Tiến
sĩ, Kỹ sư Thổ nhưỡng học Thái Công Tụng
|
***
1.
PHÂN
TÍCH CÁC YẾU TỐ THIÊN NHIÊN TẠI NAM VIỆT NAM
LIÊN QUAN ĐẾN CÁC LÃNH VỰC NÔNG
NGHIỆP
Dựa
vào một số tiêu chuẩn như đất đai, địa hình, khí hậu, thủy lợi, miền Nam Việt
Nam có thể phân loại thành nhiều vùng nông nghiệp. Mỗi vùng nông nghiệp có các
yếu tố vừa kể tương tự như nhau và do đó vấn đề kế hoạch xử dụng đất đai trong
các lãnh vực nông nghiệp như canh nông, thủy lâm, chăn nuôi cũng có tính cách
tương-tự đối với mỗi vùng nông nghiệp.
Nếu
các yếu tố mà thiên nhiên từ ngàn xưa đã phú cho mỗi vùng được xử dụng thích
nghi nhất với từng lãnh vực nông nghiệp hay từng loại hoa màu thì sự đầu tư để
thực hiện các dự án phát triển nông nghiệp của mỗi vùng cũng do đó sẽ giảm bớt
mà thành quả thu hoạch được cũng rất nhiều vì chính ra, ta không thể cưỡng ép
thiên nhiên mà chính là phải phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên.
Mỗi
vùng thiên nhiên có những ưu điểm riêng của nó và cũng có những vấn đề đặt ra
cho sự phát triển. Sự phát triển không thể hỗn loạn, trái với các điều kiện
sinh môi mà phải “phát triển trong sự điều hòa” (Progress in Harmony). Đó cũng
là đầu đề của Hội Chợ QSAKA tại Nhật vài năm trước đây.
Vậy
thử hỏi các điều kiện sinh môi là thế nào và nhất là vị trí của các điều kiện
đó trong sư xác định các vùng nông nghiệp? Sau đây, ta hãy thử phân tích các yếu
tố thiên nhiên quan yếu nhất đến sự phân loại và sự thích nghi các hoạt động
nông nghiệp tại các vùng.
Mọi
người đều biết nước ta có nhiều loại đất đai do sự khác biệt về địa chất và khí
hậu. Đất miền đồng bằng khác với đất miền cao nguyên mà ngay trong mỗi miền, đất
đai cũng khác nhau nữa do sự chuyển hóa của mẫu thạch, thủy cấp...
● Về Canh Nông thì
có những vùng đất bằng phẳng, phì nhiêu mà sự canh tác không gặp bất cứ một cưỡng
chế nào.
Ngược
lại cũng có những vùng đất có nhiều yếu tố giới hạn cho sự phát triển, hoặc là
vì:
○ Đất
quá nhiều cát (đất régosol) ở miền duyên hải.
○ Đất
quá nhiều phèn (đất ở miền Đồng Tháp)
○ Đất
quá dốc và nông cạn (đất núi ở dãy Trường Sơn)
○ Đất
quá mặn và úng thủy (đất mặn ở vùng châu thổ Đồng Nai và Mũi Cà Mau).
● Về Chăn Nuôi
thì có nhiều vùng có sẵn khí hậu mát mẻ và nhiều đồng cỏ thiên nhiên rất thuận
lợi cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc mà khỏi lo đến cỏ ngay cả mùa nắng.
Nhưng cũng có vùng chỉ có cỏ vào mùa mưa mà mùa nắng kéo dài 6 tháng và thủy cấp
quá sâu nên cỏ đều khô cháy mà chỉ cần một ngọn lửa nhỏ cũng đủ làm cháy cả thảo
nguyên như bài thơ của Bạch-Cư-Di:
Ly ly nguyên thương thảo
Nhất tuế nhất khô vinh
Giã hỏa thiêu bất tận
Xuân phong xuy hựu sinh
Nhất tuế nhất khô vinh
Giã hỏa thiêu bất tận
Xuân phong xuy hựu sinh
mà
Tản Đà đã dịch:
Đồng cao cỏ mọc như chen
Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn
Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn
Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.
Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn
Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn
Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.
● Về Ngư Nghiệp
thì có vùng có sẵn kinh rạch ngổn ngang mà về mùa mưa nước tràn vào ruộng đến
mùa nước rút chỉ cần đặt ngư cụ ở những chỗ thấp nhất để cá chảy ra là bắt hoặc
có thể nuôi cá dễ dàng bất cứ chỗ nào: trước nhà, sau nhà, trong hồ.
Nhưng
cũng có vùng sông ngòi đều cạn về mùa nắng (miền Trung) hay có rất ít đất thấp
có thể đào ao (miền cao nguyên) mà ngành dưỡng ngư tương đối ít thuận tiện hơn.
Có
nhiều vùng đất tốt có đủ điều kiện hướng nông nhưng lại xử dụng vào các mục
tiêu như lập khu gia cư, xưởng kỹ nghệ, nghĩa trang mà đúng ra chỉ nên xử dụng
các loại đất xấu vào các đối tượng trên vì ít khi lại thấy có trường hợp hi hữu
là đất đã lập khu gia cư, xưởng kỹ nghệ... lại trở về đất canh nông.
Có
những vùng đất dốc nhiều, đá nhiều ở thượng lưu một dòng sông, suối mà nếu phá
rừng không trồng cây lại thì đưa đến các hậu quả tai hại vô lường: lụt ở hạ
lưu, cát lấp ở cửa biển, đập nước càng ngày có bùn lắng-tu (siltation) vì sự
soi mòn lý học đã đem đi rất nhiều đất màu trên mặt mà không bao giờ lấy lại được.
Ngược lại, cũng có những vùng còn rừng mà sự canh tác canh nông không có ảnh hưởng
đến sư soi mòn vì đất bằng phẳng mà lại có thể đem đến một lợi tức kinh tế gấp
bội cho người dân thì ta phải lựa chọn và cân nhắc để hoạch định các vấn đề
trong việc chỉnh trang lãnh thổ.
Đất
đai là của các bậc tiền bối để lại mà ta không có quyền phí phạm xử dụng sai lầm.
Dòng sông là một tài nguyên quốc gia mà mọi người có bổn phận gìn giữ và xử dụng
đồng đều. Ta phải điều hòa 2 khái-niệm PHÁT-TRIỂN νà ΒẢΟ TỒN (Development and
conservation). Hai ý niệm đó không có gì mâu thuẫn và thực ra đó chỉ là 2 khía
cạnh của cùng một vấn đề: đó chỉ là vấn đề xử dụng đất đai một cách thuần-lý.
Bây
giờ ta thử hỏi: Vậy thế nào là xử dụng đất đai một cách thuần lý? Một kế hoạch
xử dụng đất đai một cách thuần lý phải dựa vào 3 điều kiện ắt có sau đây:
● Hợp
lý về mặt thiên-nhiên (physically sound)
● Khả
thi về mặt kinh tế (economically feasible)
● Chấp-nhận
được về mặt xã hội (socially acceptable)
Cả
3 tiêu chuẩn trên đều dễ hiểu mà không cần giải thích.
2. CÁC VÙNG THIÊN NHIÊN
Dựa
vào một số tiêu chuẩn như đất đai, khí hậu, thủy lợi, địa hình, có thể phân loại
4 vùng thiên nhiên rộng lớn sau đây tại miền Nam Việt Nam từ Bắc vào Nam:
● Miền
duyên hải Trung-Việt
● Miền
cao nguyên Trung-Việt
● Miền
Đông Nam Phần
● Miền
châuThổ Cửu Long
Trong
mỗi vùng thiên nhiên rộng lớn, có thể phân biệt nhiều vùng nhỏ hơn do sự khác
biệt chi tiết về các tiêu chuẩn vừa kể.
Mỗi
vùng thiên-nhiên có các đặc điểm và vấn đề xử dụng đất đai khác nhau.
A.
Miền
Duyên Hải Trung-Việt
Trung
Phần gồm những đồng bằng nhỏ hẹp nằm giữa dãy Trường Sơn và biển Nam Hải, từ vĩ
tuyến 17 đến vĩ tuyến 11. Dãy Trường Sơn chạy dài từ Bắc đến Nam thỉnh thoảng
dãy núi nầy lại đâm ra biển thành những mũi như mũi núi ở đèo Hải Vân, giữa Huế
và Tourane (Đà Nẵng), mũi Varella tức Đèo Cả giữa Tuy Hòa và Nha Trang và mũi
Padaran giữa Phan Rang và Phan Thiết.
Mũi
ở đèo Hải Vân xác định một sự khác biệt về khí hậu, thực vậy, vũ lượng ở Huế
cao hơn chừng một mét so với vũ lượng tại Đà Nẵng.
Mũi
Varella chấm dứt những đồng bằng rộng rãi phì nhiêu phía Bắc và nhường chỗ lại
cho các đồng bằng nhỏ hẹp phía Nam. Còn vùng mũi Padaran là vùng có khí hậu khô
khan nhất Việt-Nam (700mm nước mưa/năm) và đất đai cũng khác biệt.
Dưới
đây chúng ta nêu rõ đặc điểm của từng đồng bằng một từ Bắc chí Nam.
1.
Đồng bằng Trị-Thiên (Quảng Trị và Thừa Thiên)
Đặc
điểm của đồng bằng này là dài và hẹp. Dãy Trường Sơn ở đây rất gần biển, khoảng
cách giữa biển và dãy núi nầy chỉ chừng 10 đến 20km. Đã hẹp mà đồng bằng nầy lại
còn chiếm bởi những đồi cát trắng như các đồi cát tại Ái Tử giữa Đông Hà và Quảng
Trị, đồi cát vùng quận Phong Điền và những đầm nước mặn (lagune) dọc duyên hải.
Vùng này được tiểu thuyết hóa với danh từ “dãy phố đìu-hiu”. Đặc biệt tại đây
có phá Tam Giang. Chữ Phá ở miền Trung có nghĩa là cửa một con sông lớn hoặc là
chỗ gặp của nhiều cửa sông. Phá Tam Giang là chỗ mà ba cửa của sông Ô Lâu chảy
ra. Sông nầy chia ra ba nhánh tục gọi là Hói, Hói lớn nhất là Hói Củi rồi đổ ra
nơi gọi là Phá Tam Giang. Phá này chạy dài song song với bờ biển ngăn cách một
bên là các đồi cát dọc duyên hải và một bên là ruộng phía nội địa. Phá Tam
Giang ở đây cùng với Truông nhà Hồ ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị là 2 địa danh trở
thành bất hủ nhờ câu ca-dao:
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ Truông nhà Hồ, sợ Phá Tam-Giang.
Sợ Truông nhà Hồ, sợ Phá Tam-Giang.
Ngoài
những đồi cát, sợ phá nước mặn, có các phù sa ven sông ở đây đất cao mà gần nước
nên là nơi có nhà cửa ở, các phù sa đất ruộng dùng để trồng lúa và các phù sa cổ
sinh thường nông cạn và nghèo nàn mà thảo mộc chỉ gồm những cây thấp như cây
sim, cây chủi rành, cây móc.
Các
phù-sa cổ sinh gồm nhiều đất Podzolic vàng đỏ rất nông cạn có mẫu thạch gồm nhiều
phiến thạch.
Vì
đồng bằng có một lưu vực sông ngòi quá hẹp và dãy núi Trường-Sơn gần biển nên rất
dễ bị lụt. Nạn lụt lại còn nguy hiểm thêm vì núi non ở đây đã bị đốn phá làm củi
từ hàng thế kỷ nay nên rừng rú bị hư hại do ảnh hưởng của người rất nhiều. Ngày
nay, với sự xử dụng dầu lửa để nấu ăn, vấn đề dùng củi nấu ăn ở đồng bằng này
ít gay cấn hơn, nhưng dù sao rừng rú cũng đã bị hư hại quá độ rồi.
Do
đó, nên có chương trình trồng cây gây rừng ở đây, bằng những sắc mộc thích hợp. Trên đất régosol dọc theo biển
từ Cửa Việt vào đến Cầu Hai gần đèo Hải Vân, thì trồng dương liễu để ổn định đồi
cát. Giữa các hàng cây rừng nhân tạo, có một số thảm cỏ mọc và có thể dùng để
nuôi bò thịt.
Tại
những vùng núi nên lập những đập nước để vừa giữ nước cho các vùng hạ lưu ít bị
lụt, vừa sản xuất điện để điện khí hóa nông thôn cho làng mạc và ngoài ra để vừa
có thể dẫn thủy cho ruộng lúa vì tại đồng bằng Trị Thiên, có nhiều vùng chỉ làm
được một vụ lúa tháng 3 vì không có nước tưới làm một vụ lúa tháng 8. Rất nhiều
loại cây ăn trái trong Nam như chôm chôm, bơ, sầu riêng chưa được trồng tại
đây.
Các
cây kỹ nghệ như trà, café, tiêu có thể khuếch trương và cải thiện tại vùng Của
và Khe Sanh có đất đỏ tương tự như đất vùng Cao Nguyên Trung Phần.
Ở
các đồng bằng phù sa giữa núi và đồi cát thì phải tăng sản lượng lúa làm 2 vụ
lúa sau khi tăng cường hệ thống thủy nông tăng gia xử dụng phân hóa học và bảo
vệ mùa màng, dùng lúa Than Nông.
Tất
cả các biện pháp này nhằm giúp cho đồng bằng Trị-Thiên tự túc càng nhiều càng tốt
về phương diện lúa gạo vì đồng bằng này quá xa miền Châu Thổ Cửu Long nên sự tiếp
tế lúa gạo đòi hỏi nhiều phương tiện chuyên chở.
2.
Đồng Bằng Nam-Tín-Ngãi-Định.
Đồng
bằng này nằm phía Nam đèo Hải Vân và tương đối rộng hơn đồng bằng Trị-Thiên vì
dãy Trường Sơn ở xa biển hơn.
Đồng
bằng Nam-Tín tạo nên bởi các sông Cẩm Lệ, sông Vinh Điện, sông Thu Nồn và các
sông nhỏ như sông Tam Kỳ, Sông Lý Ly.
Đồng
bằng Quảng Ngãi gồm những đồng bằng nhỏ, từ Bắc đến Nam có thể phân biệt đồng bằng
của sông Trà Bồng, sông Trà Khúc chảy qua Quảng Ngãi và sông Vệ. Đặc biệt ở Quảng
Ngãi, có thể nhận thấy nhiều diện tích đất đai được dân thủy nhờ các bánh xe
đưa nước từ sông Trà Khúc vào ruộng.
Bồng
Sơn có sông Lai Giang chảy qua. Sông nầy do sông Kim Sơn yà sông An Lão họp lại.
Dãy Chóp Chai ngăn cách đồng bằng Bồng Sơn với đồng bằng Vạn Phú phía Nam. Rồi
đến đồng bằng Phú Mỹ có sông La Xiêm Giang chảy vào đầm Nước Ngọt gần biển. Đồng
bằng Bình Định thực sự do nhiều sông bồi đắp, nhất là dòng sông Hà giao phát
nguyên từ dãy núi An Khê và chảy vào cửa biển Thị Nại (còn gọi là sông Côn
Giang) sau khi chia thành nhiều nhánh nhỏ khi tới vùng đồng bằng và dòng sông
Hà Thanh phát nguyên từ vùng Vân Canh ở phía Nam cũng chảy vào cửa Thị Nại.
Vũ-lượng
có phần ít hơn đồng bằng Trị-Thiên, vì hằng năm vũ lượng các vùng này chỉ quảng
2.000mm, so với 5000mm tại đồng bằng Trị-Thiên.
Ngoài
những đồi cát trắng rộng mênh mông ở vùng Quận Thăng Bình tại Quảng Tín hay các
đồi cát dọc duyên hải ở Bình Định, những đất phù sa ven sông dọc sông Thu Bồn ở
Quảng Nam sông Tam Kỳ ở Quảng Tín, sông Trà Bồng, Trà Khúc ở Quảng Ngãi, sông Lại Xiêm Giang ở Bồng Sơn, sông Côn ở
Bình Định, ta còn gặp những đất podzolic vàng đỏ vùng cận sơn thuộc quận Đức Dục,
quận Tiên Phước, quận Hiệp Đức, quận Hậu Đức, những đất podzolic xám tại quận
Phù Cát (Bình Định) và dĩ nhiên là những đất núi non.
Triển vọng và vấn đề xử dụng đất
đai:
a)
Tại vùng Bồng Sơn, Tam Quan, hiện có nhiều rừng dừa. Dừa ở đây nhiều đến nỗi có
câu ca dao:
Công đâu công uổng công thừa
Công đâu múc nước tưới dừa Tam Quan
Công đâu múc nước tưới dừa Tam Quan
Như
vậy có nghĩa là các loại đất ven biển rất thích nghi cho công tác trồng dừa.
Trong
tương lai, có thể khuếch trương thêm ngành trồng dừa nhất là trên đất cát có 1
thủy cấp không sâu lắm. Cơm dừa có thể ép dầu làm xà phòng và bánh dầu dừa dùng
để trộn làm thực phẩm gia súc.
b)
Đất cát trắng dọc duyên hải có một thủy cấp sâu thì nên trồng dương liễu để ổn
định cát bay.
c)
Hiện đã có một nhà máy đường tại Quảng Ngãi.
Ta
nên nhớ là với 5 nhà máy đường Quảng Ngãi, Bình Dương và Hiệp Hòa. Số lượng đường
sản xuất ra vẫn không đủ cho nhu cầu trong xứ vì với dự trù sản xuất 60 000T đường
chỉ thỏa mãn được quảng 1/5 nhu cầu đường, cho nên có thể khuếch trương trồng
thêm mía, đặc biệt là tại đồng bằng Bình Định. Đồng bằng Bình Định có sông Công
và các phụ lưu chảy qua và trong tương lai, một dự án làm các đập ở phía thượng
lưu sông này hoặc tại sông Ba ở An Khê giúp có thêm nước để tưới mía. Do đó, vấn
đề trồng mía nên được để ý không những bởi các cơ quan nông nghiệp mà còn bởi
các công ty đường trong tương lai nữa,
Thực
ra ở Bình Định cũng có trồng mía nhưng chỉ có các lò đường ép theo lối tiểu
công nghệ mà thôi.
d)
Đậu phụng hiện chiếm một diện tích khá nhiều ở các đồng bằng Nam-Tín, Ngãi-Định.
● Quảng
Nam 4,000 (thống kê nông nghiệp 1967)
● Quảng
Tín 3.200 ha
● Quảng
Ngãi 2.800 ha
● Bình
Định 5.000 ha
Tổng
cộng là 15.000 ha nghĩa là riêng 4 tỉnh này đã chiếm đến 40% diện tích toàn quốc
(25.000 ha), đủ thấy khả năng đất đai trong việc trồng đậu phụng ở các vùng
này. Tuy trồng nhiều nhưng không có được một nhà máy ép dầu vì toàn là ép dầu
theo lối tiểu công nghệ vừa tốn công, vừa không trích được nhiều dầu. Vậy tại
sao không nghĩ đến việc thiết lập một nhà máy ép dầu trong tương lai ở các vùng
này? Thay vì chỉ tập trung tại vùng Sài Gòn? Phối sản của dầu đậu phụng là bánh
dầu có thể dùng để biến chế ra tàu vị yểu hay làm thực phẩm gia súc
e)
Các vùng đồi núi Cận Sơn của các quận Hiệp Đức, Hậu Đức, Tiên Phước, Trà Bồng,
Nghĩa Hành có thể tăng thêm giá trị nên trồng quế là một sản phẩm vừa có thể xuất
cảng được, vừa trùng tu lại đất đỡ bị soi mòn vì rừng quế che chở đất đai chống
các tác nhân xâm thực.
3.
Đồng bằng Yên-Hòa (Phú Yên và Khánh Hòa)
Phía
Nam Qui Nhơn các đồng bằng tương đối hẹp hơn vì có nhiều rặng núi đâm ra sát bờ
biển. Đường quốc lộ số 1 phải xuyên qua những đèo như đèo Cù Mồng, đèo Cả, đèo
Rọ Tượng, đèo Rù Rì
Đồng
bằng Phú Yên gồm hai đồng bằng chính: phía Bắc là đồng bằng Tuy An do sông Cái
chảy qua, đó chỉ là một đồng bằng nhỏ, và phía Nam là đồng bằng Tuy Hòa do sông
Ba bồi đắp. Sông Ba là một sông phát nguyên từ vùng Thượng Kontum sau khi chảy
về An Khê và Cheo Reo thì chảy về Tuy Hòa. Nhờ Đập Đồng Cam ở gần Cung Sơn, nên
có lối 18.000 ha ruộng có thể dẫn thủy được. Ngoài những vùng đất phẳng lì của
vùng đồng bằng, còn có nhiều đồi núi, có nhiều đá basalte sinh ra một loại đất
đen ở vùng sông Cầu. Tại miền Cung Sơn có cao nguyên Tân Hội - Trà Khê là một
cao nguyên tạo nên bởi đá basalte, sinh ra nhiều đất đen.
Mũi
Varella ngăn cách hoàn toàn đồng bằng Phú Yên với đồng bằng Khánh Hòa. Một vài
đồng bằng nhỏ như đông bằng Vạn Giả chạy dài giữa biển và núi rồi đến đồng bằng
Ninh Hòa ở đây nhiều sông khi tới gần biển, chan hòa lẫn lộn với nhau tạo thành
những đầm nước mặn, ở đây có nhiều rừng sát.
Đồng
bằng Khánh Hòa thực sự tương đối nhỏ hơn đồng bằng Tuy Hòa, rồi sau đó có một
vài vùng ruộng thuộc đồng bằng Ba Ngòi nhỏ và khô khan, báo trước cho vùng đồng
bằng Phan Rang - Phan Thiết.
Đồng
bằng Phú Yên có đất đai rất màu mỡ. Có thể quả quyết là trong tất cả các đồng bằng
miền Trung ở Nam Việt Nam, chỉ có đồng bằng này là có đất đai phì nhiêu nhất
(có thể so với đồng bằng Thanh Hóa ở miền Bắc).
Thực
vậy, đồng bằng Tuy Hòa có dòng sông Ba chảy qua mà dòng sông này có lưu vực vừa
rộng, lại vừa chảy qua các đồi núi nhiều đá, huyền vũ ở phía thượng lưu nên đất
miền hạ lưu nhiều thành phần mịn lại vừa nhiều dưỡng liệu nhất là nhiều K.
Ngoài
lúa, đất đai rất thích hợp cho việc trồng mía và nếu một nhà máy đường được thiết
lập tại đây như có dự định trước kia, vấn đề khả năng trồng mía tại đây không
có gì là khó khăn vì đã có nước tưới nhờ đập Đồng Cam.
Các
đồi núi cận sơn như vùng Cung Sơn - Tuy Bình - Trà Khê có nhiều đồng cỏ thiên
nhiên nên có thể xử-dụng vào dự án phát triển nuôi bò.
Các
đất cao màu đen phía Nam vùng Tuy An do đá basalte sinh ra có thể trồng hoa màu
phụ, rau cải, cây ăn trái.
Đồng
bằng Khánh Hòa gồm có đất phù sa dọc sông Cái ở Nha Trang và đất cao nhiều cát ở
vùng Ba Ngòi - Cam Ranh. Khả năng trồng xoài trên đất cao vùng Ba Ngòi và nhất
là trồng dừa ven song và đất ven biển có thể nên phát triển.
Khả
năng trồng thuốc lá cũng khá lớn tại cả hai đồng bằng Yên-Hòa. Thuốc lá đen và
thuốc lá nâu đều có thể trồng được trên đất phù sa ven sông dễ thoát thủy
4)
Đồng bằng Ninh Thuận - Bình Thuận
Đặc
điểm của hai đồng bằng này là có một khí hậu rất khô khan ảnh hưởng đến tính chất
và hợp trạng của đất đai.
Ở
Ninh Thuận có đồng bằng Karom và đồng bằng Phan Rang rất phì nhiêu nhờ được đất
tốt và lại có nước dẫn thủy nhờ đập Nha Trinh trên sông Kinh Dinh.
Ở
Bình Thuận có sông Lòng Sông tạo nên đồng bằng Tuy Phong ở phía Nam suối Vĩnh Hảo,
sông Lũy chảy ra Phan Rí. Cửa tạo thành đồng bằng Phan Rí cùng với các đồng bằng
Phan Rí cùng với các đồng bằng phụ thuộc như sông Mao, và cuối cùng là đồng bằng
Phan Thiết do sông Cái chảy qua.
Ngoài
những phù sa đã được canh tác thành ruộng lúa hoa màu, người ta chỉ thấy toàn
là những đất nhiều cát rất khô khan, mà thảo mộc là một rừng thưa có nhiều tại
vùng Phan Thiết, Phan Rang hay là một thảo nguyên gồm nhiều cây có gai, chống
chõi được với sự khô khan. Đồng bằng Phan Thiết cũng có những loại cát đỏ như tại
Lương Sơn, cát trắng dọc duyên hải và cát vàng (như thơ của Nguyễn Du: Cát vàng còn nọ bụi hồng dặm kia).
Đất
đai gồm từ ngoài biển vào nội địa:
● Đất
Régosol hoặc trên cát trắng hoặc trên cát đỏ. Tại các vùng cát trắng gần Phan
Rang như tại các vùng ấp Vân Sơn, nông dân bón phân chuồng rất nhiều và tưới nước
để trồng rau cải.
● Đất
phù sa do các sông Kinh Dinh, sông Lũy, sông Mao, Sông Lòng sông bồi đắp. Có thể
trồng lúa, thuốc lá, cây ăn trái, hoa màu-phụ.
● Đất
nâu không vôi (non-calci brown soils) là những đất có thể sâu như ở giữa quận
Thiện Giáo và Phan Lý Chàm hoặc có thể cạn đầy rẫy những đá như giữa vùng Krong
Pha và Tân Mỹ ở dọc đường Phan Rang - Đà Lạt.
● Đất
núi có nhiều dãy núi trọc ở vùng này và đất núi gồ ghề, sự xử dụng chỉ có tánh
cách hướng lâm.
Triển
vọng và vấn đề xử dụng đất đai
a)
Trong tất cả các đồng bằng miền Trung, chỉ vùng đồng bằng Phan Rang, Phan Thiết
là còn có đất bỏ hoang chưa khai thác vì nhiều lý do khô khan, chưa có phương
tiện dẫn thủy. Cụ thể là:
■ Vùng
đất cao giữa phía Bắc quận Thiện Giáo và vùng Phan Lý Chàm (Bình Thuận).
■ Vùng
đất phía Nam Văn Lâm ở Phan Rang đến gần Vĩnh Hảo.
■ Vùng
đất cao ở Hoài Trung, quận An Phước (Ninh Thuận).
■ Vùng
đất giữa Ba Tháp và Karom (Ninh Thuận) là các vùng đất tốt nhưng vì thiếu nước
nên bỏ hoang.
b)
Vùng này nếu có các công trình thủy nông thích nghi, có thể đa loại hóa với những
loại hoa màu như: nho, vì nho cần đất thịt pha sét, có nhiều Ca và Mg với khí-hậu
khô khan, sâu bịnh ít hơn.
● Mía
vì mía thí nghiệm tại Nha Hố (Ninh Thuận) tỏ ra có có nhiều triển vọng tốt đẹp,
● Bông
vải vì trước kia (năm 1958, 1959), chuyên viên Pháp cũng đã thử nhiều giống
bông vải tại vùng Phan Thiết - Phan Rang và cũng đã nhận thấy vùng này rất
thích hợp với bông vải.
● Các
loại cây ăn trái như cam, quít cũng dễ thích nghi vì muốn có cam ngọt, thì
ngoài giống cam, đất đai cũng phải có nhiều baz như Ca và K.
● Hành
tây, tỏi là những rau cải cần pH cao.
c)
Các đồi cát gần biển chiếm một diện tích lớn tại đồng bằng Bình Thuận và vì nhiều
chỗ là cát trọc, không cây cối nên dễ bị xâm thực và nạn cát bay đã làm cho cát
trắng xâm nhập mạnh vào nội địa như vùng phía Nam Vĩnh Hảo đến Phan Rí Cửa. Do
đó phải có các dự án trồng cây dương liễu để bảo tồn tài nguyên thiên nhiên vì
nếu không, nạn xâm thực càng nhiều.
B. Miền Cao Nguyên Trung Việt
Dãy
Trường Sơn chạy dài từ Bắc đến Nam phân chia vùng Cao Nguyên Trung Phần và
Trung Phần. Dãy núi nầy rất dốc về phía Đông vì gần biển, còn về phía Tây nó
thoai thoải để tạo nên nhiều cao nguyên như Pleiku, Cao Nguyên Darlac, Cao
Nguyên Langbian, Cao Nguyên Quảng Đức và Lâm Đồng. Ngoài những cao nguyên còn
có những đồng bằng Sông Ba ở Cheo Reo, đồng bằng Lạc Thiện ở Ban Mê Thuột và đồng
bằng Sông Bla ở Kontum là 3 cái lớn nhất.
1)
Cao Nguyên Kontum:
Cao
Nguyên Kontum nằm phía Bắc Cao Nguyên Pleiku và cao độ quãng 400m.
-
2 dòng sông chính là sông Dak Poko chảy
theo hướng Bắc Nam để rồi chảy nhập vào sông Sesan qua Stung Treng ở Cambodia.
-
Sông Bla chảy hướng Đông Tây qua thành phố Kontum và nhập vào sông Dak Poko.
Kontum là một vùng ở cao mgụyên mà người Việt Nam đến định cư từ lâu nhất (từ đời
vua Tự Đức). Đồng bằng sông Pla ở Kontum có đất phù sa có thể trồng lúa, bắp, đậu
phụng hoặc cây ăn trái trên đất cao ít bị lụt.
Ngoài
đất phù sa, tại Cao Nguyên Kontum có đất podzalic vàng đỏ như tại vùng DakTo,
Tri Đạo, Tân Cảnh có thể khai khẩn để trồng trọt hoa màu. Các loại đất này
tương đối không gồ ghề và nằm dọc 2 bên đường từ Kontum đi DakTo và từ DakTo
qua biên giới Wit Lao,
Ngoài
ra phần lớn đất đai còn lại, chỗ là núi non trùng trùng điệp điệp, nhất là phía
Bắc Đông Bắc là dãy núi Trường Sơn ngăn cách vùng Cao Nguyên với đồng bằng
Nam-Tín-Ngãi.
2)
Cao Nguyên Pleiku:
Có
cao-độ quãng 800m xung-quanh tỉnh lỵ
Pleiku và hạ thấp xuống 400m ở phía Tây (vùng quận Lệ Thanh gần biên giới
Cambodia). Cao nguyên nầy hiện còn một vài di tích hỏa diệm sơn cũ như núi
Chudron ở phía Nam Pleiku chừng 12km. Ngoài các núi trên, có cả những hồ miệng
hỏa diệm sơn (lacs de cratère) như hồ La Bang và Tonueng Prong và các trũng đất
thấp hình hơi tròn mà người GiaRao gọi là (Donau).
Cao
nguyên nầy thông thương với đồng bằng Bình Định nhờ một vài đèo như đèo Mang
Yang 850m và đèo An Khê, và với đồng bằng Tuy Hòa nhờ thung lũng Cheo Reo.
Cao-Nguyên
Pleiku gồm những loại đất đỏ có mức phì nhiêu kém hơn những loại đất đỏ Cao
Nguyên Banmethuot vì dòng sông Ba chảy gần đó đã đào sâu địa diện nên sự trực
di các cation như Ca, Mg rất dễ dàng, pH thấp quãng 4, 5.
Thảo
mộc là một đồng cỏ thấp vì nạn làm rầy quá nhiều khiến thảo mộc không kịp tái tạo.
Đất đỏ Cao Nguyên Pleiku, đặc biệt là vùng xung quanh thị xã Pleiku xấu hơn đất
đỏ ở phía Tây Cao Nguyên này gần biên giới Việt-Miên.
Đất
đỏ phía Tây Cao Nguyên Pleiku (vùng quận Lệ Thanh) là vùng có nhiều địa điểm
dinh điền xưa kia, sau này vì tình hình an ninh nên bị bỏ phế. Khi hòa bình vãn
hồi, vùng này có thể phục hồi lại nhanh chóng bằng cách định cư lập ấp vì đất rất
tốt, có thể trồng trà, cây ăn trái hoặc các hoa màu như thuốc lá, khoai lang. Còn
vùng quanh thị xã Pleiku cũng có thể trồng các hoa màu như trên, nhưng phải bón
phân chuồng và phân hóa học nhiều hơn.
Cao
Nguyên Pleiku có đất đai ít màu mỡ hơn đất Cao Nguyên Lâm Đồng vì mùa nắng ở
vùng Pleiku gắt hơn. Tuy nhiên với phân hóa học vẫn có thể trồng trọt được nhiều
loại hoa màu nhưng nên trồng cây đa niên như cây ăn trái, cây trà vì trồng hoa
màu hằng niên, đất dễ bị soi mòn. Trồng trà thì cần lựa vùng nào có thể xây các
đập nhỏ trên suối để có thể bơm nước vào mùa nắng.
3)
Cao Nguyên An Khê
Cao
nguyên này có cao độ quãng 450m và một cách tổng quát, đó là một
vùng đất xung quanh An Khê nằm giữa 2 đèo: đèo Mang ở phía Tây, đèo An Khê (tức
đèo Mang Yang) phía Đông, và phía Bắc là vùng Kannack cách An Khê chừng vài chục
cây số và phía Nam giáp với thung lũng sông Ba ở Cheo Reo.
Cao
nguyên này có nhiều đất đai đã được người Việt Nam canh tác từ lâu thành ruộng
lúa hoặc vườn cây ăn trái. Về phía Tây cao nguyên nầy là vùng đất đỏ của Cao
Nguyên Pleiku.
Sông
Ba chảy qua Cao Nguyên An Khê theo hướng Bắc-Nam và sau khi đến Cheo Reo thì chảy
ra Nam Hải. Dòng sông Ba ở ngay An Khê lởm-chởm những đá.
Tuy
vùng An Khê này thuộc tỉnh Bình Định về phương diện hành chánh, nhưng căn cứ
vào hình thể và cao độ thì cao nguyên này thuộc vùng Cao Nguyên Trung Phần chứ
không thể cho vào đồng bằng duyên hải Trung Việt.
Mùa
mưa ở Cao Nguyên An-Khê trễ hơn ở Pleiku nhưng sớm hơn ở Qui Nhơn. Đất đai một
phần là đất phù sa của Sông Ba, nhưng phần lớn thuộc nhóm “đất nâu không vôi” có pH cao, nhiều dưỡng liệu.
Đất
đai khả canh tại đây có thể gặp đọc đường từ An Khê đi Kannack phía Bắc An Khê.
Đất thích hợp với thuốc lá, hoa màu phụ như bắp, đậu phụng, đậu nành hoặc cây
ăn trái như cam quít xoài, nói khác đi, có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp.
4)
Cao Nguyên Darlac:
Cao
Nguyên nầy có cao độ chừng 400m và địa
diện tương đối ít gồ ghề hơn vùng Pleiku. Cao Nguyên Darlac có những phần đất
có cao độ lối 800m về phía Đông Bắc, cần chỗ tiếp giáp với dãy núi Chu Dịu và
cao độ hạ xuống từ từ về phía Nam và phía Tây, 300m phía Tây Nam ở Bandon, 400m
phía nam đồng bằng Lạc Thiện. Cao Nguyên Darlac có nhiều dòng suối chảy về sông
Srépok, sông Krong Anna phía Nam. Và sông Ba (Cheo-Reo) phía Đông. Tuy nhiên phần
lớn suối đều chảy về phía Nam và phía Đông theo đúng độ dốc tổng quát của vùng
nầy.
Một
cách tổng quát, về phía Tây Cao Nguyên Darlac, sông suối chảy theo hướng Đông
Tây cho nên ta có thể thấy nhiều ngọn đồi rất dài xếp đặt song song theo chiều
Đông Tây, còn về phía Đông Cao Nguyên có sông Krong Buk là sông lớn chạy theo
hướng Bắc Nam.
Cao-Nguyên
Darlac gồm những loại đất đỏ hay đất đen do đá huyền vũ tạo nên, một vài đồn điền
cao su như CHPI, đồn điền Meval, đồn điền Buôn Hô đã được thiết lập tại đây từ
lâu. Mật độ các làng Thượng khá lớn ở Cao Nguyên Banmêthuột và vào các năm
1960-1962, cũng có nhiều địa điểm dinh điền như Đạt Hiếu, Quảng Nhiêu, Buôn Hô
và các địa điểm dọc quốc lộ Banmêthuột đi Nha Trang,
Đất
đai cao nguyên này thích hợp với cao su, café bơ, xoài. Mùa nắng là một cưỡng
chế trong việc phát triển nông nghiệp vì thủy cấp cao nguyên này rất sâu và các
suối thường ít hoặc có một lưu vực nhỏ nên không đủ nước tưới cho hoa màu vào
mùa nắng.
Đất
đỏ cũng có thể trồng hoa màu phụ nhưng phải bón phân hóa học rất nhiều vì các
chất dưỡng liệu ở các lớp mặt dễ bị trôi xuống sâu mà hoa màu phụ thì chỉ có một
hệ thống rễ cạn nên không thể hút các dưỡng liệu ở dưới sâu được.
5)
Cao Nguyên M’ Drak (Khánh Dương)
Cao
nguyên này tuy ở phía Đông Cao Nguyên Darlac, nhưng có nhiều sắc thái độc đáo
khiến nó khác hẳn với vùng Darlac.
Về
phía Bắc Cao Nguyên M'Drak là đồng bằng sông Ba, phía Nam nó có một dãy núi
ngăn cách với đồng bằng sông Krong Pach và Lạc Thiện. Phía Đông, cao Nguyên
M'Drak ngự trị một cách rõ rệt trên đồng bằng Ninh Hòa bằng những núi rất dốc.
Cao nguyên này gồm nhiều loại đá hoa cương, đá mica-schiste.
Ngoài
ra cũng có những loại đá basalte tạo ra đất đỏ, nhất là dọc trên đường từ
M'Drak đi Tuy Bình về phía Bắc, tuy nhiên diện tích đất đỏ ở đây không rộng mà
cũng không liên tục như ở vùng Banmêthuột. Đất phù sa dưới những chỗ trũng, đất
tụ ở chân đồi, đất đỏ, đất podzolic làm cho vùng này tương đối có nhiều nét
khác biệt hẳn với sự đồng chất của Cao Nguyên Darlac.
Tuy
Cao Nguyên M'Dark này, về phương-diện hành chánh thuộc tỉnh Khánh Hòa, nhưng
hình thể và cao độ buộc ta phải cho vào vùng Cao Nguyên Trung Phần chứ không thể
cho vào vùng duyên hải Trung Việt được.
Đất
đai ở đây có địa diện tương đối gồ ghề và đây đó có thể gặp nhiều đá hoa cương
nổi trên mặt.
Thảo
mộc thiên nhiên là một đồng cỏ khiến trước đây quãng 1958 đã có một trại nuôi
bò thịt nhưng sau này vì lý do an ninh, trại này giải tán. Vùng này có nhiều
triển vọng phát triển chăn nuôi bò thịt vì có nhiều đồng cỏ xanh quanh năm
6)
Cao Nguyên Quảng Đức (tức vùng Ba Biên Giới)
Cao
nguyên này có địa diện gồ ghề hơn vùng Banmêthuột. Nhiều đồi núi rất dốc ngăn
cách các thung lũng hẹp. Các thung lũng này nằm sâu hơn các vùng đất bằng phẳng
trên cao đến vài trăm mét. Sự xoi mòn ở đây rất mạnh. Độ đốc các triền đồi, khá
lớn (trên 150) nên trên triền đồi, đất đai tương đối trẻ hơn là đất trên cao
hay ở những nơi bằng phẳng.
Thảo
mộc thiên nhiên các vùng đất cao hầu như không có, chỉ là một đồng cỏ lưa thưa
(đồi trọc) và đất đai cũng nhiều sỏi latêrít gần lớp mặt. Trái lại, ở dưới
thung lũng, thảo mộc là một rừng dày. Những đồi trọc như trên có nhiều ở vùng
Ba Biên Giới và còn lan rộng mãi đến vùng Buyam Map ở phía Bắc Phước Long.
Đất
ở cao nguyên này phần lớn là latosol đỏ có nhiều rừng dày. Vì địa thế dốc nhiều
nên sự xoi mòn đất đai cũng mạnh nếu trồng cây hằng niên. Sau này, nếu muốn khuếch
trương ngành sản xuất trà, café thì có lẽ ở Việt Nam, cao nguyên này là thuận lợi
nhất vì cao độ quãng 800m, mưa nhiều
là các điều kiện sinh môi rất thuận tiện cho việc phát triển 2 loại cây đa niên
nói trên.
Tại
vùng Tây Cao Nguyên Quảng Đức gần biên giới Việt Miên có nhiều đồng cỏ khắp
trên những đồi trọc không cây cối. Diện tích các đồi trọc này quảng 20.000 -
25.000 ha, cổ thể dùng vào việc chăn nuôi bò thịt hoặc bò sữa.
7)
Cao Nguyên Lâm Đồng:
Cao
nguyên này chiếm các vùng đất đai ở Blao và Di Linh. Những phần đất phẳng của
cao nguyên này thường khá rộng, rộng hơn vùng Ba Biên Giới, và thung lũng tương
đối nằm rất sâu so với vùng đất trên cao. Các thung lũng thường có hình U,
nghĩa là các đáy thung lũng, gồm nhiều phù sa men suối thường rộng. Tuy nhiên
cũng có một vài nơi thung lũng rất hẹp có hình chữ V ngăn cách bởi các triền dốc
lớn.
Đất
đai gồm phần lớn đất latosol nâu cứng ở một vùng vũ lượng cao nên sự phát triển
trồng trà rất thích hợp.
Diện
tích trà ở cao nguyên hiện nay quãng 10.000 ha và sau này cần trùng tu lại các
vườn trà vì qua nhiều năm chiến cuộc, trà bị bỏ phế không ai chăm sóc, ngoài ra
phải thay thế trà hột bằng trà cành để năng xuất trà cao hơn. Cũng có thể xử dụng
đất đai vào việc phát triển cây ăn trái như bơ, sầu riêng, chôm chôm, nhất là ở
các vùng ven suối.
8)
Cao Nguyên Liên Khàng và Thung Lũng Dran Finnom
Vùng
Cao Nguyên Liên Khàng có gồm có nhiều đất đỏ do đá basalte sinh ra và nhiều
trũng nằm ở một vị trí không sâu lắm đối với vùng đất bình nguyên. Trái lại,
các thung lũng của các sông chính như sông Đa Dung, Đa Nhim thường nằm rất sâu
so với phần đất trên cao. Thung lũng sông Đa Nhim rất hẹp về phía thượng lưu
vùng Dran, trở thành rộng khi sông này chảy vào trũng lớn Dran Finnom là một
làng ở gần Liên Khàng.
Về
phía Tây Nam vùng Cao Nguyên Liên Khàng là vùng Cao Nguyên Cagne mà thảo mộc rất
thưa thớt.
Cao
Nguyên Liên Khàng bao gồm các phần đất ở cao độ 800m và có điểm trọng tâm ở
Tùng Nghĩa là một xã gồm nhiều đồng bào Thái Nùng di cư từ Bắc Việt vào Nam năm
1945. Có thể nói cao nguyên này phía Nam giáp với vùng Di Linh, phía Đông là
vùng giới hạn ở quận Đơn Dương gần đập Đa-Nhim, phía Đông là vùng giới hạn với
đồng bằng Lạc Thiện, về phía Bắc là chân đèo Prenn. Đất đai gồm nhiều loại như
đất phù sa dọc theo sông Đa Nhim ở thung lũng giữa Đơn Dương và Phú Hội, đất đỏ
ở Liên Khàng - Tùng Nghĩa và đất thấp đen ở trũng.
Tất
cả các loại đất trên đều có mức phì nhiêu cao và do đổ có tính cách hướng nông:
● lúa
và rau cải trên đất phù sa.
● cây
ăn trái trên đất đỏ (mận, bơ, chuối, đu đủ, thơm)
Ở
Cao Nguyên Cagne cách phi trường Liên Khàng chừng vài chục cây số phía Nam, có
nhiều đồng cỏ thiên nhiên có thể xử dụng vào việc chăn nuội.
9) Cao Nguyên Dalat:
Ngự
trị trên Cao Nguyên Liên Khàng là Cao Nguyên Dalat nằm ở một cao độ trên 1.200m. Vùng này gồm nhiều
đồi thoai thoải ngăn cách các thung lũng hẹp. Thảo mộc thiên nhiên là một rừng
thông 3 lá.
Đất-đai
có 2 loại đất chính: đất podzolic vàng đỏ ở trên các đồi do sự hủy hoại của đá
phiến thạch có một trắc diện sâu, đất hữu cơ ở dưới các thung lũng.
Ngoài
ra cũng có thể kể đất đỏ (vùng Cam Ly) nhưng diện tích quá ít.
Hầu
hết các nông trại ở quanh thị xã Dalat đều trồng rau cải và loại rau được trồng
nhiều nhất hiện nay là cải bắp. Sự xử dụng đất đai có tính cách rất thâm canh:
phân hữu cơ, phân vô cơ, thuốc sát trùng, sát khuẩn và máy bơm nước được xử dụng
tích cực.
Ngoài
rau cải, cây ăn trái ôn đới như: mận, hồng cũng có thể trồng được tại đây.
Tại
Cao-Nguyên Dalat, có thể lập thêm nhiều đập nước để trữ nước, vừa nuôi cá, vừa
dùn g để bơm nước tưới vào mùa nắng. Các vùng thượng lưu các đập nước thì đừng
nên khai phá rừng vì như vậy hồ nước chẳng bao lâu bị bùn lắng tụ làm hồ cạn
như kinh nghiệm hồ Xuân Hương hiện nay.
10)
Thung lũng sông Ba (Phú Bổn)
Đồng
bằng thung lũng sông Ba có cao độ quãng
160m, và là một thung lũng nằm xen giữa vùng Ca -Nguyên An Khê phía Bắc,
vùng Cao Nguyên Pleiku phía Tây, vùng dãy núi Chu Dju phía Nam, Thung lũng này
chạy dài theo hướng Tây Bắc đến Đông Nam. Đồng bằng nầy khá rộng về phía Bắc
Cheo Reo, nhất là trong khoảng giới hạn bởi sông Ayunh, sông Ba và sông Ia
Pihao
Thung
lũng Sông Ba có hai phong cảnh hình thể chính:
● Đồng
bằng phù-sa cận-đại nằm dọc theo các sông Ba và sông Ayunh. Trong khi dòng sông
Ba chảy rất thẳng vì lưu lượng nước nhiều hơn thì dòng sông Ayunh có nhiều khúc
quẹo (méandre) uốn quanh co.
● Đồng
bằng phù sa cổ sinh nằm trên bậc thềm của các dòng sông nói trên. Đất đai ở đây
nghèo nàn hơn và nhiều cát, có rừng thưa bao phủ.
Trong
các suối chảy vào Sông Ba và sông Ayunh có các suối:
● Ba
Pihao, phụ lưu của sông Ba
● Ea
RơBal, phụ lưu của sông Ba
● Ea
Sol, phụ-lưu của sông Ayunh
● Ea
Yao, phụ lưu của sông Ayunh
là
có nước quanh năm, còn các suối khác thì cạn về mùa nắng hoặc dòng suối đầy những
cát.
Khí
hậu ở đây khô khan vì vũ lượng chỉ có 1.300m hằng năm. Vì vũ lượng khô khan,
nên đất-đai có pH cao, nhiều Ca và Mg. pH đất quảng 6,5. Đất-đai gồm 3 loại đất
chính :
● Đất
phù sa thịt pha sét do sông Ba và các phụ lưu Ea Aytunh, Ea RơBal, Ea Pihao bồi
đắp.
● Đất
régur có nhiều sét trên các phù sa cổ sinh. Đất này cũng có pH cao, nhưng vì
nhiều sét nên đất dính và dẻo vì mùa mưa và cứng chắc vào trời nắng.
● Đất
podzolic xám nhiều cát, khô khan, có thủy cấp khá sâu.
Thung
lũng sông Ba cần nhất là dẫn thủy thì mới có thể phát triển nông sản được vì
mùa nắng gắt, mà mùa mưa bảo lại dễ bị lụt vì là một thung lũng nên nước dòng
sông dâng lên, nước trên núi chảy xuống. Tuy nhiên, các hoa màu đây có thể
thích-hợp:
● Bắp,
đậu phụng, đậu nành, trên các đất phù sa của sông Ba, sông Ba Ayunh.
● Bông
vải có thể trồng được nhưng phải là bông vải trồng về mùa nắng trên đất có thể
dẫn thủy được, vì trồng mùa mưa dễ lụt.
● Thuốc
lá đen hay thuốc lá nâu Virginie
● Lúa
trên đất régur hoặc mía
Ngoài
các hoa màu, đồng bằng Phú Bổn là nơi có thể khuếch trương chăn nuôi theo lối
dã thảo (ranch) nghĩa là thả trâu bò ăn trong những đồng cỏ, trên một diện tích
quy mô vì ở đây có nhiều rừng thưa có cỏ hòa bản mọc dưới rừng.
Chỉ
có 2 địa điểm dinh điền là Quý Đức và Tín Lập có người Việt-Nam ở, còn hầu hết
là đồng bào Thượng. Cần nghiên cứu lập thêm nhiều đập nước ở vùng cao để nước
có thể xuống các phần đất thấp bằng trọng lực thì triển vọng phát triển nông
nghiệp mới lớn vì đồng bằng này quá khô-khan.
11)
Đồng-Bằng Lạc Thiện
Phía
Đông Nam vùng Banmethuot là đồng bằng Lạc Thiện gồm nhiều phù sa men sông Krong
Pach, Krong Anna và phù-sa ngập nước.
Ngoài
ra ở những chỗ đất trũng có đất than bùn nhiều chất htti-co.
Ở
phía Nam đồng bằng Lạc Thiện là đồng bằng Blao Siêng.
Đồng
bằng này gồm nhiều đất phù sa úng thủy và dễ bị lụt về mùa mưa, vì thiếu hệ thống
thoát thủy. Trước đây vào năm 1958-1960, có một vài địa điểm dinh điền tại đồng
bằng Lạc Thiện, sau này vì tình hình an ninh nên các địa điểm này không còn hoạt-đông,
Một khi hòa bình vãn hồi, cần tái lập và đem thêm nông dân vào đây lập nghiệp
vì ở đây đất tốt và còn bỏ hoang nhiều.
Ngoài
lúa, có thể trồng rau cải, mía, hoa màu phụ. Có thể đào hồ nuôi thêm cá để tận
dụng đất đai và ngoài ra lại có thêm nguồn thực phầm nhiều protéin cho nông
dân.
C. Miền Đông Nam Phần
Miền
Đông Nam Phần là một vùng giao tiếp giữa miền Châu Thổ Cửu Long và Cao Nguyên
Trung Phần. Ngoài những đồng bằng phù sa men theo sông Saigon và sông Đồng Nai,
vùng này còn có những phù sa cổ sinh của hai sông trên, cũng là những vùng đất
đỏ nối tiếp vùng cao nguyên.
1)
Vùng Phù sa Cổ Sinh
Vùng
này thường gọi nôm-ma là vùng “Đất Xám”
chiếm rất nhiều diện tích ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hòa, Bình Tuy
và Phước Tuy. Địa-diện vùng này thường bằng phẳng, nhưng có rất nhiều gò mối rải
rác cùng mặt đất. Trong vùng đất xám, có những trũng đất thấp, những trũng này
có thể là những “trũng tù” (dépression fermée) hoặc là những trũng tạo nên bởi
sông suối Các trũng tù thường chỉ ở thấp hơn vùng đất xám. 1-2m, tuy nhiên tiểu
địa hình (microrelief) nầy ảnh hưởng lớn đến hợp trạng của đất đai.
Các
đất xám này là những phù sa của các sông ngòi lắng tụ trong một thời kỳ địa chất
khá xưa (đầu đệ tứ nguyên đại Pléistocène). Sau thời kỳ lắng tụ ấy, có một thời
kỳ soi mòn trong đó các sông ngòi đào sâu thêm những thung lũng. Hiện nay, người
ta nhận thấy lại có một sự lắng tụ mới theo đó thì các thung lũng bị bồi đắp dần
dần bởi các thủy tra phù sa.
Trong
vùng đất xám, người ta dễ gặp ở một độ sâu vài thước những lớp đá latêrit. Lớp latêrit này còn gọi là “đất Biên Hòa”, thường mềm khi ở dưới sâu,
nhưng trở nên rất cứng lúc bị khô.
Đất-đai
ở đây gồm 2 loại chính:
● Đất podzolic xám
nhiều cát pha thịt ở trên mặt, màu xám, có thủy cấp sâu.
● Đất podzolic vàng đỏ
có mức phì nhiêu cao hơn đất podzolic xám và chỉ giới hạn ở các bực thềm thấp gần
sông Saigon.
Đất podzolic xám thích hợp với đậu
phụng vào mùa mưa vì sa cấu cát pha thịt nhưng phải bón thêm phân hóa học và một
ít vôi khi trồng đậu phụng. Vì nước đào quá sâu và lắm chỗ xa nguồn nước sông,
suối nên hiện nay, người ta chỉ giới hạn trồng trọt hoa màu trong những thung
lũng nhỏ giữa các ngọn đồi.
Để
tận dụng đất podzolic xám, nên trồng cao su vì cao su có rễ sâu nên có thể
kháng hạn và có thể hút các dưỡng liệu ở dưới sâu. Có thể khuếch trương diện
tích trồng cao su ở các khu vực sau trên vùng phù sa cổ sinh.
● Tây-Nam
Trång-Bôm:6.000 ha
● Vùng
đất xám giữa An Lộc và Lộc Ninh: 30.000 ha
● Bắc
Tây Ninh: 100.000ha
Đất
podzolic vàng đỏ cũng nên trồng cây đa niên như cây ăn trái, cao su hoặc cây hằng
niên như đậu phụng, mía với điều kiện là phải gần nước tưới.
2)
Vùng Phù sa Cận Sinh
Vùng
phù sa cận sinh nằm dọc các sông ngòi: sông Saigon, sông Đồng Nai, sông Là Ngà.
Đất-đai
thường ẩm ướt nhiều chất hữu cơ. Đồng bằng các vùng này tựu-trung có những tính
chất thông thường của một đồng bằng sông ngòi, nghĩa là đất men theo sông suối
thì tương-đối cao hơn về địa hình, còn xa sông là đất ruộng thấp hơn. Nhiều nơi
ruộng xa sông có những phần đất hữu cơ.
Khả
năng đa loại hóa vùng phù sa cận-sinh này rất lớn vì sông ngòi hầu như rất ít bị
ảnh hưởng của nước mặn trừ phần hạ lưu của sông Đồng Nai và sông Saigon ở gần
Nhà Bè. Đất phù sa men sông Saigon ở Dầu Tiếng (Tây Ninh) ở Thủ Dầu Một (Bình
Dương) là những nơi trồng cây ăn trái có tiếng (chôm chôm, sầu riêng, dâu, bưởi)
hoặc dùng trồng lúa, mía. Gần Búng và Lái-Thiêu, một vài vùng đất phù sa có bị
phèn nhưng nhờ lên líp chất phèn dễ bị trực di trôi đi. Phù sa ven sông La Ngà
còn bỏ hoang nhiều, nhất là phía hữu ngạn và có thể xử dụng vào việc trồng mía,
hoa màu phụ, cây ăn trái và ngư nghiệp (đào ao thả cá). Ở thượng lưu sông Đồng
Nai, cách Ta Lai (km 125 Bắc Định Quán rẽ vào trái chừng 20 km về phía Tây Bắc
có thung lũng Trodate nhiều đất phù sa hoàn toàn hoang vu vì không có đường
giao thông. Trong tương lai, khi có đường sá, có thể định cư nông đân thêm ở
đây vì diện tích vùng Trodate này quảng 6.000 ha.
3)
Vùng Cao Nguyên Bình Phước (Bình Long và Phước Long)
Vùng
Bình Long, nghĩa là vùng Lộc Ninh, Hớn Quản là vùng đất đỏ bao bọc xung quanh bởi
những phù sa đất xám. Trái lại vùng Phước Long toàn là đất đỏ. Cao độ vùng Phước Long chừng 200m.
Cao
nguyên này bắt đầu từ mãi bên Cambodge, phía Bắc sông Bé và tràn về phía Đông
Nam, qua khỏi quốc lộ 14 để sang địa phận tỉnh Bình Dương.
Độ
sâu của các thung lũng đối với địa diện của toàn vùng biến thiên rất nhiều,
nhưng phần lớn các thung lũng đều nằm khá sâu. Các phần đất bằng phẳng của cao
nguyên có một diện tích khá biến thiên: ở phía Nam sông Bé (trục Molère từ
ngoài quốc lộ I4 vào núi Bà Rá) thì các phần đất phẳng có một diện tích tương đối
hẹp còn ở vùng phía Bắc sông Bé, diện tích đất bằng phẳng và rộng hơn.
Ở
những vùng tiếp giáp giữa đất đỏ và đất xám, có nhiều lớp sỏi latêrit hiện ra
trong trắc diện của đất-đai.
Vùng
Cao Nguyên Bình Long - Phước Long có nhiều đất đỏ như Cao Nguyên Xuân Lộc,
nhưng có cao độ lớn hơn vùng Xuân Lộc. Đồn điền cao su chiếm nhiều diện tích ở
quanh tỉnh lỵ Bình Long và vùng Lộc Ninh. Tại Phước Long, cũng có những đồn điền
cao su Đồng Xoài, Phú Riềng, Dakir, Budop. Tại Phước Long cũng có nhiều địa điểm
dinh điền trồng lúa rầy, hoa màu phụ cây kỹ nghệ.
Vùng
Phước Long có nhiều triển vọng khuếch trương nông nghiệp vì đất tốt còn bỏ
hoang rất nhiều - đất đỏ phía Bắc Sông Bé, đất đỏ phía Đông quận lỵ Đôn Luân (Đồng
Xoài cũ), các vùng đất tốt ven quốc lộ 14 lên tới ranh tỉnh Quảng Đức.
Các
hoa màu thích hợp là cây ăn trái, café, cao su nghĩa là những cây đa niên do đó
vấn đề soi mòn đất đai ít nguy hiểm hơn.
Diện-tích
trồng cao su có thể khuếch trương tại Phước Long quãng 500.000 Ha.
4)
Vùng Cao Nguyên Xuân Lộc
Cao
Nguyên Xuân Lộc chiến một vùng đất đỏ nằm trong tỉnh Long Khánh. Cao độ biến-thiên từ 100 đến 200m, vùng
này có địa diện tương đối phẳng chỉ trừ đây đó có điểm một vài ngọn núi (như
núi Chứa Chan). Toàn vùng Cao Nguyên nầy có đá basalte ở lớp dưới sâu, tuy
nhiên cũng có nhiều nơi có đá nầy ở ngay lớp mặt, đặc biệt là vùng phía Bắc Định
Quản. Nhiều suối chảy qua vùng nầy bắt nguồn từ ngay trong cao nguyên nên thường
ít nước về mùa nắng.
Cao
Nguyên Xuân Lộc bao gồm phần lớn là những đất đỏ tại các vùng Gia Kiệm, Gia
Tân, Hưng Lộc ra đến tận vùng giáp ranh với Bình Tuy.
Cao
nguyên này có nhiều đồn điền cao su rất lớn như đồn điền Courtenay, đồn điền
Suzannah cũng như nhiều làng do đồng bào di cư ở - người Việt, người Nùng và có
trồng nhiều chuối, café, cây ăn trái và hoa màu phụ như đậu nành, bắp...
Triển
vọng nông nghiệp của cao nguyên này khá quan trọng vì có nhiều đất tốt lại gần
thủ đô là nơi tiêu thụ nông sản rất mạnh.
Do
đó, việc khuếch trương nông nghiệp sẽ dễ dàng. Đây là một vùng mà sự đa loại
hóa nông nghiệp đã được thực hiện, tuy nhiên cũng có thể ghi thêm, là vùng này
có khả năng trồng thuốc lá thơm (thuốc Virginie) vì thuốc lá thơm cần các nhà
máy sấy bằng hơi nóng mà củi cao su ở đây lại có nhiều để có thể sấy thuốc lá
được.
Tại
Cao Nguyên Xuân Lộc, sau đây là các vùng có thể khuếch trương cao-su được:
● Vùng
Gia Kiệm - Dốc Mơ: 5.000 Ha
● Vùng
Cầm Mỹ - Cầm Đường: 8.000 Ha
● Vùng
Bắc Định Quán: 20 000 Ha
D. Miền Châu Thổ Sông Cửu Long
Châu
thổ Cửu Long là vùng cổ địa hình rất bằng phẳng. Trừ một vài ngọn núi ở vùng Thất
Sơn phía Tây Nam Long Xuyên, còn thì địa diện phẳng lì.
Căn
cứ vào các điều kiện địa hình đất đai và thủy lợi, có thể phân biệt các đơn vị
thiên-nhiên nhỏ sau đây:
1)
Vùng Trung Châu Thổ
Vùng
nầy còn gọi là vùng cựu thổ, gồm các tỉnh Định Tường, Long An, Vĩnh Long, Phong
Dinh và các phần nội địa của các tỉnh Vĩnh Bình, Ba Xuyên, Gò Công, Kiến Hòa là
các tỉnh trọng tâm trong sự sản xuất nông nghiệp tại miền châu thổ. Đất-đai
toàn đất phù sa do sông Tiền và sông Hậu
bồi đắp.
Địa
diện bằng phẳng, chỉ trừ vài giống có đất cao như giống ở Bến Tranh, các giống ở
Trà Vinh và các đất cao ven sông.
Phần
lớn ruộng vùng Trung Châu Thổ Cửu Long có thể làm 2 vụ lúa một năm vì nhờ nước
sông và kinh rạch. Ngoài ra, rau cải, cây ăn trái, chăn nuôi heo, gà, nuôi cá đều
có thể phát triển tại đây.
Tại
vài vùng bị ảnh hưởng của nước mặn về mùa nắng (Gò Công, Kiến Hòa, Ba Xuyên),
hiện nay vì thiếu hệ thống dẫn nước ngọt đến, nên mùa nắng đất đai đều bỏ
hoang. Do đó các dự án Gò Công, Kiến Hòa rất quan trọng để tăng gia sản lượng
nông nghiệp tại đây.
Ngoài
lúa, dừa là một cây kỹ nghệ nên phát triển đặc biệt là trên đất men theo kinh rạch
gần biển ở Gò Công, Trà Vinh, Kiến Hòa. Các loại cây ăn trái như mãng cầu xiêm,
xoài, chôm chôm, sầu riêng đều trồng được.
Nhờ
các phó sản của ngành trồng lúa, ngành chăn nuôi heo có sẵn thực phẩm để phát
triển. Nhờ ruộng lúa, ngành nuôi vịt cũng gặp các điều kiện thuận lợi.
2)
Vùng Chương Thiện - U Minh.
Vùng này gồm nhiều đất vừa acid, vừa nhiều chất
hữu cơ và là vùng giao tiếp giữa đồng bằng phù sa nước ngọt phía Bắc và đồng bằng
phù sa nước mặn ở Cà Mau. U Minh là vùng mà diện tích đất hữu cơ nhiều nhất tại
Nam Việt Nam, có nhiều rừng tràm và chịu ảnh hưởng của nước mặn từ các kinh Cán
Gáo, Kinh Trèm Trẹm chảy đến. Tỷ lệ chất hữu cơ trên lớp mặt có chỗ nhiều hơn
10%.
Vì
lý do an-ninh, nhiều vùng đất còn bỏ hoang.
Hoa
màu có khả năng phát-triển ở đây là khóm, khoai mì, khoai lang, rau cải.
Vùng
Chương Thiện ít có đất hữu cơ, nhưng có nhiều đất phù sa hơi phèn, nhưng vẫn có
thể trồng lúa vào mùa mưa, rau cải, hoa màu phụ vào mùa nắng tại những chỗ có
nước ngọt.
3)
Vùng Duyên Hải Nước Mặn
Miền
này gồm những dãy đất duyên hải bị chi phối bởi nước mặn như các phần đất thuộc
Quận Năm Căn, Quận Đầm Dơi ở An Xuyên, Quận Chá Rai, Quận Vĩnh Lợi ở Bạc Liêu,
Quận Long Toàn, Quận Cầu Ngang ở Vĩnh Bình, Quận Bình Đại, Quận Ba Tri ở Kiến
Hòa.
Đất
đai ở đây là những đất mặn có nước thủy triều lên xuống hàng ngày và nhiều vùng
còn có rừng Sát vì đất còn chưa cố định và gồm nhiều bùn mặn.
Đối
với các phần đất phía trong nội địa hơn, thuộc các tỉnh trên, đất đai tuy cũng
còn bị chi phối bởi nước mặn nhưng đã cố định và nông dân vẫn trồng lúa vào mùa
mưa vì mùa nắng nước mặn trong sông rạch không thể dùng đề tưới nước.
Do
đó, một cưỡng chế quan trọng về việc phát triển nông nghiệp tại đây là vấn đề
thiếu nước ngọt để dẫn thủy. Hiện nay nhiều dự án Thủy Nông Tiếp Nhựt, Ba Tri,
Kiến Hòa, Gò Công đã, đang hay sẽ được thực hiện và phương pháp căn bản là:
● Tạo
ra những đề bao ngạn quanh khu vực chỉnh trang để tránh sự xâm nhập do nước thủy
triều đưa đến.
● Đào
mương để tháo nước mặn ra khỏi trắc diện.
● Dẫn
nước ngọt từ các vùng ở phía thượng lưu đến. Một khi có nước ngọt thì vấn đề
phát triển nông nghiệp trong mùa nắng được dễ dàng và có thể trồng được nhiều
hoa màu y như vùng đồng bằng phù-sa nước ngọt.
4)
Đồng Tháp
Đồng-Tháp
bao gồm phần lớn đất-đai 2 tỉnh Kiến Tường và Kiến Phong và đất đai có phản ứng
rất chua (pH = 5-4) và úng-thủy vì ở một địa-diện thấp.
Đất
phèn về mùa nắng có pH quãng 5; về mùa mưa, vì chất phèn trôi đi xuống sâu nên
pH đất cao hơn (pH = 4-4,5) nhưng pH của nước kinh rạch lại thấp vì chất phèn bị
trôi ra đây và nước sông rất trong vào mùa mưa do sự kết tủa chất Al.
Công
tác chỉnh-trang đầu tiên tại vùng Đồng Tháp là đào kinh để chất phèn trôi khỏi
trắc diện dễ dàng. Công tác đào kinh có nhiều mục đích như hạ bớt thủy cấp, làm
sự trực di các chất độc dễ dàng hơn và sau đó có thể trồng các hoa màu kháng
acid như thơm, khoai mì, rồi sau một vài mùa có thể trồng lúa hay cây kỹ nghệ
có rễ cạn như kináp, bắp.
Các
phương thức khai thác và quản trị đất có thể có nhiều phương pháp:
a) Phương pháp đắp mô rồi lên líp để trồng.
Thoạt
đầu, phải đắp từng mô nhỏ, mỗi mô cao hơn mặt đất chừng 80cm và diện tích mặt
mô chừng 2m2. Mô này cách mô kia quãng 5m để trồng các loại cây trên các mô đó.
Sau
vài năm, đổ thêm đất để cho các mô đất dính liền lại và tiếp tục trồng thêm. Nhờ
vậy, sau cùng ta có một líp đất và mương ở 2 bên. Nhờ líp đất đắp cao nên sự trực
di các chất phèn dễ dàng hơn và nhờ mương nên các chất phèn có thể thoát xuống
các mương chính và ra kinh rạch được.
b)
Phương pháp đê bao ngạn và mương thoát thủy.
Đê
bao ngạn có nhiệm vụ là tránh nước phèn từ các nơi khác chảy vào khu vực định
chỉnh trang. Đất lấy để đắp đê bao ngạn phải lấy từ bên trong chứ không thể lấy
từ bên ngoài vì đất lấy bên trong khu vực định chỉnh trang sẽ được dùng để làm
mương thoát thủy luôn. Mương này vừa dùng để hạ thủy cấp, vừa để thu thập các
chất phèn trong khu vực,
Nông
Xã Cải Thiện Mỹ Thới ở An Giang, Nông Xã Cải Thiện Cần Thơ và Mộc Hóa đã áp dụng
phương pháp này.
Để tháo nước phèn trong mương, người ta:
● Hoặc
xử dụng máy bơm để bơm nước phèn ra kinh rạch hay sông ngòi lúc thủy triều xuống
(nước ròng).
● Hoặc
kử dụng các ống như cây dừa rồng thân để tháo nước trong mương ra kinh bằng trọng
lực.
Phương
pháp sau này tốn kém hơn phương pháp thứ nhất và chỉ nên áp dụng ở các khu vực
dễ bị lụt, còn nếu ở vùng ít lụt (Phong Dinh, Đức Hòa) thì chỉ nên áp dụng
phương pháp thứ nhất cũng đủ.
Dù
sao thì sau khi quản trị mực nước như trên để bớt chất phèn trong đất, pH đất
sau vài năm sẽ tăng lên. Nhưng cũng cần bón thêm phân hóa học để tăng dưỡng liệu
cho hoa màu,
Hoa
màu có thể trồng được sau khi cải thiện là thơm, khoai mì (rất kháng acid) hoặc
trồng lúa trong mùa mưa, rau cải mùa nắng. Về cây ăn trái có thể trồng mãng cầu
xiêm tháp trên cây bình bát hay chuối.
5)
Vùng đất miền Tây Châu Thổ.
Miền
Tây bao gồm đất đai các tỉnh Châu Đốc, An Giang, Kiên Giang và một cách tổng
quát, đó là tứ giác Châu Đốc - Long Xuyên - Rạch Giá - Hà Tiên. Đất ở đây gồm 2
loại chính: đất phù sa và đất phèn.
● Đất
phù sa ở dọc sông Bassac lan đến vùng Cái Sắn, Núi Sập.
● Đất
phèn ở các bưng thấp từ vùng chân núi Thất Sơn đến Hà Tiên lan rộng đến quận
Kiên Lương,
Điều
kiện thủy lợi ở đây rất đặc biệt vì hằng năm, nước bắt đầu dâng lên cao từ 15/7
âm lịch và chỉ rút xuống vào quảng cuối tháng 9 âm lịch, do đó đến nay chỉ trồng
lúa nổi là một loại lúa có thể mọc vươn cao với mực nước.
Lúa
nổi năng xuất kém (1T/Ha), chu kỳ dài (180 ngày) và cũng dễ bị mất mùa vì lụt.
Muốn
cải-thiện nông-nghiệp ở đây, có thể trồng:
● 1
vụ lúa Thần Nông đầu mùa mưa và thu hoạch trước rằm tháng 7 âm lịch (trồng lúa
Thần Nông 5 tháng 4 âm-lịch và thu hoạch 15 tháng 7 âm lịch).
● Để
đất không trồng trọt vào mùa nước dâng cao.
● Trồng
loại dưa hấu 15-10 âm lịch và thu hoạch dưa hấu để bán quảng 25-12 âm lịch.
● Trồng
lại bắp 5-1 âm lịch, thu hoạch 30 tháng 5 âm lịch.
Dĩ
nhiên, cũng còn có thể trồng đậu nành, đậu xanh hay thuốc lá trong mùa nắng.
Tuy nhiên, chỉ có thể thực hiện được sự thâm canh trên nếu có máy bơm để dẫn nước
vào. Hiện nay vùng này thiếu rất nhiều kinh để đưa nước từ sông Bassac vào và một
khi có kinh đem nước vào thì ở 2 bên bờ kinh sự bơm nước rất dễ dàng và sự đa
canh hóa nông nghiệp mới dễ thực hiện.
6)
Miền Núi Thất Sơn
Núi
Thất Sơn gồm các ngọn núi bao quanh vùng Trị Tôn, phía Nam Châu Đốc. Địa diện rất
gồ ghề, đất nông cạn nhiều đá chỉ nên hướng lâm. Trái lại dưới chân núi có những
loại đất ít chất hữu cơ và có đốm rỉ đã khai thác thành ruộng vườn trồng rau, đậu,
hoa màu.
THÁI
CÔNG TỤNG
GIÁM ĐỐC VIỆN KHẢO CỨU
GIÁM ĐỐC VIỆN KHẢO CỨU
No comments:
Post a Comment