Monday, June 29, 2020

ĐI TÌM NGUỒN CỦA SÔNG MEKONG


 Nguyễn Minh Quang
28 tháng 6 năm 2020

Sơ đồ các nguồn được tìm thấy trong thập niên 1990s. [Nguồn: Tamotsu Kakamura]

Phần giới thiệu

Sông Mekong, dài thứ 12th trên thế giới, là con sông dài nhất ở Đông Nam Á, với chiều dài 4.763 km [1].  Nó chảy qua 6 quốc gia Trung Hoa (gọi là Lancang Jiang); Myanmar (gọi là Meguang Myit); Lào và Thái Lan (gọi là Mae Nam Khong); Cambodia (gọi là Tonlé Thum); và Việt Nam (gọi là Cửu Long).  Từ lâu, sông được biết là bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng ở Trung Hoa, nhưng vị trí chính xác thì vẫn còn mơ hồ cho đến ngày hôm nay, mặc dù có nhiều đoàn thám hiểm đã thực hiện việc tìm kiếm từ cuối thế kỷ thứ 19th.

Bài viết nầy tóm lược các cuộc thám hiểm đó để xác định nguồn đích thực của sông Mekong, mà theo định nghĩa của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (U.S. Geological Survey), là nơi xa nhất đo theo dòng chảy từ cửa sông, ở đó, nước bắt đầu chảy.

Thám hiểm của de Rhins năm 1890

Đây là  cuộc tháhiểm đầu tiên để tìm kiếm nguồn của sông Mekong do người Pháp thực hiện, dưới sự hướng dẫn của 2 ông Dutriel de Rhins và Fernand Grenard [2].  Ngày 19 tháng 2 năm 1891, đoàn thám hiểm âm thầm rời Paris để bắt đầu cuộc thám hiểm qua Caucasus, Turkestan, sa mạc Taklimankan, Kunlun và cao nguyên Changtang.  Đầu tháng 3 năm 1894, họ đi qua thượng lưu sông Salween và Dam Chu, một nhánh sông dài nhất của sông Yangtze; ở đó, ông Dutreil de Rhins bị người Khambas ám sát dã man.

Ngày 8 tháng 4 năm 1895, đoàn thám hiểm tiến vào lưu vực sông Mekong từ đèo Zana Lungmug La ở cao độ 16.760 feet (5.108 m).  Họ đi theo Lungmug Chu để xuống Zanag (tên gọi sông Zanaqu hiện nay), một trong những đầu nguồn của nhánh phía tây của sông Mekong.

Các nguồn của Mekong được khám phá. [Ảnh: Pieter Neele]

Thám hiểm của Peissel năm 1994

Cuộc thám hiểm được thực hiện bởi một đoàn thám hiểm hỗn hợp Pháp- Anh gồm có các ông Michel Peissel của Pháp và Jaques Falck và Sebastian Guinness của Anh [2].  Họ đi đến một đầu nguồn khác của Zanaqu, nhánh phía tây của sông Mekong ở khu vực đèo Rup-sa nối liền 2 dãy núi Drug-di và Sag-ri, vào ngày 17 tháng 9 năm 1994, ở tọa độ 93o 52’ E và 33o 16’ N có cao độ 4.975 m.

Thám hiểm của Nakanichi năm 1994

Cuộc thám hiểm được thực hiện bởi một đoàn thám hiếm hỗn hợp Nhật-Hoa, gồm có 6 người Nhật ở Đại học Nông nghiệp Tokyo, dưới sự hướng dẫn của ông Junich Nakanishi và Masayuki Kitamura, và 4 người Trung Hoa của Viện hàn lâm Khoa học Trung Hoa, dưới sự hướng dẫn của ông Jin Chang-xing và Zhou Chang-Jin [2].  Ngày 20 tháng 8 năm 1994 họ bắt đầu đi và đến Zadoi ở cao độ 4.100 m (ngày 25 tháng 8) và Moyun ở cao độ 4.539 m (ngày 25 tháng 8).  Ngày 2 tháng 4, họ đến Ganasongdu, nơi 2 nhánh Zayaqu (nhánh phía bắc) và Zanaqu (nhánh phía tây) gặp nhau.  Họ đo lưu lưu lượng của 2 nhánh và thẩm định Zayaqu là nhánh chánh, vì có lưu lượng cao gấp 5 lần lưu lượng của Zanaqu.  Họ đi từ Ganasongdou đến Lasagongma và đến nguồn của sông Mekong phát xuất từ chân của băng hà ở tọa độ 94o 41’ 37” E và 33o 42’ 41” có cao độ 5.160 m.

Thám hiểm của Liu năm 1999

Đây là một trong hai cuộc thám hiểm do người Trung Hoa thực hiện trong tháng 6 và 7 năm 1999 [2].  Đoàn cầm đầu bởi Tiến sĩ (TS) Liu-Shaochang của Văn phòng Viễn thám, Viện hàn lâm Khoa học Trung Hoa.  TS Liu khảo sát 2 nhánh thượng lưu của Zayaqu ở phía trên Yeyongsongdu: một là Gaodepu đi đến Jifu Shan và một là Gaoshanxigu đi đến Lasagongma.  Dựa theo chiều dài và chiều dòng chảy của 2 nhánh nầy, ông kết luận đầu nguồn của Gaodepu ở Jifu Shan là nguồn của Mekong ở tọa độ 94o 41’ 12” E và 33o 45’ 35” N có cao độ 5.552 m.

Thám hiểm của Dexiang năm 1999

Nguồn của sông Mekong. [Ảnh: Panoramio]

Đoàn thám hiểm thứ hai nầy gồm các thành viên từ Ủy ban Khảo sát Tổng hợp Tài nguyên, Viện hàn lâm Khoa học Trung Hoa được Nhóm Doanh nghiệp Dexiang ở Tianjin bảo trợ [2].  Họ sử dụng các dụng cụ tối tân nhất để đo đạc, thí dụ như GPS, GIS, SRS và ảnh vệ tinh TM.  Họ đo lưu lượng và chiều dài của 2 nhánh Zayaqu và Zanaqu: 119.0 m3/sec và 97.83 km so với 35.1 m3/sec và 92.96 km.  Từ chiều dài và lưu lượng, họ xác định Zayaqu là phụ lưu chánh.  Khi đến Yeyongsongdou, họ lại đo lưu lượng và chiều dài của 2 nhánh Gaodepu đến Jifu Shan và Gaoshanxigu đến Guozongmucha Shan: 9.55 m3/sec và 22.59 km so với 7.94 m3/sec và 21.5 km.  Từ chiều dài và lưu lượng, họ xác định Gaoshanxigu là nhánh chánh đi đến nguồn của Mekong (ngược với kết luận của TS Liu).  Họ xác định nguồn của Mekong trên Lasagongma phát xuất từ chân của băng hà ở tọa độ 94o 41’ 44” E và 33o 42’ 31” N có cao độ 5.224 m.

Thám hiểm của Wong năm 2007

Đoàn thám hiểm nầy gồm có các ông Wong How Man của Hiệp hội Nghiên cứu và Thám hiểm Trung Hoa (China Exploration and Research Society (CERS)); TS Bill Bleisch, Giám đốc Khoa học của CERS, ông Martin Ruzek cựu nhân viên của NASA là Khoa học gia Hệ thống Địa cầu của CERS, và các nhà làm phim Chris Dickerson của Anh và Wang Chih Hung của Đài Loan [3].  Họ đi từ Zadoi bằng xe rồi bằng ngựa đến nguồn của Mekong vào ngày 13 tháng 5 năm 2007, bên trên chân của băng hà khoảng 20 m.  Nơi nầy có tọa độ 94o 41’ 45.4 E và 33o 42’ 38.8 N ở cao độ 5.175 m.  Họ đào một hố nhỏ xuyên qua lớp băng đến dòng nước chảy ở phía dưới.  Họ lấy mẫu nước để phân tích và uống tại chỗ để nhớ đến câu ngụ ngôn: “Uống nước nhớ nguồn.”

Ông Wong How Man đang uống nước ở nguồn Mekong. [Ảnh: Wong How Man]

Thám hiểm của Neele năm 2013

Đoàn thám hiểm nầy gồm có ông Pieter Neele, người Holland, và ông Luciano Lepre, người Switzerland [4].  Ngày 12 tháng 7 năm 2013, họ khởi hành từ trạm dừng ở giữa Gaodepu để đi đến nguồn ở Jifu Shan, theo kết quả của TS Liu.  Nhưng khi đến nơi, họ nhận ra rằng Gaodepu có 2 nhánh đều bắt nguồn từ sườn núi kế cận Jifu Shan về phía tây, và nằm bên trong lưu vực Mekong.  TS Liu xác định đầu nguồn của nhánh thấp hơn là nguồn của Mekong; nhưng họ khám phá ra rằng, mặc dù nhỏ hơn, nhưng nhánh trên cao dài hơn.  Nguồn của nhánh cao hơn nầy, nằm dưới chân băng hà ở gần đỉnh núi ở tọa độ 94o 40.562’ E và 33o 45.677’ N có cao độ 5.374 m.  Họ cho rằng đây là nguồn xa nhất và cao nhất.  Điều nầy không đúng, vì nguồn do TS Liu khám phá có cao độ 5.552 m.

Nguồn do đoàn thám hiểm Neele xác định (E), 
nằm trên sườn núi không tên ở phía tây của Jifu Shan (phía trái trong hình). 
[Ảnh: Pieter Neele]

Phần kết luận

Từ cuối thế kỷ thứ 19th cho đến nay, có nhiều đoàn thám hiểm của ngoại quốc và Trung Hoa đã đi đến nhiều nơi ở cao nguyên Tây Tạng để tìm kiếm nơi bắt nguồn của sông Mekong, con sông dài nhất ở Đông Nam Á.  Các đoàn thám hiểm nầy đã đến Ganasongdu, nơi sông Mekong chia làm 2 nhánh: một nhánh là Zanaqu đi về phía tây, và nhánh kia là Zayaqu đi về phía bắc.  Chỉ có 2 đoàn thám hiểm của de Rhins và Peissel đến các đầu nguồn trên nhánh Zanaqu.  Các đoàn thám hiểm còn lại đến các đầu nguồn trên nhánh Zayaqu, là nhánh chánh của sông Mekong.  Khi đến Yeyongsongdu, Zayaqu lại chia làm 2 nhánh: một là Gaodepu đi đến Jifu Shan và một là Gaoshanxigu đi đến Lasagongma.  Ở đây, các đoàn thám hiểm thẩm định Gaoshanxigu là nhánh chánh đi đến nguồn của sông Mekong ở Lasagongma:



Vì Lasagongma đi lên dốc núi về hướng nam-đông nam, điểm xa nhất là điểm có cao độ cao nhất và vĩ độ nhỏ nhất.  Do đó, nguồn do đoàn thám hiểm Dexiang khám phá được xem là nguồn đích thực của sông Mekong.

Tài liệu tham khảo

[1]       Mekong River Commission.  18 December 2018.  “MRC Secretariat affirms Mekong basin size, length.”  MRC. http://www.mrcmekong.org/news-and-events/events/mrc-secretariat-affirms-mekong-basin-size-length/
[2]       Tamotsu Nakamura.  August 2001.  “Quest for the Source of the Mekong River – Notes on a Controversial Issue on the True Source-).  The Japanese Alpine Club. http://www.jac.or.jp/english/kiroku/MEKONG.pdf
[3]       Wong How Man.  13 May 2007.  “At the Source of the Mekong.”  China Exploration and Research Society (CERS).  http://www.cers.org.hk/index.php/en/expeditions/mekong-river-source/27-at-the-source-of-the-mekong
[4]       Pieter Neele.  2014.  “A New Source of the Mekong – The discoverers believe they have found the true one at last.”  Japanese Alpine News.  http://www.veraluc.com/pdf/presse/New_Mekong_Source_Lepre_Neele.pdf

.


Monday, June 22, 2020

ỦY HỘI SÔNG MEKONG TRÒN 25 NĂM: NHÌN LUI, NHÌN TỚI


25 years of the Mekong River Commission:
Looking Back, Looking Ahead

Dr Andrea Haefner – Bình Yên Đông lược dịch
International Affairs – 14 April 2020


Tuần vừa qua đánh dấu kỷ niệm lần thứ 25th kể từ khi Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam ký kết Thỏa ước Mekong để phát triển và bảo vệ dòng sông quan trọng nhất Đông Nam Á, sông Mekong hùng vĩ nhưng bất an.  Nó tạo cơ hội để tái xét việc phát triển lịch sử của tổ chức liên chánh phủ, các thách thức then chốt và thành tựu, và nhìn tới trước.

Trên 90% dân số thế giới sông trong quốc gia cùng chia sẻ một lưu vực sông với các quốc gia khác.  Nguồn nước ngọt khan hiếm và các quốc gia khác nhau, các diễn viên và người sử dụng tranh giành nguồn tài nguyên có giới hạn trong các lưu vực sông xuyên biên giới; thường xung đột với nhau.  Sông Mekong ở Đông Nam Á (ĐNA) là sông quan trọng nhất.  Từ ngàn năm nay, nó hỗ trợ sự thăng trầm của các đế quốc và nuôi sống trên 65 triệu người trực tiếp dựa vào nó ở ven sông và dựa vào sông để có lương thực, chỗ ở và việc làm.  Sông sỡ hữu một hệ thống sinh thái cá biệt và đáng kể với một vài đa dạng cao nhất thế giới về cá và ốc, kể cả cá heo Irrawaddy sắp tuyệt chủng và cá tra dầu khổng lồ Mekong.  Trong thập nên qua, tuy nhiên, khu vực Mekong đã đối mặt với những thách thức ngày càng tăng, bao gồm việc gia tăng đều đặn các dự án thủy điện, kết quả của việc phát triển kinh tế nhanh chóng của các quốc gia duyên hà.  Nhu cầu của năng lượng tái tạo rẻ đang gia tăng, trong khi thay đổi khí hậu đang càng ngày càng ảnh hưởng đến khu vực.

Thỏa ước Mekong, với lễ kỷ niệm lần thứ 25th đang được chào mừng, đã thiết lập Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) để phát triển và bảo vệ sông Mekong.  Nó tạo một cơ hội để tái xét việc phát triển lịch sử của tổ chức liên chánh phủ, những thách thức then chốt, và những thành tựu, và nhìn tới trước.  Điều nầy phù hợp với Australia, vì quốc gia nầy đã hỗ trợ MRC cùng với các quốc gia viện trợ khác trong hơn 2 thập niên.

Nhìn lui

Thay thế cho Ủy ban Mekong sau các căng thẳng địa chánh trị và khủng hoảng chánh trị trong khu vực Mekong, nhiệm vụ của MRC chú trọng vào các quyền lợi hỗ tương và đa dụng cho tất cả các quốc gia duyên hà và giảm thiểu ảnh hưởng tai hại của thiên tai và hoạt động của con người.  Trong quá khứ, MRC được xem như thành công trong việc giải quyết xung đột và duy trì hợp tác trong lưu vực.  Nó đóng góp vào sự hợp tác quốc tế và khái niệm an ninh khu vực bằng cách chú trọng vào việc thực hiện một số thủ tục, hướng dẫn, và chiến lược toàn lưu vực để phát triển, quản lý, và bảo vệ sông Mekong.  Thí dụ như Kế hoạch Phát triển Lưu vực và Chiến lược Phát triển Thủy điện.

Được MRC chấp thuận trong năm 2003, Thủ tục Thông báo, Tham vấn Trước, và Thỏa thuận (Procedures for Notification, Prior Consultation, and Agreement (PNPCA)) gồm có 3 tiến trình khác nhau tùy theo loại sông, mùa và mục đích sử dụng.  Đến nay, trên 50 dự án đã được đệ trình lên MRC cho PNPCA, với 5 dự án tham vấn trước, kể cả tiến trình hiện nay cho Dự án Thủy điện Luang Prabang ở bắc Lào.  Trong khi MRC và tiến trình tham vấn tạo một số không gian để chia sẻ hướng dẫn và thảo luận về ảnh hưởng của hạ tầng cơ sở đại qui mô, nó đưa đến kết quả lẫn lộn và làm cho một số nhóm liên hệ thất vọng.  MRC bị chỉ trích là một tổ chức xa cách, không thể tiếp xúc bởi NGOs và cộng đồng và do dự trong việc bảo vệ các quốc gia yếu hơn và các xã hội dễ tổn thương khỏi các ảnh hưởng của phát triển.  Mặc dù nó không thể ảnh hưởng kết quả của tiến trình PNPCA và quyết định của các thành viên duyên hà, Văn phòng MRC chịu trách nhiệm về những vấn đề và thách thức liên quan đến nó.  Kết quả là, MRC được nhiều người xem là thiếu hiệu quả, bị gạt ra ngoài bởi sự bất nhất của các quốc gia thành viên về chủ quyền quốc gia tuyệt đối, và không đáng tin và thiếu thông tin.

Nhìn tới

Điều nầy tạo thêm áp lực trên tổ chức đã bị thử thách bởi một tiến trình tái cấu trúc và cắt giảm ngân sách.  Tiến trình tái cấu trúc của MRC, thường được gọi là duyên hà hóa đang tiếp diễn, đã được phát động trên 1 thập niên trước, dựa trên tái xét năm 2006.  Động lực chánh của tái xét là việc phát triển các đập trên dòng chánh ở hạ lưu Mekong và áp lực gia tăng từ cộng đồng viện trợ cho MRC để gia tăng hiệu năng và hiệu quả.  Các quốc gia viện trợ muốn MRC chuyển sang một cơ cấu tự túc vào năm 2030, nhấn mạnh đến nhu cầu sửa sai các tiến trình cai quản thiếu sót.  Tiến trình địa phương hóa và phân quyền hóa nầy gồm có tái cấu trúc nhân viên, ngân sách, và chương trình đang được tiến hành với một vài thành tựu tiến đến một tổ chức gọn hơn, một CEO duyên hà, cũng như gia tăng phần đóng góp của các quốc gia thành viên từ 10 đến gần 40% của ngân sách nòng cốt được thực hiện, với mục tiêu tự túc vào năm 2030.

Những phát triển và nghiên cứu khác gần đây gồm có Chiến lược Phát triển Thủy điện Khả chấp và Nghiên cứu Phát triển và Quản lý Khả chấp Sông Mekong, bao gồm Ảnh hưởng của Các Dự án Thủy điện Dòng chánh (còn được gọi là Nghiên cứu của Hội đồng), liên quan đến việc trao dồi khả năng thích ứng để giúp giảm thiểu tính bất định và hỗ trợ thích ứng trong lưu vực.  Cũng có một số thừa nhận trong những năm qua là MRC là một trung tâm kiến thức khu vực dựa trên một số nghiên cứu then chốt và các diễn đàn cam kết.

Mặc dù Trung Hoa và Myanmar là đối tác đối thoại của MRC từ năm 1996 và việc cộng tác không bắt buộc được cải thiện theo thời gian, chú trọng đến việc chia sẻ dữ kiện, thông báo dòng chảy, và trao đổi kỹ thuật, dường như không quốc gia nào sẽ trở thành thành viên trong tương lai, nhất là Hợp tác Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)) mới thành lập được Trung Hoa tài trợ và gồm tất cả 6 quốc gia duyên hà.  Cộng tác và có thể cạnh tranh với LMC và các tổ chức khu vực khác làm cho tương lai của MRC, nhiệm vụ, độc quyền và liên hệ với các bên liên hệ bất định thêm.  Các thách thức khác gồm có khả năng đối phó với các vấn đề mới nổi lên và thực hiện việc phát triển cho toàn lưu vực ngược lại với quyền lợi của các quốc gia.  Giải quyết những thách thức then chốt nầy, cùng với việc duyên hà hóa đang tiến hành, sẽ là tâm điểm để bảo đảm 25 năm nữa cho MRC.

TS Andrea Haefner là giảng sư ở Viện Á Châu Griffith, với nhiều kinh nghiệm về các lưu vực sông xuyên biên giới ở Đông Nam Á, Mỹ Latin, và Âu Châu.  Ngoài việc chú trọng đến nghiên cứu ảnh hưởng và sự thích hợp chánh sách, bà cũng có vài dự án về quản lý nguồn nước và thay đổi khí hậu, nhất là ở khu vực Mekong.


.

CHIẾN TRANH NƯỚC: CẢI TỔ ỦY HỘI SÔNG MEKONG (MRC) ĐỂ CỦNG CỐ AN NINH NGUỒN NƯỚC TRONG KHU VỰC


The Water Wars: Reforming the Mekong River Commission (MRC) to enhance regional water security

Edward Wong – Bình Yên Đông lược dịch
Medium – January 7, 2019

Nguồn: Village Roadshow

Việc cai quản các lưu vực sông quốc tế thường bị ngăn cản bởi “trò kéo dây” bế tắc giữa chủ quyền lãnh thổ và hiệu quả của các khuôn khổ luật pháp về nguồn nước quốc tế để bảo đảm rằng nguồn nước chung được sử dụng “công bằng” và “hợp lý”.  Sông Mekong là con sông lớn thứ 8th trên thế giới và là nơi cư trú của trên 80 triệu người, đa số từ các cộng đồng nông nghiệp dựa vào sông để lấy nước uống, đánh cá, canh tác và vận chuyển (Fisher, 2009).  Việc xây cất các dự án hạ tầng cơ sở thủy điện được đề nghị trong Mekong của các quốc gia duyên hà tạo áp lực quá sức chịu đựng làm căng thẳng thêm mối quan hệ mong manh giữa năng lượng, nông nghiệp và an ninh nguồn nước.  Bằng cách tập chú vào những khiếm khuyết của cơ cấu tổ chức và quyền hạn pháp lý của Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) như một khí cụ của luật nước quốc tế; bài viết nầy đề nghị một vài cải tổ để cải thiện các hoạt động hiện nay nhằm mục đích củng cố an ninh nguồn nước cho các quốc gia duyên hà dựa vào sông để sinh tồn.  Nó cũng cứu xét xem làm thế nào để MRC có thể thu hút thêm kiến thức địa phương và trình độ chuyên môn của ASEAN để phát triển một khái niệm cỗ vũ sự hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia duyên hà trong một cung cách thăng tiến các mục tiêu của Thỏa ước MRC năm 1995 (Thỏa ước Mekong) để thực hiện tốt hơn việc cai quản nguồn nước.

Các vấn đề phải giải quyết

Xung đột giữa các mục tiêu an toàn kinh tế và môi trường của các quốc gia duyên hà Mekong cản trở khả năng thực hiện an ninh nguồn nước của MRC

Nguồn: Geopolitika

Ngoài việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ tuyệt đối đối với việc thực hiện các dự án thủy điện dọc theo Mekong, các quốc gia duyên hà ở thượng lưu, như Trung Hoa, cũng nắm những lợi thế địa dư tự nhiên so với các quốc gia duyên hà ở hạ lưu, như Cambodia và Thái Lan, vì họ không thể kiểm soát những thay đổi bất lợi của dòng chảy trong sông Mekong, gây gián đoạn sự di chuyển của cá và làm suy thoái phẩm chất của phù sa mà các cộng đồng ở hạ lưu dựa vào để sinh sống (Reddy, Pavelic et Hanira, 2017).  Trung Hoa đã xây 6 đập trên Lancang – dòng chánh Mekong ở thượng lưu, nơi họ nói có chủ quyền lạnh thổ tuyệt đối, và đang hoạch định một dự án thủy điện khác, đập hạ Sesan 2 có công suất 400 MW (Hunt, 2018).

Ngoài Trung Hoa và Myanmar, 4 trong số 6 quốc gia duyên hà Mekong – Lào, Việt Nam, Cambodia và Thái Lan chịu ràng buộc pháp lý bởi Thỏa ước Mekong để thành lập MRC.  Vì thế, nguyên tắc chung của luật nước quốc tế (nguyên tắc vô hại) được ghi trong Điều 7 của thỏa ước đã bị cố tình vi phạm bởi việc xây đập ở thượng nguồn (Belinsky, 2015).  Vào năm 2015, Quốc hội Lào chấp thuận một thỏa thuận nhượng quyền để xây nhà máy thủy điện Don Sahong có công suất 260 MW.  Mặc dù chánh sách của Lào hợp pháp về mặt kỹ thuật, vì chánh phủ Lào có quyền đối với việc sử dụng nguồn nước; các quốc gia lân bang khác ở hạ lưu trong khu vực Mekong – Cambodia, Thái Lan và Việt Nam, xem dự án đầy tranh cãi nầy với thái độ khinh bỉ vì việc xây cất sẽ thay đổi lớn lao dòng chảy và gián đoạn bất lợi cho sự di chuyển của cá (Rieu-Clarke, 2014).  Mặc dù chán nãn và thất vọng, người bản địa Kuoy ở Cambodia và Lào có thể dựa vào Hiến chương về Quyền Kinh tế và Nhiệm vụ của Quốc gia, được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công nhận trong năm 1974, Điều 2(1) tuyên bố:

“Mỗi Quốc gia có và sẽ tự do thi hành chủ quyền vĩnh viễn toàn vẹn, bao gồm việc sỡ hữu, sử dụng và vứt bỏ, đối với tất cả tài sản, tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế.”

để áp đặt chủ quyền của mình đối với thủy lộ.  Tuy nhiên, Lào cũng ký tên vào Thỏa ước Mekong, trong đó họ phải giảm thiểu và làm nhẹ bớt các ảnh hưởng tai hại của việc phát triển và sử dụng Mekong theo Điều 7 cũng như bảo đảm việc sử dụng nguồn nước công bằng và hợp lý theo Điều 5 của Thỏa ước Mekong (Belinsky, 2015).  Hơn nữa, các quyền không thể tranh cãi về “tự quyết” và cai quản tài nguyên thiên nhiên của người bản địa Kuoy ở Cambodia được công nhận bởi Tuyên bố Chung về Nhân Quyền bị vi phạm, trong khi MRC thiếu dũng khí chánh trị lẫn cơ chế pháp lý để có thêm hành động (Braig, 2018).

Dựa trên tiền lệ được phác họa trong vụ kiện Corfu Channel ở Tòa Án Quốc tế (ICJ) năm 1949 cấm các quốc gia cố tình sử dụng lãnh thổ của mình để vi phạm quyền của các quốc gia khác, nguyên tắc vô hại trong Điều 7 của Thỏa ước Mekong, trên lý thuyết, trao quyền cho MRC để giảm việc xây cất dự án thủy điện không khả chấp dưới danh nghĩa bảo tồn an ninh nước và môi trường (Sithirith, Evers et Gupta, 2016).  Tuy nhiên, trước hết có rất ít vụ kiện ở ICJ để xác định sự phân phối công bằng quyền dùng nước, được cho là tham nhũng bên trong các hoạt động của MRC ở thủ đô Vientiane của Lào và thiếu hợp tác và minh bạch đã làm suy giảm nặng nề sự tín nhiệm quốc tế của MRC để cai quản quyền dùng nước Mekong (Fawthrop, 2018).  Vấn đề càng phức tạp thêm, nền kinh tế của quốc gia không có bờ biển ở hạ lưu Lào tùy thuộc rất lớn vào việc xuất cảng thủy điện sang các nước lân bang.  Là quốc gia duy nhất không có bờ biển ở ĐNA, các kế hoạch của Lào với Sáng kiến Phân vùng Mekong và Phụ cận (Greater Mekong Subregion (GMS) Initiative) để nối thủ đô Vientiane với hải cảng Đà Nẳng của Việt Nam sẽ giúp Lào đạt mục tiêu phát triển khả chấp (SDG) thứ 9th của Liên Hiệp Quốc và thoát khỏi tình trạng quốc gia kém phát triển nhất (LDC) vào năm 2020 (Belinskij, 2015).  Mặc dù quyền sử dụng nước của Lào rất cần thiết để tăng trưởng kinh tế, các lân bang ở hạ lưu Mekong – như Cambodia, Thái Lan và Việt Nam cùng với xã hội dân sự đặt nghi vấn về tính hợp pháp của việc xây đập của Lào.  Dù vậy, Cambodia cũng đang đề nghị xây đập ở Sambor mà không tham vấn với Việt Nam hay Lào và thêm 30 đập trên phụ lưu và 11 đập thủy điện trên dòng chánh được dự trù vào năm 2030 được tán thành theo Điều 5 của Thỏa ước Mekong (Fischhendler, 2015).

Sự xung khắc của luật lệ quốc tế và quyền lợi khác biệt của các quốc gia duyên hà làm phức tạp thêm định nghĩ của cái gọi là “sử dụng công bằng và hợp lý”, “hợp tác” và “vô hại” tương ứng với khuôn khổ thông thường của luật nguồn nước quốc tế.  Hơn thế, ngoài phán quyết về Dự án Gabčikovo-Nagymaros trên sông Danube, có rất ít vụ kiện quốc tế tạo tiền lệ để làm rõ các nguyên tắc của luật nguồn nước quốc tế.  Giữa sự mơ hồ nầy là MRC đang chật vật để duy trì sự cai quản Mekong có hiệu quả trong khi cắt chi phí, quản lý tài chánh yếu kém và giảm viện trợ đe dọa hiệu lực của tổ chức vốn đã suy yếu (Ratner, 2003).

MRC nên sửa đổi Thỏa ước Mekong và các bộ phận cai quản để cải thiện tính minh bạch


Dưới hình thức hiện thời, MRC là hậu thân của Ủy ban Mekong 1957, bị chỉ trích nặng nề là thụ động và chỉ là một tổ chức “đóng dấu” cho các dự án đập thủy điện (Belinskij, 2015).  Ba bộ phận then chốt trang bị MRC với hạ tầng cơ sở luật pháp để phán xét có hiệu quả việc sử dụng nguồn nước Mekong là Hội đồng Bộ trưởng, Ủy ban Hỗn hợp và Văn phòng.  Hội đồng Bộ trưởng gồm có đại diện cấp bộ từ các quốc gia thành viên, Ủy ban Hỗn hợp thi hành các chánh sách của Hội đồng Bộ trưởng, và Văn phòng cung cấp phần kỹ thuật và hành chánh cho 2 bộ phận kia.  Một khiếm khuyết cố hữu của cơ cấu tổ chức là các thành viên trong Hội đồng chỉ cần thông báo mà không phải tham vấn với các thành viên khác trước khi có quyết định, do đó, bỏ qua các điều kiện trong các Điều 20, 27 và 34 của Thỏa ước Mekong đòi hỏi các quyết định của Ủy hội phải được toàn thể đồng ý (Zawahari, Dinar et Nigatu, 2014).  Điều nầy tạo nên một lỗ hổng pháp lý cho các quyền lợi kinh tế của các quốc gia duyên hà được ưu tiên, nếu có thể được, để xây đập mà các thành viên khác của Hội đồng không được biết.  Lỗ hổng pháp lý nầy phát sinh việc phát triển đập không bị trở ngại trong lưu vực sông Sekong, Sesan và Srepok (Lưu vực 3S) mặc dù MRC không có cơ chế trong kho vũ khí pháp chế để ngăn chận sự phát triển ở thượng nguồn như thế.  Thay vào đó, Thỏa ước Mekong nên thừa nhận ngôn ngữ pháp lý “hợp tác” được ghi trong luật quốc tế thông dụng trong Điều 8 của Quy ước về Thủy lộ của Liên Hiệp Quốc và Điều 2.6 của Quy ước Nguồn nước ECE, theo thứ tự, để bảo đảm rằng những quốc gia ký tên vào MRC có thể áp đặt quyết định đối với mỗi thành viên MRC, hay bất cứ một nhóm thành viên dù là một quốc gia hay một tổ chức (Devlaeminck, 2017).

Sự thiếu minh bạch trong hoạt động của MRC đã châm ngòi cho một chu kỳ tệ hại đục khoét nặng nề sự tín nhiệmcủa MRC đến độ viện trợ của đối tác phát triển ngoại quốc cho thời kỳ 2016-2020 giảm từ 115 triệu USD xuống còn 53 triệu USD (mrcmekong.org, 2018).  Từ năm 2016, con số quan sát viên độc lập tham dự các phiên họp của MRC về các vấn đề an ninh môi trường đã giảm từ 15 xuống 2 với nhiều mạnh thường quân truyền thống của MRC (Australia, các quốc gia EU và Nhật Bản) khuyến cáo thành lập một khuôn khổ độc lập để điều tra các cáo buộc gian lận (mrcmekong.org, 2018).  Năm 2018, MRC tổ chức một diễn đàn các bên liên hệ trong khu vực cho dự án thủy điện Pak Lay ở Lào, kêu gọi sự tham gia của nhiều bên liên hệ.  Tuy nhiên, hiệu quả của diễn đàn các bên liên hệ trong khu vực bị xói mòn bởi trách nhiệm mập mờ của tiến trình Thủ tục Thông báo, Tham vấn Trước và Thỏa thuận (Procedures for Notification, Prior Consultation and Agreement (PNPCA)) của MRC đối với việc cứu xét các ý kiến của các bên liên hệ tham dự diễn đàn (Sithirith, Evers et Gupta, 2016).  Tiến trình PNPCA đòi hỏi nước đệ trình – Lào – chứ không phải MRC phải cứu xét xem liệu dự án được đề nghị có những ảnh hưởng xuyên biên giới đối với môi trường và đời sống của các cộng đồng ven sông trước khi tham vấn với MRC liệu dự án có thể tiếp tục (Zeitoun, Cascao et al, 2016).  Điều nầy mở ra những xung đột quyền lợi giữa nước đệ trình và vai trò của MRC để đánh giá khả năng thành tựu của các dự án thủy điện, đi ngược lại mục đích của diễn đàn các bên liên hệ trong khu vực cho dự án Pak Lay là minh bạch hơn.  Tiến trình PNPCA thực sự cho phép bất cứ quốc gia duyên hà nào chấp thuận các dự án thủy điện của chính mình mà không cần bất cứ hậu quả pháp lý nếu dự án gây tai hại môi trường (Zeitoun, Cascao at al, 2016).  Thất bại của MRC để ngưng việc xây đập Xayaburi trong năm 2011 là một bằng chứng của các khiếm khuyết về tổ chức cố hữu của tiến tình PNPCA vì thời biểu tham vấn, thu thập và chia sẻ dữ kiện cần thiết cho một tiến trình tham vấn có hiệu quả của MRC (Wu et Chen, 2017).  Hơn nữa, vì Thỏa ước Mekong không có điều khoản về việc đánh giá ảnh hưởng môi trường xuyên biên giới, vẫn không rõ làm thế nào để diễn đàn các bên liên hệ trong khu vực gia tăng sự cai quản dân chủ bên trong MRC.

Các giải pháp có thể áp dụng

MRC nên thu hút thêm kiến thức địa phương và chuyên môn ASEAN để cỗ vũ an ninh khu vực cho các quốc gia duyên hà Mekong

Nguồn: telegraph.co.uk

Khi nói đến các quyết định liên quan đến việc thiết kế các hệ thống thủy nông khả chấp, MRC thường bỏ qua kiến thức địa phương.  Các giải pháp kỹ thuật trong loạt phúc trình Phát triển Mekong của MRC thường không được các cộng đồng địa phương thông hiểu, cho nên, họ không thể đóng góp vào việc dân chủ hóa việc cai quản nguồn nước ở Mekong.  Các cộng đồng ngư dân dọc theo lưu vực 3S, bất quá, chỉ tham dự trên mặt mặc dù không thiếu các nhóm xã hội dân sự, chánh quyền và các tổ chức tư nhân đại diện cho quyền lợi của họ (Keskinen et al, 2015).  Việc xậy đập Don Sahong được xem như một chánh sách kinh tế sẽ cải thiện đời sống của ngư dân dọc theo lòng lạch Siphandone.  Bỏ qua di sản văn hóa và kiến thức đánh cá địa phương của cộng đồng ngư dân Siphandone, MRC đã quay mặt với chánh sách của chánh phủ Lào để cấm sử dụng “giàn đánh cá Li” truyền thống vì cho rằng nó gây trở ngại việc phát triển kinh tế xã hội của các dự án hạ tầng cơ sở ở Lào.  Tin tức về những lo ngại của người dân địa phương ở Cambodia về ảnh hưởng của việc chuyển nước và sự khô hạn tăng tốc ở hạ lưu cũng thường bị MRC bỏ qua với lý do thiếu khoa học hay không thể kiểm chứng.  Sự mất cân xứng quyền hạn trong việc phân phối sự cai quản nước giữa kiến thức địa phương và MRC – được xem là “môi giới kiến thức” – không sử dụng hết khả năng của Ủy hội như cơ quan soạn thảo phúc trình môi trường liên quan đến việc phát triển khả chấp sông Mekong (Fisher, 2009).  Bằng cách thiết lập thêm diễn đàn giáo dục để góp phần và ghi nhận kiến thức với các cộng đồng địa phương dọc theo Mekong, MRC có thể đối phó tốt hơn vấn đề an ninh nguồn nước trong khu vực của các quốc gia duyên hà Mekong.

Giàn đánh cá ở Siphandone. [Ảnh: Pianporn Deetes]

Để giải quyết các cơ chế pháp lý không thích hợp nhằm giúp các bộ phận cai quản của MRC đưa ra các quyết định có hiệu quả, MRC có thể chuyển các vấn đề liên quan đến việc xây đập thủy điện ở thượng lưu qua một tổ chức khu vực có nhiều tài nguyên và ảnh hưởng hơn – ASEAN.  Vì nhiều quốc gia thành viên của MRC cũng là thành viên của ASEAN, MRC có thể dựa vào hiệp ước ràng buộc pháp lý đầu tiên của ASEAN – Hiệp ước Hữu nghị & Hợp tác – để cai quản các xung đột về đập xuyên quốc gia (mrcmekong.org, 2018).  Bằng cách nầy, MRC sẽ không bị cáo buộc vi phạm chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia ký kết tiến hành các dự án hạ tầng cơ sở không khả chấp và gây thiệt hại môi trường.  Chánh sách nầy cũng bổ sung các mục tiêu của Sáng kiến Nối kết ASEAN 2025 về phát triển hạ tầng cơ sở khả chấp và của MRC để cai quản việc phát triển kinh tế khả chấp ở Mekong.  Mặc dù có những cơ hội nầy, MRC cũng nên bước cẩn thận vì sự chuyển quyền cai quản Mekong sẽ làm tăng tốc tiến trình không thích hợp chánh trị.  Một đường lối mềm dẽo hơn mà không đục khoét thêm sự tín nhiệm của MRC có lẽ là cỗ vũ thêm sự hợp tác giữa các tổ chức với Hợp tác Phát triển Lưu vực Mekong của ASEAN để đưa ra các chiến lược chủ động cai quản Mekong tốt hơn.

Kết luận

Các cơ chế với trách nhiệm yếu kém bên trong Thỏa ước Mekong đã biến thành sự bất lực của MRC trong việc bảo vệ an ninh nước và lương thực cho các quốc gia duyên hà Mekong.  Các nguyên tắc “sử dụng công bằng” và “vô hại” của luật nguồn nước quốc tế theo thông lệ thường bị bỏ qua vì quyền lợi kinh tế của các quốc gia ký kết MRC, trong khi tiến trình PNPCA bị khai thác để “đóng dấu” các dự án thủy điện trong tương lai.  Nếu MRC muốn duy trì như một tổ chức sông danh tiếng có khả năng cai quản nguồn nước Mekong có hiệu quả, nó cần phải qua nhiều cải tổ trong cơ cấu tổ chức, tái xét các điều khoản mơ hồ của Thỏa ước Mekong, tham vấn chuyên môn với ASEAN và cung cấp nhiều diễn đàn tốt hơn để trao đổi kiến thức với các cộng đồng nông dân và ngư dân ở ven sông Mekong.

Tài liệu tham khảo

Belinskij, A. (2015). Water-Energy-Food Nexus within the Framework of International Water Law. Water; 7(10), pp. 5396-5415.

Braig, K. (2018). The European Court of Human Rights and the rights to clean water and sanitation. Water Policy; 20(2), pp. 282-307.

Cookey, P., Darnsawasdi, R. and Ratanachai, C. (2016). A Conceptual Framework for Assessment of Governance Performance of Lake Basins: Toward Transformation to Adaptive and Integrative Governance. Hydrology, 3(1), p. 12.

Devlaeminck, D. (2017). Revisiting the substantive rules of the law of international watercourses: an analysis through the lens of reciprocity and the interests of China. Water Policy, 20(2), pp. 323-335.

Do Viet Cuong, T. (2018). Is Lao Building a New Illegal Dam on the Mekong River?. [Online] The Diplomat. Available at https://thediplomat.com/2015/10/is-lao-building-a-new-illegal-dam-on-the-mekong-river/ [Accessed 14 Dec 2018]

Fischhendler, L. (2015). The securitization of water discourse: the critical foundations research gaps and objectives of the special issue. International Environmental Agreements: Politics Law and Economics, 15(3), pp. 245-255.

Fisher, D. (2009). The law and governance of water resources. Cheltenham, UK: Edward Elgar.

Goh, E. (2007).  Developing the Mekong. Abingdon, Oxon: Routledge.

Leung, S., Bingham, B. and Davies, M. (2010). Globalization and development in the Mekong economies. Cheltenham: Edward Elgar Pub.

Luke Hunt, T. (2018). Mekong River Commission Faces Radiacl Change. [online] The Diplomat. Available at: https://thediplomat.com/2016/01/mekong-river-commission-faces-radical-change/ [Accessesd 14 Dec 2018]

Molle, F. (2010). Contested waterscapes in the Mekong region. London: Earthscan.

Mrcmekong.org. (2018). Stakeholders invited to voice concerns during MRC prior consultation process for the Mekong hydropower development. Mekong River Commission. [online] Available at: http://www.mrcmekong.org/news-and-events/news/stakeholder-invited-to-voice-concerns-during-mrc-prior-consultation-process-for-mekong-hydropower-development/ [Accessed 14 Dec 2018]

Ostrom, E. (1999). Coping with tragedies of the commons. Annual Review of Political Science, 2(1), pp. 493-535.

Ratner, B. (2003). The Politics of Regional Governance in the Mekong River Basin. Global Change, Peace & Security, 15(1), pp. 59-76.

Reddy, V., Pavelic, P. and Hanjra, M. (2017). Underground taming of floods for irrigation (UTFI) in the river basins of South Asia: institutionalizing approaches and policies for sustainable water management and livelihood enhancement. Water Policy, 20(2).


Monday, June 15, 2020

CỨU LẤY MEKONG, MẠCH MÁU KINH TẾ CỦA TOÀN KHU VỰC


(Saving the Mekong, the economic lifeblood of an entire region)

Michael George DeSombre – Bình Yên Đông lược dịch
The Nation – April 26, 2020

Sông Mekong ở Chiang Khong, Thái Lan khô cạn trong tháng 11 năm 2019. 
[Ảnh: Rak Chiang Khong]

Tôi được biết về vẻ đẹp của sông Mekong (hay Mae Nam Khong) rất lâu trước khi tôi đến Á Châu.  Người Mỹ và người Thái đều kính trọng những dòng sông của họ.  Tôi lớn lên gần sông Mississippi, con sông đóng một vai trò lớn lao trong văn học dân gian Mỹ và là mạch sống kinh tế trong suốt lịch sử của chúng tôi.  Người Mỹ bản xứ gọi Mississippi là “Cha của Nước”.  Nó là sự phản chiếu của mối quan hệ giữa chúng ta trong ngôn ngữ Thái Lan, Mae Nam có nghĩa là “Mẹ của Nước”.

Mekong không là tài sản của bất cứ quốc gia nào.  Nó chảy qua Trung Hoa, Myanmar, Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam, mang theo chất dinh dưỡng và đời sống.  Phù sa của nó nuôi dưỡng cá và bồi bổ đất dọc theo đồng lụt.  Cá và đất đai mầu mỡ đó nuôi dưỡng 70 triệu người cư trú trong hạ lưu sông Mekong.

Năm ngoái, các quốc gia hạ lưu Mekong trải qua một trận hạn hán tồi tệ nhất trong thập niên.  Mặc dù có thể có nhiều yếu tố gây nên hạn hán, một nghiên cứu gần đây cho thấy Mekong bị bóp nghẹt bởi việc xây đập rầm rộ ở thượng lưu làm gián đoạn dòng chảy ở hạ lưu.  Mực nước sông xuống đến mức thấp nhất trong nhiều thập niên – trạm đo đạc thủy học ở Chiang Saen trong tỉnh Chiang Rai ghi nhận mực nước thấp nhất trong lịch sử đo đạc trong năm qua, mặc dù dữ kiện vệ tinh cho thấy có rất nhiều nước ở thượng lưu Trung Hoa.  [Lời người dịch: Tác giả nói đến nghiên cứu mới đây của Eyes on Earth cho rằng các đập của Trung Hoa giữ nước gây hạn hán ở hạ lưu.  Nhưng nghiên cứu nầy bị Ủy hội Sông Mekong bác bỏ lập tức]  Điều nầy nảy sinh nhiều câu hỏi quan trọng, kể cả tại sao nước không chảy xuống các quốc gia Mekong đang cần đến.

Các tổ chức xã hội dân sự ở Thái Lan đã nêu lên những lo ngại về các nỗ lực của Trung Hoa để ngăn dòng và phá ghềnh đá trong sông giữa Trung Hoa và Thái Lan và Lào, được hứa hẹn bằng “những giải pháp ai cũng thắng” nhưng không bao giờ thành hiện thực.  Chánh phủ Thái Lan lưu ý những lo ngại nầy, tạm ngưng kế hoạch phá ghềnh và nạo vét khúc sông trên biên giới Thái Lan, nêu lo ngại trực tiếp với Trung Hoa, và kêu gọi xem xét kỹ lưỡng hơn việc điều hành đập dọc theo Mekong.  Chúng tôi ủng hộ các nỗ lực của nhân dân và chánh phủ Thái Lan.

Nhưng không chỉ có nước.

Nguồn nước khan hiếm chỉ là một phần của vấn đề làm khổ sở vùng biên giới Mekong ở Thái Lan.  Các nhóm tội phạm, bao gồm một số trong các đặc khu kinh tế và sòng bạc láng giềng, dùng Mekong như một con đường chánh để vận chuyển ma túy, động vật hoang dã, và người.  Văn phòng về Ma túy và Tội phạm của Liên Hiệp Quốc (United Nations Office on Drugs and Crime (UNDOC)) xác nhận rằng các nhóm tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đã di chuyển vào Tam giác Vàng, gia tăng việc sản xuất và vận chuyển ma túy bất hợp pháp băng qua Mekong trong tỉnh Shan, Myanmar và rửa tiền lợi nhuận qua kỹ nghệ sòng bài trong vùng.  UNDOC ước tính trị giá của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia trong khu vực Mekong lên trên 100 tỉ USD (3.200 tỉ Baht của Thái Lan) mỗi năm, với việc vận chuyển người chiếm trên 9 tỉ USD.  Trung Hoa dùng việc chống lại tội phạm có tổ chức như một lý do để tuần tra trên sông ngoài biên giới ở Lào và Myanmar, mặc dù họ không thể ngăn chận nguồn cung cấp hóa chất từ Trung Hoa đến Myanmar, châm ngòi cho trận dịch methamphetamine ở Á Châu và hầu hết bạo lực và tội phạm ở Tam giác Vàng.  Sự bộc phát của tội phạm xuyên quốc gia trong vùng làm cho các cộng đồng địa phương lo sợ mất an ninh cùng văn hóa và lối sống của họ.

Bạn bè, đối tác, và đồng minh

Hoa Kỳ đang trợ giúp Thái Lan để bảo vệ biên giới và theo đuổi một tương lai an toàn và thịnh vượng hơn cho nhân dân Thái Lan.  Từ năm 1963, Cơ quan Quản trị Dược phẩm Hoa Kỳ (US Drug Enforcemnet Administration (DEA)) đã hỗ trợ các nỗ lực của chánh phù Thái để ngăn chận việc buôn lậu các chất bị cấm ở Thái Lan, Hoa Kỳ, và trị trường quốc tế.  Đầu tháng nầy, DEA hỗ trợ một cuộc hành quân chống lại 5 hệ thống vận chuyển ma túy với các hoạt động rửa tiền trị giá 3 tỉ Baht.  Trong năm 2019, chánh phủ Hoa Kỳ giúp cơ quan công lực Thái tịch thu trên 9 tấn methamphetamine và 43 triệu viên yaba [Lời người dịch: yaba là một chất phát xuất từ sự tổng hợp các chất amphetamines] .  Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI), Bộ An ninh Quốc nội (DHS) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đang thi hành nhiệm vụ của mình để chống lại việc vận chuyển người và động vật hoang dã và bảo vệ biên giới Thái Lan.  Năm rồi, Ngoại trưởng Mike Pompeo loan báo thêm 420 triệu Baht để chống lại tội phạm và vận chuyển xuyên quốc gia trong khu vực Mekong.

Tiến đến tình hữu nghị trong 200 năm tới

Hoa Kỳ đã là một người bạn kiên quyết của Thái Lan trong 200 năm qua, và chúng tôi vẫn là bạn trong 200 năm tới.  Vào năm 1863, khi Mississippi cuối cùng thoát được gánh nặng của chiến tranh, Tổng thống Abraham Lincoln nói: “Cha của Nước một lần nữa đi ra biển mà không bực tức.”  Chúng tôi hy vọng rằng Mẹ của Nước của Thái Lan, một lần nữa, đi ra biển mà không bực tức, không bị cản trở bởi những phiền hà ở thượng lưu.

(Tác giả là Đại sứ Hoa Kỳ ở Thái Lan)

MEKONG LÀ THUỐC THỬ CHO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TRUNG HOA


(The Mekong is the test of China’s leadership)

Brad Glosserman – Bình Yên Đông lược dịch
The Japan Times – April 15, 2020

Sông Mekong ở Sangkhorn, Thái Lan khô cạn. [Ảnh: Adam Dean]

Sông Mekong bắt nguồn từ Trung Hoa và uốn khúc về phía nam, chảy qua 5 quốc gia khác – Lào, Myanmar, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam – trước khi  đổ ra Biển Đông.  Mekong là nhịp tim của khu vực, và dù là một sáo ngữ, nó diển tả chính xác một cách đau lòng.  Mekong hỗ trợ và nuôi dưỡng 60 triệu người, cho họ thực phẩm và sinh kế.  Những quốc gia và cộng đồng đó không chỉ dựa vào dòng sông; sự hiện hữu của họ quyện chặt vào nó.

Trong những năm gần đây, Mekong đập nhanh hơn và các chuyên viên lo ngại rằng nó đang bị đẩy tới cực đoan, hủy hoại hệ sinh thái và tất cả đời sống dựa vào nó để sinh tồn.  Nhiều cơ chế đã được thiết lập để giúp quản lý dòng sông, nhưng sự thất bại càng ngày càng rõ – một trong các vấn đề to lớn nhất có thể là có vô số sáng kiến.  Hiện nay, hơn bao giờ hết, việc hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia ven sông Mekong, các cơ chế đó, và các chánh phủ khác để khuyến khích phát triển khu vực là cần thiết.  Không quốc gia nào đóng một vai trò lớn hơn Trung Hoa trong tiến trình nầy.  Tương lai của sông Mekong có thể là một thuốc thử tiêu biểu và quan trọng nhất cho những mục đích của Trung Hoa ở Á Châu.

Hạn hán, cùng với việc phát triển dòng sông và các kế hoạch sử dụng nước bổ sung, trong năm rồi, đã làm cho sông Mekong ở hạ lưu – phần lưu vực ở bên dưới Trung Hoa – xuống đến mức thấp nhất trong hơn 50 năm.  Một nghiên cứu được công bố hồi đầu tháng cho thấy thủ phạm chánh của trận hạn hán kỷ lục là Trung Hoa.  Các đập xây trên lãnh thổ Trung Hoa đã cố tình giới hạn dòng chảy, dù Trung Hoa có mực nước [?] trên trung bình ở thượng lưu.

Phân tích của Eyes on Earth Inc, một công ty cố vấn và nghiên cứu chuyên về nước, được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tài trợ, đã dùng dữ kiện vệ tinh để so sánh mực nước sông Mekong trong lãnh thổ Trung Hoa với mực nước đo đạc tại trạm thủy học Chiang Saen, Thái Lan – là trạm gần nhất với Trung Hoa – từ năm 1992 đến cuối năm 2019.  Dữ kiện cho phép họ dự đoán mực nước “tự nhiên” của sông.  Trong 20 năm đầu, từ 1992 đến 2012, 2 bộ dữ kiện đi sát với nhau, nhưng từ năm 2012, dữ kiện cách xa nhau, với mực nước đo đạc ở hạ lưu thấp hơn mực nước dự đoán gần 3 m.

Năm rồi, tình trạng thiếu nước đặc biệt nghiêm trọng, khi mực nước xuống thấp đến mức kỷ lục.  Các bơm thủy nông ở Thái Lan không thể hoạt động và quân đội được huy động để cung cấp nước cho các cộng đồng bị ảnh hưởng.  Nông dân trồng lúa ở Việt Nam không thể làm mùa, châm ngòi cho những lo sợ thiếu lương thực trong quốc gia xuất cảng lúa gạo đứng hàng thứ ba trên thế giới.  Sản lượng cá ở hồ Tonle Sap, Cambodia, hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á (ĐNA), nơi cư trú của trên 1.000 chủng loại cá và cung cấp trên 500.000 tấn cá mỗi năm, tụt giảm đến 90% và nhiều cá đánh được quá nhỏ chỉ có thể làm thức ăn cho cá khác.  Các nhà khoa học đổ cho mực nước thấp, khiến cho hồ không được làm đầy hay quá cạn nên nước thiếu oxygen.

Eyes on Earth đổ tình trạng thiếu nước cho Trung Hoa.  Ở Trung Hoa, Mekong chảy qua vùng núi non chỉ cho phép sử dụng để sản xuất điện (thay vì canh tác).  Kết quả là, Trung Hoa đã ôm chặt một chương trình xây dựng năng nổ hình thành 11 đập trên thượng lưu Mekong, với sức chứa tổng cộng lên đến 47 tỉ m3.  Nghiên cứu mới lưu ý rằng việc tách rời mực nước trong 2 phần của sông bắt đầu khi các đập thủy điện lớn nhất của Trung Hoa trên sông Mekong bắt đầu hoạt động.  Một trong các tác giả kết luận rằng “một số nước khổng lồ… đang được Trung Hoa giữ lại,” và việc từ chối không cho xả nước “có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạn hán ở hạ lưu.”

Các giới chức Trung Hoa giận dữ phủ nhận cáo buộc, đổ lỗi cho lượng mưa thấp.  Một tuyên bố của Bộ Ngoại giao bác bỏ nghiên cứu cho rằng nó buộc tội “vô lý” các đập của Trung Hoa gây hạn hán ở hạ lưu, và trả lời rằng “Trung Hoa tiếp tục làm tối đa để bảo đảm lưu lượng hợp lý” cho các quốc gia khác.  Trung Hoa không công bố chi tiết về việc xả nước từ các đập của họ và các tác giả Eyes on Earth nói rằng dữ kiện vệ tinh cho thấy có nhiều nước dư thừa ở thương lưu vực trong khi các quốc gia ở phía nam khô hạn.

Không có một hiệp ước nào bao gồm tất cả các quốc gia duyên hà Mekong.  Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) được thành lập vào năm 1995, nhưng chỉ bao gồm Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, không có Trung Hoa, mặc dù Bắc Kinh trở thành một đối tác đối thoại trong năm sau và hợp tác với MRC một thời gian.  Thay vì gia nhập, Bắc Kinh đề nghị trong năm 2014 và rồi giúp hình thành Sáng kiến Hợp tác Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)), bao gồm tất cả 6 quốc gia.  Quan điểm hiện hành của LMC là nó có ý định khai thác những điểm yếu của MRC và thiết lập một vị trí an toàn và vững chắc của Trung Hoa trong khu vực khi Bắc Kinh tung viện trợ và ảnh hưởng các dự án phát triển dọc theo sông.  Nhật Bản cũng tham gia sâu rộng vào các hoạt động ở Mekong, với tư cách một đối tác phát triển của MRC.  Từ năm 2001, nước nầy đã cung cấp trên 18 triệu USD vào một số dự án để đối phó với lũ lụt và hạn hán, thủy nông, thay đổi khí hậu và quản lý môi trường.  Trong năm 2004, Nhật Bản tài trợ Trung tâm Quản lý và Giảm nhẹ Lũ lụt Vùng (Regional Flood Management and Mitigation Centre), theo dõi mực nước và tiên đoán lụt hàng ngày.  Năm 2009, hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản-Mekong đầu tiên được tổ chức, và một phiên họp được triệu tập hàng năm kể từ đó.  Năm 2018, Thủ tướng Shinzo Abe và lãnh đạo 5 quốc gia duyên hà Mekong ở ĐNA chấp thuận “Chiến lược Tokyo 2018,” khuyến khích 150 dự án trong 3 lãnh vực chánh: nối kết, xã hội nhân dân, và quản lý môi trường và thiên tai.  Tháng 9 vừa qua, Nhật Bản và các đối tác Mekong thiết lập “Viễn kiến Phát triển Kỹ nghệ Mekong 2.0 (Mekong Industrial Development Vision 2.0 (MIDV 2.0))” và 2 tháng sau, tại Thượng đỉnh Nhật Bản-Mekong lần thứ 11th, họ chấp thuận “Sáng kiến Mekong-Nhật Bản cho các Mục tiêu Phát triển Khả chấp (Mekong-Japan Initiative for Sustainable Development Goals) đến năm 2030, nhằm giúp các quốc gia đó hoàn thành các điểm mốc của Liên Hiệp Quốc.

Tại hội nghị thượng đỉnh trong tháng 11 năm 2019, các lãnh đạo ĐNA cũng lên tiếng ủng hộ các nguyên tắc – không phải chánh sách – phỏng theo Tự do và Mở rộng Ấn Độ-Thái Bình Dương, một viễn kiến của Nhật Bản cho khu vực dựa trên bình đẳng, chia sẻ quyền lợi và tôn trọng luật pháp.  Trong sông Mekong, các nguyên tắc đó giữ vai trò vững chắc trong hạ tầng cơ sở đang được xây dọc theo thủy lộ.  Đầu tư vào hạ tầng cơ sở có phẩm chất cao không chỉ bảo đảm cho các dự án được bền bỉ, khả thi và vừa túi tiền, mà còn bảo đảm rằng lợi ích được chia sẻ với mọi người dựa vào sông để sinh tồn.

Trong nỗ lực nầy, Trung Hoa đóng một vai trò quan trọng nhất.  Hầu hết nước mà các cộng đồng ở hạ lưu dựa vào phát xuất từ đây.  Trung Hoa có thể dễ dàng đặt nhu cầu của họ lên trên nhu cầu của các quốc gia khác; và ngay khi Bắc Kinh lập luận rằng họ đang rộng lượng, nó ám chỉ rằng họ đang ích kỷ.  Tại các diễn đàn khu vực, giới chức Trung Hoa nhấn mạnh rằng nước họ cũng chịu khổ sở vì hạn hán và việc xả nước là một sự hy sinh để giúp các quốc gia ở hạ lưu.  Vào tháng 2, Bộ trưởng Ngoại giao Wang Yi (Vương Nghị) của Trung Hoa nói với các đối tác trong khu vực rằng Trung Hoa cũng bị hạn hán nhưng “đã vượt qua nhiều khó khăn để gia tăng việc xả nước.”  Cái không được nói là viễn cảnh không vượt qua những khó khăn đó.

Nhưng các đập của Trung Hoa đang làm đầy các hồ chứa địa phương.  Các tác giả của nghiên cứu Eyes on Earth lập luận rằng “Trung Hoa đang xây những két an toàn trên thượng lưu Mekong vì họ biết trương mục ngân hàng sẽ cạn và họ muốn để dành.”  Để cho thấy sự lãnh đạo thật sự, Trung Hoa phải thừa nhận nhu cầu của các quốc gia ở hạ lưu và công nhận rằng nhu cầu của các cộng đồng đó cũng chánh đáng và bình đẳng với nhu cầu của chính họ.  Các quốc gia ở hạ lưu Mekong đang đợi.

Brad Glosserman là phó giám đốc và giáo sư thỉnh giảng của Trung tâm về Chiến lược Làm luật ở Đại học Tama và là cố vấn trưởng của Diễn đàn Thái Bình Dương.  Ông là tác giả quyển “Peak Japan: The End of Great Ambitions.”

.