(The Mekong Delta: an
unsettling portrait of coastal collapse)
John Reed – Bình Yên Đông lược dịch
The Financial Times – Juanuary 4, 2020
Một trong những vùng đất ngập nước
lớn nhất Á Châu đang lún xuống biển – và thay đổi khí hậu chỉ chiếm một phần.
Một số thảm họa môi trường kéo dài nhiều năm; một số khác đến
bất ngờ - hay nhanh như chớp. Sự kiện
sau xảy ra vào một ngày trong tháng 8, khi cư dân ở Bình Mỹ, một xã trù phú ở
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam, nghe một tiếng nứt rất lớn. Họ túa ra để thấy khoảng 30 m quốc lộ chạy
dọc theo nhà của họ sụp xuống sông khi lớp nhựa vỡ ra. Một trong những vùng đất ngập nước lớn nhất Á
Châu đang lún xuống biển, một phần do thay đổi khí hậu làm mực nước biển
dâng. Nhưng khi được hỏi lý do của việc
sạt lở, một nông dân địa phương tên Bo chỉ vào cần trục trên tàu ở giữa sông –
cách xa khảng 1 km – đó là khai thác cát.
“Họ làm cho đáy sông càng ngày càng sâu hơn,” anh vừa nói vừa ra bộ đào
bới. Các nhà nghiên cứu theo dõi Mekong
nói khủng hoảng chồng chất từ nhiều năm đã trở nên khẩn cấp trong những tháng
gần đây. Họ cáo buộc 2 hiện tượng nhân
tạo: khai thác cát từ đáy sông và xây cất các đập thượng lưu mới ở Lào và Trung
Hoa làm thay đổi dòng nước, phù sa và màu nước.
Một phần của quốc lộ sụp xuống sông Hậu sau khi bị sạt ở phía
dưới.
[Ảnh: Hải Thanh/FT]
Tàu khai thác cát hiện diện ở khắp nơi trong ĐBSCL. Cát là nhu cầu to lớn cần thiết cho bê tông
trong việc xây cất các cao ốc ở thành phố Hồ Chí Minh và khai khẩn đất đai trên
biển ở Singapore. Nhưng tất cả các hoạt
động che kín cái giá ngày càng tăng của việc khai thác cát, sôi nổi toàn cầu
nhưng rất mờ ám và ít được kiểm soát.
Cái nguy hiểm không chỉ là một thiên đàng sinh thái, nhưng là một vùng
đông dân quan trọng về kinh tế mà người Việt Nam gọi là “chén cơm”. Tương đương về diện tích và dân số với Hòa
Lan, ĐBSCL là sân vườn của thành phố Hồ Chí Minh và là nền ngư nghiệp nội địa
lớn nhất của cả nước – nguồn cung cấp hàng đầu về tôm, cá và trái cây. Đập đầu tiên trong 11 đập dự trù trên dòng
chánh ở hạ lưu Mekong bắt đầu hoạt động, một sự kiện mà các khoa học gia nói là
sẽ thay đổi dòng sông vĩnh viễn. Hàng
trăm km về phía thương lưu ở Lào, 2 trong số nầy bắt đầu hoạt động hồi năm
ngoái, ngăn chận phù sa từng là phương pháp tự nhiên để bù đắp cát bị khai
thác. “Nó như nhà của anh: khi nền móng
bị sạt lở, nó sẽ sụp đổ,” Dương Văn Ni, giám đốc Hệ thống Đại học Đất ngập nước
(Wetland University Network), một nhóm nghiên cứu theo dõi ĐBSCL với nhiều cảnh
báo. Đối với thế giới nơi mà sự mất mát
của cộng đồng ven bờ đáng lo ngại, ĐBSCL là hình ảnh rối loạn của tương lai
trong hiện tại. Người dân Bình Mỹ nói
với Financial Times họ được thông báo phải di chuyển đồ đạc trong nhà và chuẩn bị
di tản trong thời gian ngắn.
Đào cát dọc theo sông Mekong, gần Vientiane ở Lào. [Ảnh:
Getty Images]
Ở phía bắc Thái Lan, người dân sống ven sông nói mực nước
xuống rất thấp và nước thường đục ngầu trở nên trong xanh kể từ khi đập
Xayaburi ở Lào bắt đầu hoạt động trong tháng 10. Các nhà sinh học gọi hiện tượng nầy là “nước
đói” vì nó chảy nhanh hơn và gây sạt lở nhiều hơn. Giống như lân bang Trung Hoa khám phá trong 2
thập niên qua, thăng hoa kinh tế thường đi với nguy hại môi trường. Tháng qua, Việt Nam đồng ý nhập cảng thêm
điện từ các đập của Lào để duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức 7% - một trong
những mức tăng trưởng nhanh nhất Á Châu.
Nhưng cả nước đang trả giá với ô nhiễm gia tăng, tận diệt tài nguyên và
phát triển bừa bãi. Marc Goichot của
chương trình Đại Mekong WWF ở thành phố Hồ Chí Minh nói: “Hầu hết các công ty
nghĩ rằng họ không tùy thuộc vào sông, nhưng nếu anh mất ngư nghiệp, thì thực
phẩm lên giá và tiền lương cũng tăng. Đó
là một tiếng xấu nếu để các cộng đồng lâm nguy, và quản lý xấu nếu không cứu
xét sự khan hiếm của nước hay cát.” Ông
nói thêm: “Tất cả là doanh nghiệp xấu.”
Người Việt Nam gọi đồng bằng “Cửu Long” (“chín con rồng”) vì
dòng sông, sau khi chảy từ cao nguyên Tây Tạng qua 6 quốc gia, chia ra thành
nhiều nhánh trước khi đổ ra Biển Đông.
Theo niên đại địa chất, nó rất trẻ, được hình thành khoảng 6.000 năm
trước từ phù sa chảy ra biển, tạo thành các cồn cát rồi thành đất liền. Rừng đước mọc lên, và là nơi cư trú của báo,
cá sấu và thú hoang trước khi chúng bị con người thay thế. Khoảng 20% dân số 96 triệu người của Việt Nam
sống ở ĐBSCL, bao gồm nhiều công nhân đều đặn đi lại để làm thợ may, đồ gỗ và
điện tử ở trong hay ở gần thành phố Hồ Chí Minh, đầu tàu kinh tế của cả nước. Trong hơn một thế kỷ bị lôi cuốn hay đẩy tới
ĐBSCL, từ thời Pháp thuộc qua Việt Nam Cộng Hòa được Hoa Kỳ ủng hộ và hiện nay
dưới chánh phủ cộng sản. Ngày nay, ĐBSCL
là “một trong những nơi được kiến tạo nhất trên trái đất”, theo Brian Eyler,
giám đốc đông-nam Á Châu của Trung tâm Stimson và tác giả quyển Những Ngày Cuối
cùng của Mekong Hùng vĩ (Last Days of the Mighty Mekong).
Chánh phủ dời cư các gia đình sống ven sông vì lo sợ nhà của
họ bị cuốn trôi.
[Ảnh: Hải Thanh/FT]
Eyler nói: “Việc sử dụng ĐBSCL đã vượt quá khả năng tự quản
lý của nó. Cái chúng ta đang thấy là mất
sản lượng (diminishing economic returns), và khu vực không theo kịp với tăng
trưởng kinh tế.” Hai thập niên trước,
ĐBSCL vẫn còn lấn đất ra biển. Ngày nay
các nhà nghiên cứu nói rằng khu vực đang mất đi đến 12 m bờ biển ở nhiều
nơi. Mực nước cao và đất chìm xuống
khiến nước mặn xâm nhập nhiều hơn, làm xáo trộn sự cân bằng giữa nước ngọt,
nước mặn và nước lợ mà nông dân trồng lúa, trái cây và nuôi tôm ở ĐBSCL dựa
vào. Một bài viết vừa được Climate
Central, một tổ chức bất vụ lợi, công bố đã làm cho nhiều người ở Việt Nam chú
ý khi tiên đoán rằng vào năm 2050 hều hết ĐBSCL sẽ chìm dưới mặt biển. Nhưng có một số nghi ngờ về phương pháp dùng
để tiên đoán, và các nhà nghiên cứu nói rằng mực nước biển hiện nay dâng lên rất
chậm, khoảng 3 mm mỗi năm. Nguy cơ gần
hơn, theo các nhà nghiên cứu và cư dân, là sạt lở đất. Nguyễn Hữu Thiện, một chuyên viên môi trường
và cố vấn nghiên cứu ĐBSCL, nói: “Thay đổi khí hậu thì từ từ và có thể thích
ứng. Các bước phát triển sai có thể được
sửa chữa bằng việc thay đổi chánh sách, và chánh sách đang thay đổi ở Việt
Nam. Nhưng ảnh hưởng của các đập ở
thượng lưu rất nghiêm trọng, thường trực và không thể đảo ngược một khi đập
được xây.” Ảnh hưởng được cảm nhận trên
cù lao Minh, một đảo nhỏ trong một nhánh của Mekong. Người dân ở đây thường sinh sống bằng nghề
đánh cá, nhưng mới đây đã trồng chôm chôm, bưởi, nhãn và các loại trái cây khác
để bán theo nhu cầu.
Nhận thức của cộng đồng là họ đang sống vay mượn. Bùi Hồng Nam, một phóng viên TV và đài phát
thanh địa phương tường trình vụ sạt lở trong vùng nói: “Người dân đang mất nhà,
đất và vườn.” Hồ Văn Chiến, một giới
chức địa phương trên đảo của xã An Bình, cho biết có 2 nhà sụp xuống sông trong
tháng 10 và khoảng 10 gia đình đã dời vào “đất liền”. Ông nói người dân địa phương muốn chánh phủ
xây một con đê. “Nếu họ không làm, đất sẽ sụp đổ.” Cũng như những người khác ở ĐBSCL, ông cáo
buộc cho việc khai thác cát đã gây sạt lở.
Ông nói: “Tất cả các tàu đều về Sài Gòn,” tên cũ của thành phố Hồ Chí
Minh. Khi ĐBSCL sụt lún, các khu đô thị
cũng bị ảnh hưởng. Cần Thơ, thành phố
lớn nhất vùng, có một cầu mới dài 3 km do Nam Hàn xây [Lời người dịch: Nhật bản chứ không phải Nam Hàn] bắc qua sông Hậu,
một trong “chin con rồng” Mekong. Khách
sạn Vinpearl và Vincom Plaza cũng vừa được xây bởi Vingroup, một tổ hợp lớn
nhất ở Việt Nam. Cùng với khung cảnh của
bờ sông, một hàng rào màu xanh che khuất một phần bờ sạt lở.
Ngư nghiệp chịu ảnh hưởng vì ô nhiễm, phát triển và đập ở
thượng lưu thay đổi sông Mekong và các phụ lưu. [Ảnh: Hải Thanh/FT]
Sáu trong số 12 tỉnh của ĐBSCL nay cần phải có “những biện
pháp khẩn cấp”, truyền thông nhà nước tường trình trong tháng 9, và đã tuyên bố
tình trạng khẩn cấp hay phong tỏa đất ven sông vì sạt lở. Các nhà hoạch định cộng sản Việt Nam đã thông
qua một kế hoạch khẩn cấp, Nghị quyết 120, sơ lược các biện pháp cần thiết để
“phục hồi” cho ĐBSCL. Phần lớn, nó chú
trọng giúp cho các cộng đồng bị đe dọa đổi nghề hay đổi chỗ ở. Hầu hết cát trên thế giới dùng cho việc xây
cất là cát sông. Nó là món hàng miễn
phí, ngoại trừ luật lệ và giấy phép, và khai thác cát rất phổ biến ở Việt Nam,
Cambodia, và Lào trong hơn 20 năm. Mức
sản xuất leo thang trong thập niên vừa qua do nhu cầu xây cất và hạ tầng cơ sở
ở Việt Nam và các dự án khai khẩn đất ở Singapore.
Để đối phó với việc khai thác bừa bãi, Hà Nội tìm cách kiểm
soát kỹ nghệ khai thác cát. Bộ môi
trường vừa báo cho những người khai thác cát nơi mà họ có thể hay không thể
khai cát cát, với đe dọa truy tố. Nhưng
các nhà nghiên cứu nói rằng những quy định nầy rất dễ bị qua mặt. Trên một chuyến phà ngang sông Cổ Chiên, một
nhánh khác của Mekong, phóng viên Nam chỉ vào một tàu khai thác cát đậu ở giữa
sông vào buổi sáng ngày thường. Ông vừa
nói khu vực mà tàu đang khai thác cát là bất hợp pháp, vừa trải một bản đồ của
bộ môi trường cho thấy việc mua bán cát bị kiểm soát. Các tàu khai cát cát dùng số giả. Vì các nỗ lực thi hành luật pháp được hực
hiện bởi các tỉnh, một số tàu nằm ở giữa sông, trên ranh giới tỉnh để sẳn sàng
chạy qua tỉnh kế cận để tránh bị phạt.
Ngay nếu tàu khai thác cát phạm luật, tiền phạt rất thấp và
tàu có thể đi qua tỉnh khác để lẩn tránh. [Ảnh: Hải Thanh/FT]
Họ cũng lợi dụng không gian của sông. Nam nói: “Họ làm việc sau nửa đêm – 4 hay 5
tàu – vì nhà nước chỉ có lực lượng để bắt 1 tàu.” Ngay khi người khai thác cát bị bắt, tiền
phạt cũng rất nhỏ. Theo các nhà nghiên
cứu và cư dân, người dân trong cộng đồng bị sạt lở đe dọa nặng nhất thường xung
đột bạo lực với nhân công khai thác cát, bằng súng cao su và gậy. Sự kiện trùng hợp với kiến thức ngày càng
tăng về cái giá mà ĐBSCL phải trả cho việc điều hành thêm các đập. Ông Thiện, một nhà hoạt động môi trường, nói:
“Dựa trên những gì chúng tôi được biết, trong tương lai, khi 11 đập hoạt động,
sẽ không còn cát. Cát chúng tôi có hiện
nay, bao nhiêu đó.” Giới chức Việt Nam
càng ngày càng đặt thay đổi khí hậu vào trọng tâm của việc hoạch định chánh
sách. Vấn đề môi trường, tương tự như vụ
tràn chất độc hại ở một nhà máy thép do Đài Loan sở hữu, đã gây bất ổn cho một
quốc gia tự hào ổn định. Nghị quyết 120
của chánh phủ, về “phát triển khả chấp và chống chọi khí hậu” cho ĐBSCL, nhắm
giải quyết một số vấn đề địa phương. Mai
Trọng Nhân, phó chủ tịch của Nhóm Thay đổi Khí hậu Việt Nam (Vietnam Panel on
Climate Change), nói: “Sạt lở gia tăng vì khai thác cát.” Ông ước tính rằng phù sa trong sông đã sụt
giảm ít nhất ½ so với thời kỳ trước khi các đập trên sông Mekong được xây cất
khoảng 1 thập niên trước đây. Ông nói
chánh phủ đang áp dụng các biện pháp kỹ thuật như bờ kè bê tông, nhưng càng
ngày càng bác bỏ các biện pháp dựa trên chi phí-lợi ích.
Tàu chở cát đậu ở xã Bình Phú. [Ảnh: Hải Thanh/FT]
Chánh phủ cũng chú trọng đến chiến dịch quảng bá, “để người
dân có thể thấy sự nguy hiểm của sạt lở ngắn hạn”. Họ lo sợ cho cuộc sống, ông Nhân nói thêm:
“Họ có kinh nghiệm sông nước.” Chánh phủ
Việt Nam khuyến khích các công ty khai thác cát tìm cách khác để sản xuất cát:
xay đá để làm cát xây dựng hay sử dụng cát biển cho bãi rác, ông Nhân nói. Việt Nam cũng cấm xuất cảng cát từ năm 2017,
nhưng các nhà môi trường tin rằng những người khai thác cát đang tìm cách để
tránh việc cấm đoán. Báo chí do nhà nước
kiểm soát – chỉ dấu đáng tin cậy của ưu tư chánh thức và giới hạn của việc thảo
luận – đã bắt đầu tường trình sự việc đang xảy ra ở ĐBSCL. Câu chuyện gần đây ở Cà Mau, một trong những
tỉnh giáp với biển nhiều nhất, nói rằng giới chức đã di tản dân và xây nhà mới
cho 5.000 người. Một số bài báo, với
hình ảnh sụp đổ của đường sá và nhà cửa, làm cho người đọc thêm rối loạn. Ông Eyler nói: “Chánh phủ Việt Nam đang thay
đổi 180 độ. Đó là cách thừa nhận sai lầm
và rất có ích.”
.
No comments:
Post a Comment