Sunday, September 4, 2022

CHÉN CƠM BỊ BỂ CỦA VIỆT NAM

 (Vietnam's Broken Rice Bowl)

James Borton – Bình Yên Đông lược dịch

Asia Times – August 26, 2022

 

Hàng ngàn hectares ruộng lúa trong huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, Việt Nam, bị thiệt hại vì hạn hán và nước mặn xâm nhập. [Ảnh: VNA]

 

Trong nhiều thế hệ, nông dân và gia đình canh tác ruộng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phì nhiêu đã dựa vào tài nguyên cá phong phú của sông và sản lượng lúa để sống còn.

Đối với hàng triệu người, nhịp sống là dòng chảy cố định của sông.  Những người sống dọc theo sông Mekong và các nhánh trong ĐBSCL đã công nhận “văn minh nước” của họ như tài sản tự nhiên được bảo tồn và duy trì cho các thế hệ tương lai.

Nhưng các chuyên viên và nông dân biết rằng hệ thống chằng chịt của sông và kinh đào bị đe dọa nghiêm trọng bởi thay đổi khí hậu, mực nước biển dâng, ô nhiễm kỹ nghệ và ảnh hưởng tai hại của các đập thủy điện ở thượng lưu.

Trên khắp vùng ĐBSCL, nhiệt độ gia tăng và nhưng thay đổi của cường độ mưa, dòng chảy, lũ lụt và hạn hán đang hủy hoại mùa màng, thủy sản và nhà cửa.  Từng được ca ngợi như kho báu đa dạng sinh học và chén cơm của Việt Nam, một số tỉnh ngày càng tăng đang gánh chịu hạn hán tàn phá lịch sử vả đối mặt với những thách thức an ninh lương thực thật sự.

Sông Mekong bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng và chảy qua gần 4.200 km trước khi chia thành Cửu Long (Chín Con Rồng) và đổ vào Biển Đông.  Ở ĐBSCL, gần 2 triệu người trong 6 tỉnh ven biển đang bị khan hiếm nước ngọt cực đoan.

Mực nước thấp kỷ lục trong hầu hết các thủy lộ và sông đang làm cho nước mặn xâm nhập tiến sâu vào đất liền, đến 90 km từ cửa sông, xóa sạch mùa màng và gây ô nhiễm nguồn nước.  Đối với nhiều nông dân trồng lúa, tiếng kêu “quá nhiều nước” không được lắng nghe; và nay thường hơn, tiếng kêu là “quá ít nước.”

Các nhà nghiên cứu nông nghiệp cảnh báo rằng, ngoại trừ những biện pháp khẩn cấp được thực hiện, toàn thể ĐBSCL, nơi cư trú của trên 20 triệu người, có thể chìm xuống nước trong một thế hệ.

“Nếu không có hành động nhanh chóng, đồng bằng và đời sống của nó có thể trở thành nạn nhân của thay đổi khí hậu và môi trường khu vực,” Rafael Schmitt, khoa học gia trưởng của Dự án Tư bản Thiên Nhiên của Đại học Stanford, nói.

ĐBSCL rất dễ bị tổn thương với những nguy cơ khí hậu.  Vì thay đổi khí hậu gây ra những đe dọa sống còn đối với hệ sinh thái mong manh trong đồng bằng, tiên đoán nhiệt độ không khí và nước biển gia tăng.

Theo Bộ Nông nghiệp Việt Nam, đồng bằng đang mất khoảng 500 hectares đất mỗi năm vì sạt lở.  Cũng thế, các lề lối quản lý nước và đất không khả chấp đang làm ô nhiễm sông và kinh đào.  Nước mặn xâm nhập đã lên đến 4 g/l ở nhiều nơi, 4 lần mức cho phép của hầu hết hoa màu.

Thăm lại chén cơm

Vào lúc bắt đầu chương trình Đổi Mới trong năm 1986, lãnh đạo chánh trị của Việt Nam dựa vào các kế hoạch quốc gia để đưa quốc gia ra khỏi nghèo khó và những khó khăn của Chiến tranh Việt Nam kéo dài.  Một phần trung tâm của chiến lược mới là mở rộng canh tác lúa không chỉ để nuôi cả nước mà còn là nhà xuất cảng gạo quan trọng.  Lúa là vấn đề vì nó là thức ăn chánh của ½ dân số thế giới.

Nay, các nhà khoa học đã cung cấp bằng chứng rằng người Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn nhất: thay đổi khí hậu, với giông bão mãnh liệt, hạn hán, và mất an ninh lương thực.

Ở ĐBSCL, nơi trên 1/3 gia đình với dưới ½ hectares đất ruộng, chánh phủ đã khuyến khích mô hình “ruộng nhỏ, nông trại lớn” được phối hợp bởi các doanh nghiệp nông nghiệp hay tập đoàn như Nhóm Sản phẩm Nông nghiệp Lộc Trời (LTA).  Nay nông dân đang tham gia vào hợp đồng canh tác gồm có gần 10% diện tích ruộng lúa trong một số tỉnh.


Nguyễn Minh Quang, đồng sáng lập của Diễn đàn Môi trường Mekong, phỏng vấn các nông dân trong ĐBSCL. [Ảnh: MEF]

 

Đối với nhiều nông dân, mô hình mới nầy cung cấp một lưới an toàn khả chấp.  Hệ thống Lộc Trời gồm có trên 40.000 nông dân nhỏ, và nó giúp công ty giám sát từ hạt giống đến thu hoạch và vận chuyển một hệ thống 24 hãng xưỡng trên khắp đồng bằng để phơi khô, xay, dự trữ và chuyển giao gạo.

Với khả năng hàng ngày gần 26.000 tấn lúa phơi khô, trên 22.000 tấn gạo và 1 triệu tấn gạo dự trữ, LTA có thể đáp ứng khối lượng lớn của đơn đặt hàng quốc tế từ Âu Châu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Australia, và giáo dục nông dân thích ứng với lề lối sản xuất lúa mới không lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu.

Một phúc trình của chánh phủ mới vừa công bố về việc biến đổi các mô hình phát triển và quy hoạch kết hợp chú trọng đến thay đổi trong mô hình nông nghiệp và đánh giá ảnh hưởng của Kế hoạch Kết hợp ĐBSCL 2021-2030.

Các nhà hoạch định chánh sách ở Hà Nội hiểu rõ tất cả những thách thức chết người được quy cho thay đổi khí hậu, suy thoái kinh tế, thiếu hụt nhân công và nguồn vật liệu thô không thể đạt phẩm chất xuất cảng tiêu chuẩn.

Phúc trình cũng chi tiết tính cấp bách để đầu tư ở đồng bằng và hợp tác quốc tế và hợp tác để giảm nhẹ thay đổi khí hậu.

Giảng sư Vũ Thành Anh, cựu khoa trưởng của Đại học Fulbright Việt Nam và nay là giảng viên trưởng và cầm đầu toán phúc trình nghiên cứu, nói đại dịch Covid-19 đã có ảnh hưởng lớn lao đến sự tăng trưởng kinh tế ở địa phương nhưng ĐBSCL là một điểm sáng, với thành phần nông nghiệp gia tăng 3,4%.

Chánh phủ trung ương đã hành động sau khi ĐBSCL bị mất mát lớn khi hạn hán nghiêm trọng kết hợp với nước biển dâng vào cuối năm 2015 và 2016.  Năm 2017, việc giới thiệu Nghị quyết 120 nhấn mạnh đến phát triển khả chấp và chịu đựng khí hậu trong khu vực.

Chánh sách quốc gia đã nâng cao hợp tác nông nghiệp để phát triển khả chấp và giúp nông dân cũng chú trọng đến việc trồng cây ăn trái, vì những vùng trồng lúa kém hiệu quả có thể biến dễ dàng thành vườn cây ăn trái hay rau cải chịu được hạn hán và mặn.

Cũng thế, trong thập niên vừa qua, khu vực đã chứng kiến việc di cư đều đặn của cư dân rời đồng ruộng để tìm việc ở các vùng đô thị, nhất là thành phố Hồ Chí Minh.  Các tỉnh đồng bằng với dân số sụt giảm lớn nhất trong năm 2020 là Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang và Cà Mau.

 

Theo một bài viết được phổ biến trên Hệ thống Báo chí Trái đất (Earth Journalism Network), nhiều vùng nơi trồng lúa kém hiệu quả đã được biến đổi để trồng hoa màu chịu hạn và mặn nhiều hơn chẳng hạn như thanh long, dừa, sen, cau và dưa hấu.

Nhà sinh học ĐBSCL Nguyễn Hữu Thiện nói: “Thay đổi khí hậu sẽ là ảnh hưởng môi trường đáng kể nhất trong tương lai.  Lũ lụt gia tăng tần suất; và cường độ, theo sau nước biển dâng, giông bão nhiệt đối theo mùa gia tăng như là kết quả.”

Đe dọa thủy điện đối với đồng bằng

Sông Mekong chảy qua 5 quốc gia, Trung Hoa, Myanmar, Lào, Thái Lan, và Cambodia trước khi vào Việt Nam.  Tất cả các quốc gia nầy xem thủy điện như cần thiết để tăng trưởng kinh tế.

Vào năm 2021, thượng lưu sông Mekong có 141 đập hoạt động.  Ngoài ra, có thêm 26 đập nửa đang xây cất. Đến nằm 2032, sẽ có tổng cộng 468 nhà máy thủy điện trên Mekong và các phụ lưu.  Mặc dù hầu hết những nhà máy nầy nằm ngoài Việt Nam, chúng ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của trên 20 triệu người ở ĐBSCL.

Dữ kiện cho thấy một hình ảnh u ám của ảnh hưởng của đập và hệ sinh thái ở hạ lưu với sự sụt giảm có hệ thống trong số cá đánh được và sản lượng lúa.  Sự sụt giảm chung trong việc canh tác lúa có liên hệ trực tiếp với sự vắng mặt của nước lũ mà trong lịch sử đã thúc đẩy việc trồng lúa nổi, hoa màu đặc biệt của ĐBSCL.

Sự cân bằng của sông và biển đang biến chuyển lớn lao.  Hạn hán trong quá khứ và hiện tại trong đồng bằng đã tán phá nguồn cung cấp lương thực và thêm vào việc tranh luận đầy ác ý đối với mẫu địa chánh trị “đập dòng chảy” ở thượng lưu Trung Hoa.  Các đập không chỉ ngăn chận nước lũ đến ĐBSCL mà còn ngăn chận phù sa bón phân cho đất và cung cấp thực phẩm cho cá.

Để tiết lộ đầy đủ, tôi là một đồng sáng lập của Diễn đàn Môi trường Mekong (MEF), một tổ chức phi chánh phủ có trụ sở ở Cần Thơ, Việt Nam.  Các chương trình tầm vói và các buổi hội thảo công tác về khoa học cho cư dân đối phó với vô số vấn đề môi trường.

Trong một hội nghị chuyên đề do MEF phối hợp trong quá khứ, Philip Minderhoud và Sepehr Eslami Arab của Đại học Uthecht, và thành viên nghiên cứu của Dự án Lên và Xuống (Rise and Fall), trình bày những điều được họ tìm thấy trong 6 năm nghiên cứu cho thấy rằng nước mặn xâm nhập ở ĐBSCL thì dưới 5% do thay đổi khí hậu, nhưng phần lớn quy cho việc phát triển thủy điện. [Lời người dịch: Thủy điện làm tăng lưu lượng trong mùa khô nên không thể làm nước mặn xâm nhập thêm.]

Theo 2 nhà nghiên cứu, nguồn cung cấp phù sa sông đã giảm gần 90% vì các đập ở thượng lưu.  Những nghiên cứu của họ và những người khác nhấn mạnh rằng việc phát triển hạ tầng cơ sở thủy điện ở thượng lưu ảnh hưởng đến chế độ dòng chảy, phù sa và vận chuyển chất dinh dưỡng, ổn định đáy và bờ sông, năng suất cá, đa dạng sinh học và sinh học của lưu vực.

Sự suy thoái của dòng phù sa đến đáy và bờ sông nhanh chóng gia tăng ngoài chiều hướng khí hậu.  Khi các đập điều hành dòng chảy của Mekong và giết nhịp lũ, hồ Tonle Sap không còn có tác dụng như một hồ chứa nước giữ nước lũ lịch sử và vì thế không thể cung cấp đủ nước cho ĐBSCL.

Đồng thời, các lòng lạch sâu hơn của đồng bằng mời gọi gia tăng nước mặn xâm nhập từ nước biển dâng và khuếch đại thủy triều.  Thủy triều ngoài biển đi lên sông Hậu, tràn qua các đê và cuối cùng làm ngập trung tâm thành phố Cần Thơ.  Hệ thống tự nhiên là vùng đệm cho nước lũ đến đồng bằng được thay đổi một cách nhanh chóng.

Các đồng lụt đóng một vai trò quan trọng cho hệ sinh thái nông nghiệp và kinh tế xã hội của ĐBSCL, vì chúng cung cấp việc giữ nước lũ tự nhiên và làm giảm lưu lượng đỉnh trong mùa lũ.

Các nhà thủy học đồng ý rằng việc điều hành đập ảnh hưởng đến sông bằng cách tái phân phối dòng chảy và biến đổi từ năm nầy qua năm khác.  Mặc dù có sự khác biệt giữa các biến đổi do đập và khí hậu gây bất tiện nhiều lúc, Tonle Sap nay ở trong tình trạng sụp đổ nghiêm trọng vì các đập của Trung Hoa ở thượng lưu.

Những năm xây đập và hạn hán được tăng cường bởi thay đổi khí hậu đã thay đổi không chỉ một trong những nền thủy sản nước ngọt phong phú nhất thế giới mà còn ảnh hưởng đến những người sinh sống ở hạ lưu trong ĐBSCL.

Brian Eyler, giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Stimson và tác giả của Last Days og the Mighty Mekong (Những Ngày Cuối cùng của Mekong Hùng vĩ), qua dữ kiện vệ tinh cho thấy việc giữ nước kỷ lục của Trung Hoa đã đưa đến hạn hán nghiêm trọng hơn ở các quốc gia hạ lưu.

Eyler chú trọng đến một nghiên cứu do chánh phủ Hoa Kỳ tài trợ được công bố bởi Eyes on Earth làm nổi bật bằng chứng từ trạm đo đạc sông của Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) và viễn thám xác nhận rằng hạn hán  đang xảy ra là kết quả của chánh sách quản lý nước của Trung Hoa.

Dữ kiện cho thấy từ năm 1992 đến 2019, đo đạc vệ tinh của “độ ướt mặt đất” trong tỉnh Yunnan (Vân Nam), Trung Hoa đề nghị rằng khu vực thật sự có lượng mưa và tuyết tan trên trung bình một chút từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2019.

“Khi hạn hán đến, Trung Hoa kiểm soát hiệu quả dòng chảy của sông,” Eyler nói.

Tất cả dữ kiện gần đây vẽ một hình ảnh nguy hại của việc hạn chế dòng chảy của Trung Hoa từ thượng lưu vực Mekong.  Nghiên cứu khoa học xác nhận rắng Trung Hoa có thể làm nhiều hơn để giảm nhẹ hạn hán và duy trì mực nước sông trên trung bình.

Nghiên cứu của Stimson cho thấy một lề lối có hệ thống của “chánh sách dòng chảy” của Beijing diễn dịch đơn giản thành: Nước không bao giờ được chia sẻ nếu Trung Hoa chưa dùng trước hay ngoại trừ ai đó ở hạ lưu trả tiền.  Hành động nầy được nhấn mạnh trong thất bại của Trung Hoa để ký bất cứ hiệp ước quốc tế nào cho các sông xuyên biên giới của họ.

Trong việc để lộ thành tích địa chánh trị, chánh phủ Trung Hoa tin rằng nước sông Mekong là một tài nguyên có chủ quyền thay vì là một tài nguyên chung, đặt các chánh phủ ở hạ lưu cần phải bảo đảm quyền tiếp cận tự do với nguồn nước quốc tế, bảo tồn đa dạng sinh học và an ninh lương thực vào rủi ro.  Chương trình ngoại giao nước của Beijing sai lầm, vì các đập của họ làm yếu dòng chảy của sông và cho phép nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền.

Trong 3 thập niên, Trung Hoa đã xây đập trên thượng lưu Mekong, gây lo ngại cho các quốc gia ở hạ lưu rằng Trung Hoa có thể khóa vòi nước trong 1 ngày.  Trong năm 2020, hạn hán kỷ lục quét sạch hoa màu và gây ra khủng hoảng nhân đạo trong các vùng ở hạ lưu.

Lãnh đạo Trung Hoa đã tái xác nhận rằng Trung Hoa đã vượt qua khó khăn của mình và gia tăng dòng chảy từ sông Lancang để giúp các quốc gia Mekong giảm nhẹ hạn hán, và nói rằng Trung Hoa và các láng giềng phải tin cậy và giúp lẫn nhau để cùng tiến tới trước.

Vậy mà đối với quá nhiều láng giềng ở đồng bằng hạ lưu, thái độ của Trung Hoa tiếp tục làm tồi tệ hạn hán, gây sụt giảm trong số cá đánh được và sụt giảm trong sản lượng lúa, cho thấy một khoảng trống khổng lồ giữa hành động và lời nói của Beijing.

No comments:

Post a Comment