The ASEAN Post Team – Bình Yên Đông lược dịch
The ASEAN Post – 12 December, 2019
Một công nhân đang nhặt rác trên sông Marilao ở Bulacan, phía
bắc Manila, Philippines. [Ảnh: AFP]
Từ những dòng suối nhỏ cho đến các dòng sông trong khu vực,
Đông Nam Á (ĐNA) có hàng chục con sông quan trọng. Con sông nổi tiếng nhất ở ĐNA là sông Mekong
– chảy qua 5 quốc gia trong vùng.
Mekong, cũng là con sông dài đứng hàng thứ 12th
trên thế giới, là nguồn nước để uống, đánh cá và trồng trọt của hàng chục triệu
người. Nhưng cái mà nhiều người không
biết là nó cũng là nơi đổ rác và chất thải, khiến cho nó trở thành một trong
những dòng sông ô nhiễm nhất ở trong vùng.
Ô nhiễm sông ngòi không có gì mới lạ. Thật vậy, ô nhiễm đang xảy ra trong vùng bắt
đầu từ nhiều thế kỷ trước. Tài nguyên
thiên nhiên của ĐNA chịu áp lực nặng nề vì dân số gia tăng, đô thị hóa và thay
đổi khí hậu.
Phát triển kinh tế nhanh chóng và đô thị hóa làm suy thoái và
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, kể cả nước và các dịch vụ hệ sinh thái liên
hệ. Nhiều con sông trong vùng bị ô nhiễm
trầm trọng với chất thải đô thị, kỹ nghệ và canh nông, khiến cho Chỉ số Phẩm
chất Nước (Water Quality Index (WQI)) lên đến mức nguy hiểm.
Các con sông ô nhiễm
nhất
Con sông nổi tiếng nhất là sông Marilao chảy qua thủ đô Manila
của Philippines. Mức độ ô nhiễm của nó
là mối quan tâm lớn của cả chánh phủ Philippines lẫn thế giới. Những vật nguy hiểm và không thể tái chế như
các chai plastic và dép nhựa, cùng những thứ khác thường trôi trên sông. Các chất thải kỹ nghệ độc hại được đổ vào
sông mỗi ngày trong khi một số rác gia dụng khổng lồ cũng được thải vào sông.
Dựa trên phúc trình Tóm lược Chánh sách của Nghiên cứu tính
Khả chấp Cao cấp (Advanced Study of Sustainability’s Policy Brief), mức độ ô
nhiễm trong các sông trong vùng thủ đô Manila cao đến nỗi chúng có thể xem như
“cống lộ thiên”. Nguyên nhân chánh là
chất thải gia dụng không được thanh lọc được xả thẳng vào nguồn nước. Theo thống kê chánh thức, chỉ có 20-30% đơn
vị gia cư trong thành phố được nối với hệ thống nước thải. 70% còn lại sử dụng hầm cầu (septic tank),
trong nhiều trường hợp chất thải của con người ngấm vào nước ngầm.
Một con sông nổi tiếng khác ở trong vùng là sông Citarum chảy
qua một tỉnh ở Tây Java của Indonesia.
Sông Citarum là nguồn nước quan trọng cho nông nghiệp, cấp thủy, kỹ
nghệ, ngư nghiệp và sản xuất điện.
Nhưng nay nó chứa hàng tấn chất thải gia dụng và kỹ nghệ và
nồng độ thủy ngân trong sông cao hơn mức cho phép 100 lần. Ngoài ra, có 3 nhà máy thủy điện dọc theo
sông, nhưng với vấn đề ô nhiễm, các nhà máy nầy không thể hoạt động, khiến cho
các cộng đồng ở chunh quanh không có điện.
Nguồn: Nhiều nơi
Những sông khác trong vùng đang đối mặt với ô nhiễm gồm có
sông Irrawady ở Myanmar, Chao Phraya ở Thái Lan và Kinabatangan ở Malaysia. Nguyên nhân và ảnh hưởng ô nhiễm của chúng
giống nhau và tương tự như các sông trong vùng.
Yasmin Rasyid, nhà sinh học và chủ tịch của Ecoknights, nói
với The ASEAN Post qua một cuộc phỏng
vấn trên điện thoại rằng nguyên nhân của ô nhiễm dòng sông gồm có “ô nhiễm kim
loại nặng và thiếu thực thi luật pháp về vấn đề xả thải từ kỹ nghệ, lấn chiếm
bờ sông và hoạt động khai thác cát bất hợp pháp, phát triển bừa bãi dọc theo
sông, và xả chất thải rắn và hữu cơ vào nguồn nước.”
Các con sông được phục
hồi
Một số chánh phủ đã cứu xét chuyện nầy một cách đúng
đắn. Thí dụ, ý định của chánh phủ
Malaysia biến các con sông trong thủ đô của liên bang thành một điểm du lịch
vào năm 2020 đang hình thành với công tác dọn dẹp dưới dự án Dòng sông của Đời
sống (River of Life (ROL)). Dự án dọn
dẹp sông suốt 110 km hiện đã hoàn tất 86% và sẽ có đủ an toàn cho mục đích giải
trí trong nay mai.
Công tác dọn dẹp gồm có nhiều giai đoạn, chẳng hạn như thiết
lập các bẫy rác, và nâng cấp các hồ chứa nước lũ, nhà máy thanh lọc nước thải
và hệ thống ống cống.
Khi được hỏi về những công tác khác mà chánh quyền có thể làm
để hạn chế vấn đề và làm cho các sông trong vùng sạch hơn, Yasmin giải thích
rằng “chúng ta cần phải thúc đẩy việc thực thi luật pháp và gia tăng mức phạt
vạ đối với bất cứ vi phạm nào ở trong sông.”
Cô nói thêm, “Chúng ta cũng có quá nhiều cơ quan chánh phủ
phụ trách các lãnh vực khác nhau trong việc quản trị sông mà tôi nghĩ nên được
thiết kế lại để tránh việc dẫm chân nhau và bảo đảm sự toàn vẹn và hài hòa hoạt
động của các cơ quan chánh phủ.”
Phúc trình “Tóm lược Chánh sách” đề nghị rằng để có thể đối
phó với vấn đề nầy và cỗ vũ cho một biện pháp có hiệu quả trong việc phát triển
đô thị khả chấp trong vùng, các nhà hoạch định chánh sách cùng với lãnh vực tư
nhân và cộng đồng viện trợ quốc tế phải công nhận một biện pháp thống nhất để
bảo vệ các nguồn nước ở đô thị, kể cả việc soạn thảo các khuôn khổ pháp lý
thích hợp và các cơ chế thực thi luật pháp.
Cũng có nhu cầu phải khởi sự nghiên cứu tổng thể về giá trị
của lợi ích liên quan đến nước. Trị giá
thành tiền của việc cải thiện phẩm chất nước là một biến số thích hợp trong các
phân tích chi phí-lợi ích các chánh sách liên quan đến phẩm chất nước trong cả
hai lãnh vực công và tư.
Sau cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, nhận thức của
quần chúng phải được khuyến khích qua các chiến dịch vận động và giáo dục cũng
như sự minh bạch qua các chương trình tranh thủ quần chúng.
.
No comments:
Post a Comment