Viet-Studies
29-2-2020
1. Không biết trân
trọng quà của tạo hóa
Trong cái nhìn của
riêng tôi, về mặt tự nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) là vùng đất rất đặc biệt. Vì hiếm nơi đâu trên quả đất này có một vùng
đất vừa được bồi đắp bởi phù sa với vô số sông ngòi chằng chịt vừa có núi non
bao quanh che chắn (như vùng Bảy Núi – Châu Đốc, An Giang), lại kề bên biển cả
quanh năm vỗ về (Trà Vinh, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau…). ĐBSCL vì thế, có thể
xem như món quà quý giá mà tạo hóa đã ban cho người Việt.
Nhưng món quà này,
thời gian qua chúng ta không những không biết trân trọng, giữ gìn mà còn tiêu
xài rất hoang phí thậm chí là xâm hại nó. Hậu quả là giờ đây ĐBSCL đang đứng
trước nguy cơ tan rã, chưa kịp phát triển đã lụi tàn. Và người dân nơi đây
đương nhiên là những người phải gánh chịu hậu quả trước nhất. Câu nói cửa
miệng “Đi Bình Dương bán nước tương” đang ngày một trở nên phổ
biến trong suy nghĩ của người dân nơi đây là một minh chứng rất cụ thể cho vấn
đề này. Còn gì tệ hại và xót xa hơn khi những cư dân của vùng đất trù phú và
giàu có được mệnh danh là “thủ phủ trái cây” hay “vựa lương thực” của cả nước
giờ đây phải tay xách nách mang, bỏ xứ, ly hương để đi tìm kế sinh nhai?
2. Từ bàn hội thảo
đến các cuộc “giải cứu” ngoài đồng ruộng, ao cá, vuông tôm
Những điều tôi vừa
nói ở trên hẳn nhiều người đã nghe, đã biết và đã thấy nhất là với các nhà quản
lý, các chuyên gia, các nhà khoa học “hàng đầu” về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn. Tôi không có thời gian để thống kê đã có bao nhiêu cuộc hội nghị, hội
thảo lớn nhỏ được tổ chức từ Trung ương đến địa phương cũng như các công trình
khoa học, các đề án, dự án có liên quan đến việc đề xuất ý tưởng và giải pháp
nhằm “giải cứu ĐBSCL” trong khoảng 10 năm trở lại đây nhưng tôi biết chắc tình
hình ĐBSCL đang ngày một biến chuyển xấu hơn.
Ví như, gần đây
nhất là “Hội nghị Diên Hồng cho ĐBSCL” diễn ra trong
hai ngày 26, 27/09/2017 tại thành phố Cần Thơ với hơn 500 đại biểu trong và
ngoài nước tham dự. Ngay sau Hội nghị ấy là bản Nghị quyết số 120/NQ-CP
về “Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu”
được Thủ tưởng Chính phủ đã ký ban hành ngày 17/11/2017. Nhưng cũng chỉ một năm
sau đó, người ta lại tiếp tục tổ chức Hội thảo với tên gọi “Một năm
thực hiện Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng biến đổi khí
hậu”. Thật thảm thương thay, kết luận của lần hội thảo này hóa ra những vấn
đề đặt ra trong bản Nghị quyết một năm trước vẫn chỉ “nằm trên giấy”!? Trong
khi đó đời sống (cả về vật chất lẫn tinh thần) của người dân thì vẫn trong
cái vòng luẩn quẩn “đất giàu người nghèo” và những cuộc “giải cứu” nông sản,
thủy sản vẫn cứ đến hẹn lại lên.
Là người sinh ra và
lớn lên tại vùng đất này, tôi hoàn toàn thấu hiểu và cảm thông cho nỗi nhọc
nhằn, vất vả của người dân quê tôi, nhất là vào những dịp thu hoạch nông sản
nhưng không bán được phải đổ bỏ hay chất đống chờ sự “giải cứu” từ các nhà hảo
tâm mà chúng ta đã chứng kiến.
Đặc biệt, phải nói
thật là mỗi khi nghe các “chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp” ở Việt Nam trình
bày các giải pháp xây dựng và phát triển vùng ĐBSCL có không ít quan điểm rất
khó thuyết phục được tôi. Vì là “người trong cuộc” tận mắt chứng kiến và trải
nghiệm nên với tôi có không ít giải pháp chỉ có ý nghĩa thuần túy về phương
diện lý thuyết mà thôi. Hay nói khác đi, cái hạn chế lớn nhất của các chuyên
gia hiện nay trong khi đề ra các ý tưởng và giải pháp là sự thiếu hụt cái nền
tảng rất quan trọng nhất là về phương lịch sử và văn hóa vùng
ĐBSCL. Thế nên, dù có rất nhiều giải pháp đã được đề xuất, bàn thảo nhưng xem
ra cái khoảng cách từ bàn hội thảo đến thực tiễn cuộc sống của người dân nơi
đây cô cùng xa xăm dịu vợi.
Qua quan sát và
theo dõi, tôi biết hiện có một quan điểm đang dần trở nên phổ biến, lặp đi lặp
lại nhiều lần trong các cuộc hội thảo về ĐBSCL đó là: Có không ít người cho
rằng“người dân ĐBSCL không thể giàu là do trồng lúa và khuyên họ cần thay
đổi tư duy trong vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thì mới khá lên
được”. Tôi cho rằng đây quan điểm này rất chủ quan, chỉ nói lấy được mà
chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, thấu đáo.
Thứ nhất, khi
bàn về chuyện người dân ĐBSCL lâu nay “trồng lúa nhiều nhưng vẫn không
giàu” thì cần phải nói thẳng cái lỗi này phần lớn là do các cơ quan
quản lý Nhà nước về nông nghiệp và lượng thực. Thế nên, tư duy đúng trong
chuyện này là nếu người nông dân làm lúa không giàu thì việc đầu tiên cần làm
là Nhà nước phải thay đổi (tư duy và cung cách quản lý) để người dân giàu lên
chứ không phải kêu họ bỏ lúa đi không trồng nữa.
Thứ hai, thực
tế nhiều người dân trồng lúa ở ĐBSCL thừa biết họ đã và đang không giàu vì cây
lúa nhưng đa phần họ cũng không hoàn toàn an tâm khi chuyển sang trồng mía,
xoài, sầu riêng, mít Thái, dưa hấu hay nuôi tôm, nuôi cá ba sa như gợi ý và
khuyến cáo của các chuyên gia. Vì sao? Vì đâu phải vùng nào cũng trồng cây và
nuôi cá, nuôi tôm được? Hơn nữa chi phí đầu tư (con giống, kỹ thuật, thời gian
chăm sóc và thu hoạch kéo dài…) và nhất là “đầu ra” sản phẩm vẫn là một sự bấp
bênh, mơ hồ (vì nhìn chung hiện nay tất cả gần như phụ thuộc hoàn toàn vào thị
trường tiêu thụ Trung Quốc) và đâu phải người trồng lúa nào cũng rành kỹ thuật
nuôi cá, nuôi tôm…
Một cách cụ thể
hơn, chúng ta hãy thử làm phép tính và so sánh: Hiện nay do dân số ngày một
tăng, bình quân mỗi hộ nông dân ở ĐBSCL sở hữu vài ba công ruộng, nếu trồng lúa
thì một năm ít nhất cũng thu hoạch được 2 vụ. Và dù không giàu nhưng nếu bắt họ
phải chuyển sang trồng cây ăn quả thì hãy hình dung xem với chừng ấy diện tích
canh tác ấy họ sẽ trồng được bao nhiêu gốc xoài, sầu riêng, hay mít Thái với
khoảng thời gian kể từ khi xuống giống đến lúc thu hoạch trung bình từ 2 đến 3
năm. Trong 2, 3 năm này thì lấy gì để ăn và đầu tư cho con cái học hành? Còn
đào ao nuôi cá ba sa hay nuôi tôm sú, tôm càng xanh, cua biển ư?
Trên thực tế
việc này khó khăn hơn rất nhiều vì những yêu cầu về kỹ thuật chăm sóc và chi
phí đầu tư rất lớn. Theo tôi biết đã có không ít người nông nghe theo lời khyên
của các chuyên gia “thay đổi cơ cấu cầy trồng” hay xen canh “một vụ lúa, một vụ
tôm” trong một năm giờ đã phá sản, lâm vào cảnh nợ nần dẫn đến gia đình ly tán,
vợ chồng con cái mỗi người một nơi tìm kế mưu sinh…
Thứ ba,
xã hội hiện đại, mọi việc đều phải được chuyên môn hóa, mỗi cá nhân chỉ cần làm
tốt phần việc mà mình đã được xã hội phân công. Người nông dân canh tác trên
đồng ruộng, vườn cây, ao cá đã vất vả rồi thì sao lại bắt họ phải chạy đi tìm
thị trường để tiêu thụ? Đồng ý rằng hạn chế lớn nhất của nông dân hiện nay là
sự bảo thủ, tầm nhìn ngắn hạn, chỉ thấy cái lợi trước mắt… nhưng hãy nghĩ xem
cho đến tận bây giờ toàn vùng ĐBSCL vẫn không có một kho dự trữ và bảo quản hay
sơ chế nông sản sau thu hoạch đúng nghĩa thì là lỗi của ai?
Hay như việc nhiều
người dân chỉ biết chạy theo số lượng đã không tuân thủ quy trình sản xuất an
toàn, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật vô tội vạ nên không đảm bảo chất lượng đầu
ra của sản phẩm (để có thể xâm nhập vào các thị trường khó tính ngoài Trung
Quốc) thì suy cho cùng lỗi này cũng không nên đổ hết lên đầu họ. Các cơ quan
quản lý Nhà nước như Bộ công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
Tài nguyên và môi trường… hãy nghiêm túc tự vấn lại xem có phải những chủ
trương chính sách của mình đưa ra xung quanh vấn đề này đang tồn tại nhiều bất
cập và không hợp lý hay thậm chí là bị chi phối bởi các “lợi ích nhóm” không?
Trao đổi những vấn
đề trên đây, tôi hoàn toàn không có ý phủ nhận những kiến nghị hay giải pháp
của các chuyên gia mà muốn qua đây gợi mở một góc nhìn, một cách tiếp cận khác
để tất cả cùng tham khảo. Hay ít ra để tất cả chúng ta khi trao đổi thảo luận
về những giải pháp nhằm phát triển ĐBSCL nên có cái nhìn thực tế và gần gũi hơn
với nhận thức, suy nghĩ và điều kiện của người dân nơi đây. Và như tôi đã nói ở
trên, các giải pháp đưa ra nhất định phải xuất phát từ cơ sở thực tiễn về lịch
sử và văn hóa của con người nơi đây.
Ngoài ra, các cơ
quan quản lý Nhà nước phải có tầm nhìn để không phải vô tình hay cố ý biến
người nông dân trở thành công cụ để kiếm tiền cho bọn gian thương và những kẻ
cơ hội chính trị, đầu cơ và “tham nhũng chính sách”, dự án… Có như thế thì may
ra Nghị quyết của Chính phủ mới có cơ hội “đi vào cuộc sống” và về lâu dài
những cuộc bồng bế đi “Bình Dương bán nước tương” của người
dân vùng ĐBSCL không còn tấp nập và ngậm ngùi, xót xa như hiện nay.
3. Thay lời kết
Đến hẹn lại lên,
theo chu kỳ trong năm, ĐBSCL hiện tại đang vào mùa khô hạn và xâm ngập mặn.
Theo phân tích và lý giải của các nhà khoa học trong nước và thế giới thì việc
nhiều con đập thủy điện được xây dựng trên thượng nguồn sông Mê Kông dọc theo
lãnh thổ các quốc gia láng giềng (nhiều nhất là Trung Quốc) cùng những tác động
của vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu là hai nguyên nhân chính gây ra vấn nạn
trên ở ĐBSCL. Nếu như biến đổi khí hậu thuộc về “thiên tai” thì các đập thủy
điện ngăn dòng chảy ở thượng nguồn sông Mê Kông là do con người gây ra. Cả hai
vấn đề này, theo tôi Việt Nam giờ đây rất khó mà tác động và thay đổi được. Thiên
tai đã đến thì phải chịu còn những cái đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê
Kông, nhất là trên đất Trung Quốc vốn còn là cái bẫy, cái gọng kìm mà họ cố
tình làm ra để khống chế Việt Nam.
Xét trong bối cảnh
và tình hình như vậy, có thể nói muốn xây dựng và phát triển bền vững vùng
ĐBSCL thì điều căn cơ và quan trọng trước hết là ta phải tự cứu ta. Nhưng làm
sao cứu? Cứu bằng cách nào? Theo tôi, hiện tại không còn cách nào khác là phải
tìm về với lịch sử, văn hóa của cha ông trong suốt hành trình 300 năm khai
hoang lập địa để học tập cách hòa mình chung sống cùng thiên
nhiên, trời đất…
Nên nhớ rằng ĐBSCL
đã từng là vùng đất “ma thiêng nước độc”, “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tợ
bánh canh” hay “dưới sông sấu lội trên bờ cọp um”… Hơn nữa, “Chúa đóng cửa
này sẽ mở cửa khác cho con”!
Trong cái nhìn như
thế, tôi cho rằng đã đến lúc cần thay đổi nhận thức và tư duy về mọi vấn đề có
liên quan đến ĐBSCL. Cụ thể là, thay vì bàn về các ý tưởng và giải pháp để
“phát triển” ĐBSCL chi bằng hãy đề ra ý tưởng và giải pháp hướng đến việc “bảo
tồn” và gìn giữ vùng đất này. Vì “bảo tồn” nhìn ở giác độ văn hóa cũng bao
hàm trong đó sự “phát triển” rồi. Đặc biệt, khi chúng ta xuất phát từ tâm thế
“bảo tồn” và gìn giữ thì sẽ tránh được những giải pháp tuy hiện đại, mang lại
hiệu quả kinh tế nhất thời nhưng lại vô tình xâm hại và phá vỡ toàn bộ cấu trúc
và hệ sinh thái rất đặc trưng, đặc thù của vùng đất này. Điều đó cũng có nghĩa
sẽ làm cho nguy cơ “tan rã” ĐBSCL diễn ra nhanh hơn.
Hãy thử nghĩ xem,
nguồn nước ngọt ở ĐBSCL hiện nay không những đang thiếu hụt mà còn bị ô nhiễm
thì sự hiện diện của một nhà máy sản xuất giấy như Lee & Man – Hậu Giang
(chẳng liên quan gì đến kinh tế nông nghiệp) ngay bên dòng sông Hậu ngày đêm xả
thảy ra con sông này thì có thể xem là giải pháp nhằm xây dựng và phát triển
bền vững ĐBSCL không?
Tóm lại, một vùng
đất vốn trù phú giờ đây đang đứng trước nguy mất đi thì tại sao chúng ta không
lo, không nghĩ đến chuyện gìn giữ và bảo tồn? Đương nhiên để ý tưởng “bảo tồn
ĐBSCL” trở thành hiện thực thì rất cần một tầm nhìn và “quyết tâm chính trị” và
dĩ nhiên là vai trò của các nhà khoa học phải được tiếp tục phát huy nhưng (như
đã nói ở trên), tất cả phải trên cơ sở về một tầm nhìn, chiều sâu và “nội lực
văn hóa”.
.
No comments:
Post a Comment