Mekong River at Golden Triangle 2018
Ảnh: Lymha
Mực nước tại các trạm trên dòng chính sông Mekong trong hạ lưu
vực, sông Bassac và sông Tonle Sap rất thấp, rất gần, có nơi còn thấp hơn đường
Min.
Bài
viết của GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân
Tóm
tắt: Chúng ta đang ở thời điểm giữa mùa
khô 2019-2020 mà hạn, mặn ở đồng bằng sông Cửu Long được cho là có thể còn gay
gắt hơn cả mùa khô “lịch sử” 2015-2016. Bài viết xem xét dòng chảy sông Mekong
trong hạ lưu vực trong nửa đầu mùa khô này ngay sau khi đập thủy điện Xayaboury đi
vào hoạt đông. Số liệu là từ cơ sở dữ liệu của Ủy hội sông Mekong. Từ đó một số
nhận xét và kiến nghị.
Mực
nước sông Mekong trong hạ lưu vực ở nửa đầu mùa khô 2019-2020
1. Hình
1 thể hiện các đường mực nước (H) tại trạm thủy văn Chiang Saen trên
đó có đường mực nước cao nhất (Max), thấp nhất (Min), và trung bình (Avg) [1]
[2]. Trên đồ thị bên trái còn có đường mực nước mùa khô năm 1992-1993 (màu tím)
và đường mực nước mùa khô năm 2003-2004 (màu xanh) lần lượt trước và
sau khi đập thủy điện đầu tiên ở thượng lưu vực sông Mekong, đập
Manwan đi vào hoạt động năm 1995.
Diện
tích lưu vực sông Mekong từ khởi nguồn trên cao nguyên Tây Tạng tính đến trạm
Chiang Saen là 169.000 km2. Bên phải, ngoài các đường Max, Min, Avg còn có
đường mực nước các mùa khô 2017-2018, 2018-2019. Đường mùa khô năm nay (màu
xanh lục, số liệu đến ngày 24.02) khởi đầu ngày 01.11.2019 rất thấp,
bằng đường mực nước Min rồi tăng dần như các năm trước. Đến ngày
06.01.2020 mực nước rơi từ 2,89 mét ngày 04.01.2020 xuống 1,73 mét sau khi đập
Jinghong giảm lượng nước tháo xuống hạ du từ ngày 01 đến ngày 04.01.2020, từ
1200 - 1,400 m3/s xuống 800 - 1,000m3/s, theo thông báo của MRC [3].
Hình
1 cho thấy sự phụ thuộc cao độ của mực nước tại Chiang Saen,
đặc biệt trong mùa khô vào chế độ vận hành của các đập thủy điện Trung Quốc, mà
đập cuối cùng gần biên giới Lào, Myanmar, Thái Lan nhất hiện nay là đập
Jinghong [4].
2. Đoạn
sông Mekong từ trạm Luang Prabang đến trạm Chiang Khan dài
293 km. Diện tích lưu vực khu giữa hai trạm là 24.000 km2.
Đập
thủy điện Xayaboury đi vào hoạt động ngày 31.10.2019. Nằm giữa trạm Luang
Prabang và trạm Chiang Khan, mực nước ở hai trạm này trong mùa khô 2019-2020
chắc chắn có nhiều thay đổi so với trước đây.
Mực
nước ở trạm Luang Prabang khởi đầu mùa khô năm nay ở mực nước trung bình Avg,
8,24 mét, thấp hơn các mùa khô trước nhưng sau đó và cho đến ngày 24.02 vẫn ở 8
mét, thậm chí có lúc tiệm cận đường Max. Đập Xayaboury tích nước là một lý do.
(Hình 2, bên trái).
Nếu
trong hai mùa khô trước, mực nước ở Chiang Khan luôn cao hơn Avg thì đầu mùa
khô năm nay, mực nước chỉ là 4,52 mét gần bằng mực nước Min 4,48 mét. Từ thời
điểm đó, tuy có lúc tăng lên 4,95 mét (ngày 08.01.2020) và 5,12 mét (ngày
21.12) nhưng mực nước luôn thấp, nằm giữa đường Min và Avg, (3,16 mét ngày
24.02).
Hình 3.
Đường mực nước tại Luang Prabang và Chiang Khan đến giữa mùa khô 2019-2020,
năm đầu tiên đập thủy điện Xayaboury đi vào hoạt động
Lưu
vực khu giữa hai trạm khá rộng, ngoài lượng nước từ Luang Prabang chảy về,
Chiang Khan còn nhận được lượng nước mưa trên lưu vực mà kể từ mùa khô năm nay,
đập Xayaboury tích lại một phần quan trọng. Mực nước tại Chiang Khan thấp hơn
các năm trước là do đập Jinghong khóa van một thời gian, là do hạn hán bởi biến
đổi khí hậu, hay do đập Xayaboury tích nước? Có cả ba lý do, nhưng chủ
yếu là do đập Xayaboury tích nước.
3. Đoạn
sông từ trạm Chiang Khan đến trạm Vientiane dài 137 km.
Diện tích lưu vực khu giữa hai trạm là 7000 km2.
Hình 4.
Đường mực nước mùa khô một số năm tại hai trạm Chiang Khan và
Vientiane
Khoảng
cách ngắn, lưu vực khu giữa không rộng. Vào mùa khô không có dòng bổ sung ngang
nên đường mực nước các năm ở hai trạm gần như đồng dạng, chỉ lệch ngày. Mực
nước đến giữa mùa khô năm nay nằm giữa đường Min và Avg.
4. Tại
các trạm Nakhon Phanom và Mukdahan.
Đoạn
sông từ Vientiane đến Nakhon Phanom dài 363 km, lưu vực
khu giữa hai trạm rộng khoảng 74.000 km2. Vào mùa khô lượng nước bổ sung ngang
không đáng kể vì ít mưa trên lưu vực. Do vậy, đường mực nước các năm ở hai trạm
gần như đồng dạng, chỉ lệch ngày (Hình 5, đồ thị trái và giữa) và gần với đường
Min.
Hình 5.
Đường mực nước mùa khô một số năm tại Vientiane, Nakhon Phanom
và Mukdahan
Mực
nước sông Mekong tại trạm Nakhon Phanom ngày 27.11.2019 là 0,79 mét. Nhiều bãi
cát ở đáy sông lộ thiên. Cũng trong những ngày này, nước sông từ màu vàng-nâu
chuyển sang màu xanh lục-xanh. (Hình 6, tin ảnh từ Bangkok Post).
Các
trạm Nakhon Phanom và Mukdahan cách
nhau 92 km với lưu vực khu giữa rộng 18000 km2. Vào mùa khô, sông Mekong chảy
truyền giữa hai trạm này (Hình 5, đồ thị giữa và phải).
5.
Tại các trạm Pakse, Stung Treng, Kratie và Kompong Cham
Trạm Pakse cách
trạm Mukdahan 256 km với lưu vực khu giữa rộng 154.000 km2. Tuy lưu vực khu
giữa rộng nhưng do ít mưa (các bản tin tuần của MRC) nên mực nước tại Pakse hầu
như đồng dạng với đường mực nước tại Mukdahan, trùng khớp và rất gần với đường
Min (Hình 7, bên trái).
Trạm Stung
Treng cách trạm Pakse 201 km. Lưu vực khu giữa hai trạm (mà một
phần nằm trên Tây Nguyên của Việt Nam) rộng 90.000 km2. Tuy nhận được lượng
nước bổ sung ngang từ ba sông Sesan, Serepok và Sekong, nhưng cho đến ngày
24.02.2020, mực nước tại Stung Treng vẫn thấp, bắt đầu mùa khô ở mực nước Min
và từ tuần đầu tháng 01 ở mực nước trung bình Avg. (Hình 7 bên phải).
Trạm Kratie ở
cách trạm Stung Treng 123 km về phía Nam, với khu giữa là 11000 km2. Kompong
Cham là trạm thủy văn kế tiếp về phía hạ du cách Kratie 135 km.
Đồ
thị cho thấy mực nước tại hai trạm mùa khô năm nay khởi đầu hầu như trùng với
đường mực nước Min cho đến ngày 24.12. Sau đó mực nước trạm Kratie tiến về mực
nước trung bình Avg, trong khi mực nước tại Kompong Cham thậm chí còn thấp hơn
đường mực nước Min. (Hình 8).
6.
Tại các trạm Phnom Penh Port và Phnom Penh trên Bassac
Cách
Kompong Cham 78 km sông Mekong chảy đến Phnom Penh và hợp lưu tại đây với sông
Tonle Sap từ Biển Hồ. Sông Bassac khởi nguồn từ Phnom Penh tại điểm hợp lưu.
Tại Phnom Penh có hai trạm thủy văn Phnom Penh Port (PPP)
và Phnom Penh Bassac (PPB). Nửa đầu mùa khô năm nay mực
nước tại hai trạm này trùng với đường mực nước Min tại mỗi trạm (Hình 9).
7.
Tại các trạm Neak Luong và Koh Khel
Sau
Phnom Penh, trên sông Mekong là trạm Neak Luong, trên sông
Bassac là trạm Koh Khel. Đường mực nước được thể hiện trong
Hình 10. Đường mực nước năm nay rất thấp, gần như trùng với đường mực nước Min.
8.
Tại các trạm Tân Châu và Châu Đốc
Mực
nước tại Tân Châu và Châu Đốc cũng
rất thấp. Hình 11 còn cho thấy ảnh hưởng của triều Biển Đông tại hai trạm ngày
càng sớm hơn, ngay từ đầu mùa khô, và ngày càng mạnh hơn.
Ảnh
hướng này cũng được nhận ra năm nay, ở mức độ thấp hơn, tại Neak Lương (Mekong)
và Koh Khel (Bassac) và tai hai trạm Phnom Penh. Hình 9 và 10.
9.
Tại trạm Prekdam và Biển Hồ
Đường
mực nước tại trạm Prekdam trên sông Tonle Sap năm nay cũng rất thấp, Hình 12
(trái). Hình 12 (phải) là đường dung tích của Biển Hồ, tính từ đường mực nước
tại trạm Kompong Luong từ 01.06.2019 đến 27.02.2020 [5].
Nhận
xét
(1)
Nhận xét bao trùm là mực nước tại các trạm trên dòng chính sông Mekong trong hạ
lưu vực, sông Bassac và sông Tonle Sap rất thấp, rất gần, có nơi còn thấp hơn
đường Min. Trừ tại trạm Luang Prabang.
(2)
Yếu tố nền trên hạ lưu vực nửa đầu mùa khô năm nay là khô hạn. Yếu
tố này dẫn đến lượng nước bổ sung ngang từ các lưu vực khu giữa rộng không đáng
kể. Sông Mekong hầu như chỉ chảy truyền. Điều này giúp nhận diện rõ thêm tác
động của đập Xayaboury lên hạ du của đập.
(3)
Việc cắt giảm lượng nước chảy về hạ du từ đập Jinghong năm nay (khoảng 400 m3/s
trong vòng 4 ngày, theo thông báo của phía Trung Quốc) minh chứng một lần
nữa sự mẫn cảm, sự phụ thuộc cao độ của thủy văn
sông Mekong ở hạ lưu vực vào việc vận hành các đập thủy điện ở Trung Quốc.
Sự
phụ thuộc này càng nghiêm trọng khi đặt nó trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn
cầu (mà sự khan hiếm nước ngọt ngày càng cao được dự báo) và chiến lược “Hưng
thủy cường điền” đã và đang được thực thi. Tại tỉnh Vân Nam, ngoài các đập
thủy điện, Trung Quốc đã xây dựng hơn 30 hồ nước và hơn 5500 “thủy khố” với
dung lượng lưu giữ tăng thêm năm 2017 là 1,22 tỷ m3.
(4)
Đập thủy điện Xayaboury đã tạo ra bậc thang nhân tạo đầu tiên trên sông Mekong.
Mực nước ở trạm Chiang Khan thấp đi hẵn. Sự khô hạn cho tới thời điểm này trong
hạ lưu vực làm rõ ra tác động của đập. Lòng sông phơi đáy, sự đổi màu nước sông
Mekong tại Nakhon Phanom có nguyên nhân từ đâu?
(5)
Mực nước tại trạm Kompong Luong và dung tích Biển Hồ thấp báo hiệu rằng sự điều
tiết nước từ sông Mekong vào Biển Hồ và từ Biển Hồ về đồng bằng sông Cửu Long
có thể sẽ có những thay đổi mang tính cấu trúc về khối lượng và thời
gian nếu 10 đập thủy điện khác sẽ được xây dựng.
(6)
Ảnh hưởng của triều Biển Đông lên khá xa trên sông Mekong và trên sông Bassac.
Tại Tân Châu và tại Châu Đốc, ảnh hưởng triều sớm hơn, với biên độ lớn hơn.
Nguyên nhân từ đâu? Do hạn hán, mực nước về thấp? Do ảnh hưởng của nước biển
dâng? Hay do khai thác cát quá mức gây sạt lở, làm cho mặt cắt các sông rộng
hơn, sâu hơn? Có cả ba, nhưng theo tác giả chủ yếu từ lý do thứ ba.
(7)
Các yếu tố trong sáu nhận xét trên đây không tác động riêng lẻ mà cùng lúc và
liên hoàn với nhau.
Kiến
nghị
(A) Cần
theo dõi sát sao tác động của đập Xayaboury vừa đi vào hoạt động, cả
trong mùa mưa sắp đến. Lũ lụt ở hạ du về mùa mưa là điều có thể dự báo và đã
được cảnh báo. Từ tác động của Xayaboury, kiến nghị:
(A1) Đánh
giá đầy đủ tác động của các đập thủy điện khác trên dòng chính sông Mekong;
(A2) Xem
xét lại hiệu quả của cơ chế tham vấn của MRC.
(B)
Mực nước thấp, truyền triều vào sâu hơn, sớm hơn, vượt qua Tân Châu và Châu
Đốc, và mặn theo đó xâm nhập sâu hơn, sớm hơn, không chỉ có nguyên nhân biến
đổi khí hậu, nước biển dâng. Còn có tác động từ con người từ thượng nguồn xuống
đến châu thổ ra Biển Đông.
(B1) Khai
thác nguồn nước sông Mekong không thể chỉ có quyền lợi mà còn có trách nhiệm
của các quốc gia trong lưu vực;
(B2) Quản
lý và quản trị của Nhà nước phải nghiêm và hiệu quả hơn nữa, nhất là đối
với việc khai thác cát, sỏi trên các nhánh sông Mekong, và sông Bassac.
(C) Ngoại
giao về nước trong nội khối ASEAN, giữa Cộng đồng ASEAN với Trung Quốc
là cấp bách và cần được đặt lên vào chương trình nghị sự của các quốc gia trong
lưu vực và các thể chế có liên quan. Nhiều sông quốc tế (nghĩa là chảy qua
nhiều quốc gia) đã được các Công ước quốc tế điều chỉnh. Tại sao không
xây dựng một công ước như vậy cho sông Mekong, từ Tây Tạng ra đến Biển Đông ?.
Khó nhưng không thể không làm [6].
Chú
thích:
[1]
Các đồ thị trong bài viết được trích xuất
[2]
Max, Min và Avg dược MRC tính trên chuỗi số liệu (1980-2018).
[3]
Chế độ vận hành của tất cả các đập thủy điện trên thượng lưu vực không được
thông báo cho MRC và các quốc gia thành viên. Phia Trung Quốc chỉ thông báo cho
MRC những gì và vào lúc họ cho là cần.
[4]
Trung Quốc có kế hoạch xây dựng hai đập thủy điện khác gần biên giới hơn nữa là
Ganlanba và Mengsong.
[5]
Dung tích Biển Hồ được tính từ mực nước sông Tonle Sap tại trạm Kompong Luong
(cơ sở dữ liệu MRC) do Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện.
6]
Nguyễn Ngọc Trân, Mekong là một con sông quốc tế và không chia cắt, tham luận
tại Hội thảo quốc tế “Hợp tác quản lý nguồn nước Tiểu vùng sông Mekong mở
rộng”, do Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội và Konrad Adenauer
Stiftung đồng tổ chức tại Hà Nội, ngày 16.10.2018.
- GS.TSKH Nguyễn
Ngọc Trân
Đại biểu Quốc hội khóa IX,X,XI, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, Chủ nhiệm Chương trình khoa học nhà nước Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long (1983-1990)
No comments:
Post a Comment