Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Trần Tế Xương
Năm 1979, nhà văn Nguyên Ngọc được bè bạn ở Cambodia mời xuống thuyền đi dạo chơi và thưởng thức một bữa cháo cá no cành hông luôn. Ra về, ông nói chắc như bắp: “Cá Biển Hồ, cứ vục tay xuống nước, túm lên ngay được một con, to tướng, béo ngậy.”
Năm 1979, nhà văn Nguyên Ngọc được bè bạn ở Cambodia mời xuống thuyền đi dạo chơi và thưởng thức một bữa cháo cá no cành hông luôn. Ra về, ông nói chắc như bắp: “Cá Biển Hồ, cứ vục tay xuống nước, túm lên ngay được một con, to tướng, béo ngậy.”
– Bộ thiệt vậy sao?
– Vâng, quả là có đúng như thế thật!
– Vâng, quả là có đúng như thế thật!
Chả thế mà cái hồ nước ngọt mênh mông này đã từng
nuôi sống mấy triệu ngư dân, và là nguồn cung cấp chất đạm chính cho
hai phần ba người dân ở Cambodia. Sở dĩ được vậy là nhờ vào dòng Mê
Kông, chứ không phải là gì khác.
Bắt đầu từ Tây Tạng nó chảy qua Trung Hoa, Miến, Lào,
Thái rồi khi vào đến Xứ Chùa Tháp thì “đụng” Tonlé Sap. Vào mùa
nước lớn, áp lực của Mê Kông khiến cho con sông nhỏ bé hơn phải chảy
ngược dòng làm tăng thể tích lẫn diện tích Biển Hồ. Tonlé Sap Lake
biến thành nơi sinh sống lý tưởng của rất nhiều loài cá nên “cứ vục
tay xuống nước, túm lên ngay được một con, to tướng, béo ngậy” không phải là
chuyện nói khi vui miệng.
Cách đây cũng chưa lâu lắm, vào hôm 1 tháng 5 năm
2005, một ngư dân ở Bắc Thái còn bắt được một
con catfish nặng tới 292 ký ở sông Mê Kông. Tuy thế, dường như,
cũng chả mấy ai coi đây là chuyện lạ lùng hay đáng để ngạc nhiên. Có
ngạc nhiên chăng là tất cả những điều vừa kể đều nay đã trở thành
huyền thoại.
Bây giờ thì mấy con giant catfish (và đủ loại
cá “khủng” khác nữa) chỉ còn thấy ở … trên bờ. Chúng được người dân
địa phương đúc hình bằng xi măng, rồi đặt dọc theo bờ sông để
(coi chơi) làm kỷ niệm – những kỷ niệm buồn!
Bữa nay mà Nguyên Ngọc thò tay xuống Biển Hồ thì chỉ
còn … bốc được nước thôi vì hằng trăm cái đập lớn/nhỏ xây trên dòng
Mê Kong đã chận đường sinh sản của vô số chủng loại di ngư, và khiến
chúng đang dần tuyệt chủng.
Năm 2014, lần đầu tiên vào Biển Hồ, tôi đã thấy đồng
bào mình nuôi cá thay vì đi lưới. Cùng lúc, những lúc rảnh rỗi, họ
cũng bắt ốc (mỗi ký bán được 4000 riels – cỡ một Mỹ Kim) để kiếm
thêm thu nhập. Tết rồi, tôi trở lại nhưng không thấy ai chống ghe loanh
quanh giữa những bè lục bình để tìm ốc nữa. Hỏi thăm thì nhận được
câu trả lời ráo hoảnh: “Còn đâu nữa mà bắt!”
Tôi hay ra vô Biển Hồ nhưng ít khi ở “chơi” lâu lắm. Bia
rượu rất hiếm, đã đành; điện cũng khỏi có luôn. Kiều
Bào ở ngoài này dùng bình ắc quy là chủ yếu, và chưa ai
từng nghe nói tới cái desktop hay labtop bao giờ. Còn
tui mà thiếu internet thì chắc chết (chết chắc) nên mắt
trước mắt sau là thế nào cũng lật đật giang ghe ra Pursat, rồi đón xe
đò chạy về lại Phnom Penh tức khắc.
Vừa tới nơi đã nhận được hung tin (“Hành khách trên du
thuyền cập cảng Campuchia nhiễm Covid-19”) nên tôi bay luôn qua Vientiane cho
nó đỡ phiền hà. Lên đến thượng nguồn mới hay là tình trạng “sức
khoẻ” của sông Mẹ (Mènam Khong, gọi theo tiếng Lào) cũng không được
khả quan gì cho lắm!
Khi còn ở Thái Lan, có bữa, đang ngồi lơ tơ mơ hút
thuốc lá vặt trên ban công của một cái khách sạn ở Nông Khai thì tôi
chợt thấy một con cò trắng giữa sông. Nó đang đứng trên dề lục bình
chăng? Không, có thấy bình/bát gì đâu. Hoá ra đoạn sông trước mặt có
chỗ cạn gần trơ đáy nên chú cò mới đứng được tỉnh queo trên cát như vậy
đó.
Bên Lào cũng không khác. Trụ sở Ủy Ban Sông Mê Kông
(Mekong River Commission – MRC) của nước này nằm sát cạnh bờ. Mấy
năm trước, mỗi khi đi ngang qua toà nhà này – vào mùa nước lớn – tôi
vẫn nghĩ vui rằng: Nếu đứng từ đây mà quăng cần câu máy, dám bắt
được cá lắm nha, gẩn xịt thôi mà. Bữa nay thì đất bồi đã xa ra cả
cây số rồi, chiều ngang con sông (cũng là ranh giới thiên nhiên của
Thái và Lào) đã thu hẹp lại chỉ còn khoảng còn đôi ba trăm mét là
cùng. Giữa trưa, đứng bên bờ này nghe rõ tiếng gà gáy (xao xác) bên
kia nước láng giềng mà không khỏi có thoáng chút cảm hoài.
Thảo nào mà tổ chức Save the Mekong cảnh báo:
“Chúng ta có lẽ là thế hệ cuối cùng có thể chèo thuyền trên dòng
sông này,hoặc thậm chí là có thể tưởng nhớ về sự hùng vỹ và rộng lớn một
thời của nó.”
Thượng điền tích thủy hạ điền khan! Lào, Thái mà còn khô
hạn đến như vậy thì VN – tất nhiên – phải thê thảm hơn nhiều:
– Drought, saltwater intrusion loom in the Mekong Delta
– Mekong Delta needs urgent measures to prevent drought
– Drought, saltwater intrusion double whammy for Mekong delta
– Mekong đang chết, Việt Nam “chọn”
gì?
– Hạn mặn và ô nhiễm 13 tỉnh miền Tây
– Đồng bằng sông Cửu Long: Kênh rạch cạn kiệt, ruộng đồng héo
khô
– Quá đắng và quá chát đồng bằng ơi!
– Đồng bằng sông Cửu Long oằn mình từng ngày đối phó nguy cơ
xoá sổ
Nhà nước VN “đối phó với nguy cơ xoá sổ” này bằng
cách nào?
Bằng … nghị quyết, quyết định và chỉ thị!
N.Q 20/NQ-CP, ban hành ngày 17 tháng 11 năm 2017: “Đưa ra
những chiến lược có tầm nhìn mới, định hướng chiến lược, các giải pháp toàn diện,
căn cơ, đồng bộ, huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia của các thành phần
kinh tế để phát triển bền vững ĐBSCL.”
Qua năm 2018, VTC NEWS (đọc được vào hôm 20
tháng 6) ái ngại cho hay: “1,7 triệu người đã rời khỏi đồng bằng Sông Cửu
Long.” Thế là Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc ký thêm cái Quyết Định
417/QĐ-TTg để ban hành chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số
120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
thích ứng với biến đổi khí hậu.”
Đến năm 2020, sau khi nghe báo cáo nhiều hồ chứa, hồ
thủy điện, thủy lợi xuống mức tích trữ chỉ đạt được 20-40 phần trăm
(so với mức dự tính) thì T.T Nguyễn Xuân Phúc ra “chỉ thị hỏa
tốc về việc triển khai các giải pháp cấp bách phòng, chống hạn hán, thiếu nước,
xâm nhập mặn.”
Nhà Nước quyền biến và linh động (tới) cỡ đó thì
kể như là hết biết luôn rồi!
Chả những thế, sau N.Q 2017 và QĐ 2018, cả thế giới
đều bàng hoàng khi biết: “Việt Nam trở thành đối tác với Lào trong dự án thủy
điện Luang Prabang.” Bỉnh bút Phú Lộc của Tạp Chí Luật
Khoa hốt hoảng đặt câu hỏi: “Đầu tư thuỷ điện ở Lào, Việt Nam chung
tay huỷ hoại sông Mekong?”
Câu hỏi này được hồi đáp tức thì:
– S Lê Anh Tuấn, Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Về Biến Đổi
Khí Hậu: “Các quan chức Việt Nam đồng lõa với quyết định hợp tác xây dựng dự án
thủy điện Luang Prabang phải chịu trách nhiệm lịch sử và chính trị với nhân dân
Việt Nam.”
– S Ngô Thế Vinh, tác giả Cửu Long Cạn Dòng Biển
Đông Dậy Sóng: “Từ nay Việt Nam sẽ chẳng thể còn một tiếng nói chính nghĩa và
thuyết phục nào đối với cộng đồng 70 triệu cư dân sống trong lưu vực sông
Mekong và trước cả thế giới.”
– Giám Đốc Chương Trình Đông Nam Á, Trung Tâm Nghiên Cứu
Stimson, Brian Eyler: “Việc một công ty Việt Nam tìm cách xây dựng đập
Luang Prabang trên dòng chính sông Me Kong ở Lào, theo tôi, Việt Nam đang phạm
sai lầm lớn… làm điều đó chẳng khác nào Việt Nam tự bắn vào chân mình.”
Nói thế thì e rằng tác giả Brian Eyler đã vô tình
đồng hoá đám cái lãnh đạo CSVN hiện nay với cả đất nước và dân tộc
này rồi. Chúng tôi chả có lý do gì để “tự bắn vào chân mình” hết.
Còn bọn họ thì có thể rót luôn súng đại bác vào di sản của tổ
tiên, nếu ra tiền, chứ có quan tâm hay đếm xỉa gì đến vài ba (trăm)
con đập ở thượng nguồn.
Tưởng Năng Tiến
3/2020
No comments:
Post a Comment