hạ lưu. Bảo vệ như không phá rừng đầu nguồn mà trái
lại lo làm giàu thêm như tổ chức du lịch sinh thái, bảo tồn đất đai chống xói
lở, giúp phát triển kinh tế các bộ tộc sinh sống. Cũng cần lưu ý là xử lý ô
nhiễm phải làm trên toàn lưu vực một dòng sông vì nếu chỉ thực hiện chống ô
nhiễm nước thải các nhà máy ở hạ nguồn mà trên thượng nguồn, nước ô nhiễm vẫn
chảy về thì xem như vô ích.
Để tóm lược,
nước là một tài nguyên con người phải trân quý, không để các dòng sông từ từ
chết mòn, chết dần với các ô nhiễm vì ô nhiễm nước sẽ gây tác hại đến tuổi thọ
loài người. Ngoài an ninh lương thực, ta còn phải chú ý đến an ninh nguồn nước
sinh hoạt, vì về lâu về dài, dân số đông, nhu cầu nước nhiều, nếu không kiểm
soát được ô nhiễm nước thì sẽ gây gánh nặng y tế như ung thư, dịch tả v.v.
10 . Tuyên ngôn về nước
Như trên đã
viết, nước ngọt đóng nhiều vai trò cực kỳ quan trọng trong sinh hoạt, trong an
ninh lương thực, trong sản xuất kinh tế. Tuy nhiên nhiều dấu hiệu cho thấy nước
ngọt càng ngày càng hiếm có thể vì nhiều nguyên nhân: dân số tăng, thất thoát
nước trong đường chuyển vận, ô nhiễm nước, hạn hán và sa mạc hóa, nước mặn xâm
nhập, phá rừng, nước ngầm tụt sâu do khai thác nước giếng quá mức. Thực vậy,
vài con số cho thấy vài vấn nạn của tài nguyên nước trên thế giới ngày nay:
● Hơn 1/6 dân số toàn cầu thiếu nước
sinh hoạt. Phụ nữ nhất là ở Châu Phi phải đội các bình nước đi bộ hàng cây số
lấy nước nên không thể tham gia vào công việc nông nghiệp, kéo thêm nạn nghèo
đói.
● 2,5 tỉ người, gồm gần 1 tỉ trẻ em,
sống mà không có những điều kiện vệ sinh cơ bản, cứ 20 giây thì có một trẻ chết
vì vệ sinh kém, nhất là do bệnh dịch tả.
● Ở các nước đang phát triển, 70% chất
thải công nghiệp đổ thẳng vào nguồn nước không qua xử lý.
● Mỗi ngày, một người cần 2-4 lít nước
để uống nhưng cần 2.000-5.000 lít nước để sản xuất ra thực phẩm hằng ngày cho
một người.
● Vào năm 2025, 1,8 tỉ người sẽ sống ở
các quốc gia và các khu vực hoàn toàn thiếu nước, 2/3 dân số thế giới sẽ rơi
vào tình trạng căng thẳng vì thiếu nước.
● Tiêu thụ nước không đồng đều tùy theo
mức phát triển: 3000 m3/dân/năm ở các xứ Âu Châu; 10 000m3/dân/năm ở Hoa Kỳ;
200m3/dân/năm ở các xứ đang mở mang như Ethiopie, Angola
Riccardo
Petrella, một nhà xã hội học người Ý cùng với một số thức giả khác thường được
nhiều người gọi là nhóm Lisbonne (Portugal) đã ra một Tuyên Ngôn về Nước (water
manifesto) trong đó minh xác nước không phải là món hàng trao đổi được mà là
một di sản chung của nhân loại. Tuyên ngôn cho rằng quyền tiếp cận với nước
ngọt và sạch là một quyền cơ bản của con người. Không phải người giàu có tiền
mà có thể hưởng thụ tài nguyên nước nhiều hơn người nghèo. Nông nghiệp, kỹ
nghệ, sinh hoạt hàng ngày đều dựa vào nước. Tuyên ngôn minh xác nước
là một chất không thể thay thế được nên mọi người và mỗi người đều có quyền cơ
bản có nước uống cả phẩm lẫn lượng cần thiết cho cuộc sống và mọi công dân trên
thế giới đều có nghĩa vụ hợp tác trong quản lý tài nguyên nước, tôn trọng quyền
các thế hệ tiếp nối giữ gìn di sản chung.
11. Vài đại lượng cần biết trong thủy lợi
Tài nguyên
nước bao gồm cả nước mặt do mưa rơi xuống sông, suối, ao hồ và nước ngầm. Nước
ngầm cũng phụ thuộc vào lượng nước mưa rơi và tính chất thấm nước của đất đá.
Thủy lợi là khoa học tổng hợp nhằm đánh giá,
khai thác xử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên nước và bao gồm đánh giá và quy
hoạch nguồn nước; khảo sát và thiết kế, xây dựng công trình; quản lý lưu vực; chỉnh
trị sông, bờ biển.
Thủy văn (hydrologie) là lĩnh vực nghiên cứu
khoa học về nước thông qua quan trắc, phân tích và công thức hóa. Cũng là khoa
học ứng dụng nhằm điều khiển và xử dụng nước. Chế độ thủy văn giao động theo
mùa về mực nước, về dòng chảy, về thành phần và nồng độ các chất hòa tan, sự
thay đổi lòng sông.
Bốc thoát hơi nước là lượng nước bốc hơi từ mặt đất và
thoát hơi từ cây. Do giá trị thực tế của lượng hơi nước bốc ra từ đất và từ cây
rất khác nhau, tùy theo tính chất đất, hàm lượng nước, thảm cây che phủ đất nên
các nhà khoa học đề nghị một lượng bốc thoát hơi nước tiềm tàng
(évapotranspiration potentielle) để dễ so sánh. Bốc thoát hơi nước tiềm tàng là
lượng nước tối đa thoát ra từ một thảm thực vật thấp và dày đặc đồng đều
không bị hạn chế và bốc hơi từ đất lên, khi lượng nước cung cấp hoàn toàn bảo
đảm trong những điều kiện khí hậu thổ nhưỡng nhất định.
Lưu vực sông (bassin
versant; watershed) là vùng lãnh thổ mà sông nhận được nước nuôi dưỡng. Có
vài sông lưu vực lớn ở Việt Nam như sông Mekong, sông Hồng v.v. Trong thủy lợi,
diện tích lưu vực sông được tính từ nguồn đến vị trí công trình tính toán... Ví
dụ: sông Đà có diện tích lưu vực là 52 900 km2, nhưng sông Đà ở Hòa Bình thì
lưu vực là 51 800 km2.
Đoạt giang (river piracy). Đầu nguồn một dòng
sông có thể do xói mòn lùi ngược và đoạt nước thượng nguồn của một dòng
sông thuộc lưu vực khác. Một vài sông miền Trung đã do xói mòn vào đường phân
nước nên đã ăn vào phần thượng nguồn dòng sông lưu vực bên Lào.
Lưu lượng dòng sông (débit)
Lưu lượng
nước là lượng nước chảy qua một mặt cắt ngang của lòng dẫn hoặc ống dẫn trong
một đơn vị thời gian một giây. Đơn vị tính thường là m3/sec hay lit/sec.
Lưu lượng biến thiên theo
thời gian:
Mùa lũ muộn dần từ Thanh Hóa đến Phan Thiết.
Mùa lũ ở Sông
Chu: tháng 6- 10; sông Cả: tháng 8 -11; sông Gianh : tháng 9- 11.
Từ Thừa Thiên
đến Khánh Hòa: từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau.
Từ Phan Rang đến Hàm Tân (Bình
Tuy/Bình Thuận), mùa lũ xuất hiện tháng 7- 12
Lưu
lượng lớn nhất của con lũ phụ thuộc chủ yếu vào cường độ, thời gian mưa và
đặc tính lưu vực.
Mùa cạn là lúc lưu lượng dòng chảy thấp,
giảm đến đáng kể. Nhiều dòng sông nhỏ có thể lội qua được. Sông Chu có mùa cạn
từ tháng 11 đến tháng 5; sông Cả từ tháng 12 đến tháng 7; sông Gianh từ tháng
12 đến tháng 8. Từ Huế vào, mùa cạn từ tháng 2 đến tháng 8.
Nhiều tỉnh
miền Bắc Trung Việt như Thanh, Nghệ, Tỉnh, Bình, Trị bị thêm gió Lào nóng thổi
từng cơn ác liệt vì hiện tượng foehn, sự bốc thoát hơi của đất và của cây rất
mạnh; có khi hạn hán kéo dài không trồng hoa màu được; nhiều hồ thủy điện bị
khô nước.
Mật độ lưới sông là tỷ số giữa tổng số độ dài của tất
cả sông suối trong hệ thống sông trên diện tích lưu vực. Trong khi miền Châu
thổ sông Hồng và sông Cửu Long, kinh rạch sông ngòi chằng chịt, mật độ lưới
sông rất dày (2-4 km/km2) thì miền Trung, mật độ lưới sông thấp hơn (1.5-2
km/km2). Riêng các vùng có đá vôi như Phong Nha, Kẻ Bàng ở Quảng Bình thì
mật độ rất thưa (0.3-0.5 km /km2) vì đá vôi dễ thấm nước. Mật độ lưới sông vùng
Phan Rang, Phan Thiết cũng thưa thớt vì lưu vực mưa ít và bốc hơi nhiều.
Hệ số dòng chảy là tỉ số giữa lớp dòng chảy (mm) và
lớp nước mưa rơi trên lưu vực (mm) tạo nên lượng dòng chảy đó.
Hệ số xử dụng nước là tỉ số giữa lượng nước thực sự xử
dụng và lượng nước được cung cấp. Hệ số này phản ánh tình hình mất nước trong
quá trình xử dụng. Trong một hệ thống tưới ruộng thì hệ số này cho thấy tình
hình mất nước từ nguồn tới ruộng như tổn thất do ngấm, bốc hơi, rò rỉ qua các
bờ kênh. Thường hệ số này từ 0.5 đến 0.8. Muốn tránh rò rĩ trên kinh tưới,
nhiều nơi dùng giải pháp bê tông hóa hoặc plastic hóa các kinh.
Hệ số thấm là tốc độ thấm nước vào đất
Hệ số tưới là lượng nước tưới cho một đơn vị
diện tích cây trồng trong một đơn vị thời gian. Tính bằng l/sec/ha. Ví dụ trên
lúa là 1 lit/sec/ha, nhưng trên bắp thì chỉ 0. 7 l/sec/ha
Hệ số nhám. Trong kinh dẫn nước có thể có thực
vật phát triển, tăng độ gồ ghề của bề mặt, ảnh hưởng đến dòng chảy.
Mođun dòng chảy là lưu lượng nước sinh ra trung bình
trên một đơn vị diện tích lưu vực trong một giâỵ. Tính ra là lít/sec/km2.
Mođun dòng
chảy năm lớn nhất đạt tới 70-80lít/sec/km2 tại lưu vực sông Tả Trạch (sông
Hương) và nhỏ nhất chỉ có 5-10 lít/sec/km2 tại lưu vực sông Lũy Phan Thiết.
Môđun dòng chảy đỉnh lũ có thể đạt 20-30 m3/sec/km2.
Dòng chảy bùn cát, còn gọi là dòng chảy rắn là lượng
bùn cát do dòng nước vận chuyển trong lòng sông qua một mặt cắt nào đó, trong
một khoảng thời gian nhất định như ngày, tháng, năm. Sông Hồng và sông Cửu Long
có dòng chảy bùn cát nhiều phù sa lơ lửng rất lớn.
Kênh dẫn nước
đưa nước từ công trình đầu mối (đập, hồ, nhánh sông v.v...) về phân phối cho hệ
thống kênh điều tiết nước mặt ruộng, còn kênh tiêu (canal de drainage) dẫn nước
thừa trên ruộng ra sông hoặc ra khu chứa nước tiêu.
Tưới nước có
nhiều phương pháp:
● Tưới ngập
(submersion irrigation) tạo một lớp nước trên ruộng như trồng lúa. Đòi hỏi phải
san bằng đất và đắp nhiều bờ để giữ nước.
● Tưới rãnh
(furrow irrigation) hoặc tưới thấm: đưa nước chảy theo rãnh để nước thấm vào
đất theo chiều ngang, giữ được đất thông khí và xốp. Ứng dụng cho bắp đậu trồng
theo hàng.
● Tưới nhỏ giọt
(drip irrigation): cung cấp nước từng giọt trực tiếp vào gốc cây. Nước tưới
được lọc sạch cặn nếu không lỗ bị bít. Lưu lượng tưới rất nhỏ (thường chỉ vài
lít trong một giờ) vừa đủ thấm vào đất.
● Tưới phun
(sprinkler irrgation): dùng máy bơm hút nước và phun lên thành hạt nhỏ như mưa.
Ưu điểm là không cần đắp bờ, san bằng đất khi tưới nhưng khuyết điểm là tăng
bốc hơi, tăng ẩm độ không khí có thể tạo điều kiện cho bệnh thảo mộc và ngoài
ra, thiết bị bơm đắt tiền.
12. Các vấn nạn những dòng sông
Dòng sông vốn là một tài
nguyên quí giá nhưng gặp các vấn nạn sau đây:
12.1. Lũ lụt. Vì các dòng sông miền Trung không
dài, độ dốc núi non rất lớn, đồi núi trọc, không cây che phủ nên nước mưa, vốn
tập trung vào vài tháng trong năm, dễ gây ra lụt, nhất là từ Thanh Hóa đến
Quảng Nam. Rừng bị phá hại đã làm các quá trình địa mạo tiêu cực như xói
mòn, rửa trôi, trượt lở đất xảy ra nhanh chóng.
Rừng có ảnh hưởng đến các yếu tố thủy
văn trong lưu vực: rừng hạn chế dòng chảy mặt, chuyển nước mặt thành nước ngầm,
nhờ vậy có tác dụng điều tiết nguồn nước sông suối rừng bảo vệ đất trên các
triền lưu vực, giúp chống xói mòn. Những lưu vực có rừng che phủ thì độ ẩm
không khí tăng cao, làm tăng lượng nước rơi địa hình. Chính nhờ các khả năng
điều tiết to lớn như vậy của rừng nên sự phá rừng bừa bãi trên lưu vực đã dẫn
đến những kết quả tai hại như lũ lụt xảy ra, hạn hán tiếp diễn, xói mòn triền
dốc, đem theo cả sỏi đá lẫn cát bùn làm nhiều hồ chứa nước dễ bị bít và cạn,
phải nạo vét định kỳ.
12.2. Hạn hán.
Cũng vì phá rừng nên lượng mưa chảy tràn trên mặt (runoff) nhiều hơn lượng nước
mưa thấm vào đất. Gặp mùa nắng kéo dài hoặc khi mùa mưa kết thúc sớm, lưu
lượng trên sông giảm dần nên nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt.
12.3. Mặn hóa.
Do bùng nổ dân số, sinh đẻ búa xua không kiểm soát, các đồng bằng miền Trung có
diện tích đất trồng trọt được càng ngày càng nhỏ nên phải tận dụng thâm canh
vào mùa khô, do đó phải bơm nước tưới ruộng, làm nước nhiễm mặn càng xâm nhập
sâu. Do bơm nước, mực nước hạ thấp, cường độ thấm nước từ các sông tăng lên,
làm nước mặn ngoài biển lấn vào. Vào cuối mùa nắng, khi dòng chảy của sông ngòi
nhỏ nhất thì độ mặn lên xa trên mọi dòng sông miền Trung, gây khó khăn cho dân
chúng về nước uống cũng như về tưới hoa màu. Cũng có chỗ hệ thống đê ngăn mặn
bị vỡ khiến nhiều ruộng bị mặn, không trồng trọt được.
12.4. Sạt lở bờ sông. Sự khai thác bừa bãi càng ngày càng nhiều các tài nguyên như cát, sỏi,
vật liệu xây dựng trên các dòng sông để xây cất trong quá trình đô thị hóa cũng
như xây kè lấn ra bờ sông làm thay đổi dòng chảy hiện có, thay đổi cấu
trúc/kết cấu/địa mạo dòng sông, gây nhiều vực sâu, đưa đến tình trạng sạt lở về
lâu dài, như tình trạng các dòng sông như Thu Bồn, Trà Khúc v.v... khiến
nhiều gia đình sống mấp mé bên các triền sông phải di dời hàng năm.
12.5. Bùn cát lơ lửng. Nếu nhiều trong dòng nước thì các hồ chứa bị bồi đầy
nhanh chóng. Sự phá rừng trên thượng nguồn làm bào mòn lưu vực và do đó, lượng
phù sa lắng đọng sẽ tăng cao lòng sông và làm giảm sự thoát lũ. Sông Hương chảy
qua thành phố Huế là một ví dụ điển hình: bùn cát làm dòng sông đục ngầu, không
còn xanh trong như xưa.
12.6. Thủy triều và sóng lớn. Các rừng ngập mặn bị phá để làm đìa nuôi tôm, nên các làng
duyên hải càng bị gió ngoài khơi thổi mạnh, không có hàng rào thực vật thiên
nhiên chống đỡ, nên triều cường và sóng lớn lấn sâu vào đất liền; nhiều đìa
nuôi tôm, nhiều ao nuôi cá cuốn trôi ra biển. Triều cường làm nhiều vùng thấp
bị ngập hư hại và làm các đê bao, đê ngăn mặn bị phá hủy. Khi thủy triều vào
trong sông, độ mặn lan truyền, khuếch tán. Dưới tác dụng của dòng triều, nước
biển xâm nhập vào sông, đi về hướng thượng nguồn. Chiều dài xâm nhập phụ thuộc
vào cường độ của dòng triều và lượng nước trên thượng lưu đổ về.
12.7. Ô nhiễm nước. Nếu xưa kia, nước quan trọng thì
ngày nay, nước lại càng quan trọng hơn. Lý do chính là do áp lực dân số,
tạo nên nhu cầu nước. Kỹ nghệ phát triển, đô thị phát triển, dân số phát
triển kéo theo nhiều phế thải và nhiều ô nhiễm; nhưng vì mọi ô nhiễm dù là từ
đất (bãi rác rò rĩ, thuốc sát trùng, phân bón), dù là từ không khí (từ các khu
kỹ nghệ, từ khói xe) nhưng cuối cùng rồi cũng phải chảy về chỗ thấp, nghĩa là
vào nước. Tóm lại, nước không những phải nhiều cho một dân số càng ngày càng
tăng (Việt Nam nay đã 80 triệu dân) mà còn phải sạch để bảo đảm sức khoẻ.
Nước mà dơ bẩn thì vô hình gây ra một gánh nặng cho nền y tế. Đặc biệt, trên
các dòng sông miền Trung, có nhiều vạn đò sống trên sông và xử dụng trực tiếp
nước sông nên dịch bệnh là một ám ảnh thường xuyên. Thực vậy, phần lớn
phân người từ các đô thị đi thẳng vào sông ngòi mà không được xử lý. Rác rến đổ
thẳng vào sông, nhiều dòng sông trở nên dơ bẩn, hôi hám và lại lấy nước đó để
giặt giũ!
13. Quản trị các lưu vực
Mọi vấn nạn
trên đều có tương quan với nhau. Mùa mưa, nước lụt cuốn trôi nhà cửa ruộng vườn
vì mưa lũ nhiều do rừng đầu nguồn bị phá; mùa nắng thì do bơm nước nhiều quá sự
luân lưu của dòng chảy (nước mặt và nước ngầm) nên nước mặn xâm nhập sâu
vào nội địa.
Muốn giải
quyết các vấn nạn trên, sự quản trị đồng bộ của lưu vực đòi hỏi những biện pháp
tổng hợp:
● trồng rừng ở đầu nguồn để chuyển một
phần nước mặt thành nước ngầm nhằm hạn chế nước lũ dồn về hạ lưu quá nhanh, kéo
dài thời gian truyền lũ. Rừng cây giúp giảm tốc độ dòng chảy, giảm lượng nước
chảy tràn bề mặt và lượng đất bị xói mòn.
Sự phát triển kinh tế và bảo vệ
tài nguyên rừng không loại trừ lẫn nhau; đúng hơn, chúng phụ thuộc và hỗ trợ
cho nhau. Tài nguyên rừng bảo vệ tài nguyên nước và nhờ tài nguyên nước, mới có
những đập thủy điện nhỏ trên các vùng núi non, giúp nông dân thôn bản có thể
giải trí nhờ truyền hình, giúp xay lúa, chà gạo, giải phóng phụ nữ khỏi các
việc nặng nhọc lam lũ.
● xây dựng các hồ chứa đầu nguồn để
tích nước nhằm giảm mức độ của lũ. Các công trình giữ nước trên núi hay vùng gò
đồi giúp điều tiết lượng nước. Có thể nuôi cá trên các hồ được đào theo hệ
thống hồ bậc thang có phun nước, nhận nước và xả nước. Trên các suối, xây đập,
làm hệ thống nước chảy tự động từ suối vào vườn để tưới cây trồng.
● xây dựng các đập tức là những công
trình chắn ngang dòng chảy, ngăn nước hoặc tạo thành hồ chứa để điều tiết lưu
lượng, bớt được lũ lụt ở hạ lưu vào mùa mưa, bổ sung nguồn nước vào mùa nắng để
tưới ruộng, cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường đầm phá, tạo đầu nước phát
thủy điện.
● phân một phần lưu lượng lũ của sông
chính vào sông nhánh.
Và lồng ghép vào chương
trình trên phải là một chương trình điều hoà dân số, -chú trọng vào chất lượng
hơn là số lượng dân-, cũng giúp cải thiện môi trường sống, vì có sự liên hệ
chặt chẽ giữa dân số và môi trường.
14. Kết luận
Xưa kia, không ai đặt nặng vấn nạn nước vì nước trong sạch, dồi dào. Nhưng ngày nay, dân số tăng lên kéo theo một loạt nhu cầu về năng lượng, về thực phẩm, về nhà cửa, về vật tiêu dùng nên nhu cầu về nước, từ nước sinh hoạt, nước nông nghiệp, nước kỹ nghệ càng ngày càng tăng, huống hồ với sự biến đổi khí hậu vì khí nhà kính, sự phá rừng, sự ô nhiễm lại làm nguồn cung cấp nước bị giảm đi, cả lượng lẫn phẩm. Con người phải nhận thức rằng nước là một tài nguyên hữu hạn nên càng phải trân quý, nghĩa là không phá rừng vì rừng làm tăng nguồn nước, không phung phí nước mà gắng tái chế biến.
Ở dưới bầu trời này, mọi
sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
một thời để chào đời,
một thời để lìa thế;
một thời dể phá đổ, một thời để xây dựng;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;
một thời để than van, một thời để múa nhảy;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng
(Giảng Viên 3:1-4, 7-8).
một thời dể phá đổ, một thời để xây dựng;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;
một thời để than van, một thời để múa nhảy;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng
(Giảng Viên 3:1-4, 7-8).
Ngày nay,
chính là thời để lên tiếng, kêu gọi mọi người phải có tình thương Trái Đất,
tình yêu thiên nhiên.Yêu thiên nhiên là không làm tổn hại đến thiên nhiên, núi
rừng, cây cỏ. Yêu thiên nhiên là không làm nguồn nước bị ô nhiễm bởi các chất
độc hại khiến cho con người cũng như các động vật không bị chết dần chết mòn.
Niềm yêu thiên nhiên đưa ta đến khái niệm đạo đức sinh thái, không làm tổn
thương đến các hệ sinh thái vốn nuôi nấng loài người từ thuở hàng trăm ngàn năm
trước, lúc loài người từ vùng Đông Phi châu bắt đầu tản mác bốn phương. Phong
trào ăn chay hiện nay cũng đóng góp rất nhiều cho môi trường thiên nhiên. Thực
vậy, ăn chay giúp tiết kiệm rất nhiều đất vì không cần đồng cỏ, không cần có
thực phẩm nuôi gia súc, tiết kiệm luôn cả nước tưới. Con người đã hủy hoại môi
trường thì chính con người phải đóng góp cải tạo môi trường sống, nghĩa là bớt
tiêu thụ, bảo vệ các hệ sinh thái từ rừng đến san hô biển, tạo ra một nếp sống
hài hòa, sống an lạc cả Thân lẫn Tâm. Hiện nay, xu thế chung của thời đại là theo
chiều hướng đó; nếu ta tiếp tay với các nhà sinh thái học bốn phương để dấy lên
một phong trào yêu thiên nhiên, -màu xanh của rừng, của biển, của mây, của
nước- thì có lẽ trái đất này mới thoát hiểm nghèo vậy.
Thái Công Tụng
No comments:
Post a Comment