12/08/2019, 09:35 (GMT+7)
Mực nước sông Mekong năm nay rất thấp, khiến cho nhiều khả
năng mùa khô 2020 ở ĐBSCL sẽ rất căng thẳng. Nguy cơ thiếu nước ở ĐBSCL có thể
sẽ còn lớn hơn trong những năm tới. TS Tô Văn Trường, chuyên gia độc lập về tài
nguyên nước và môi trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam,
đã trao đổi với NNVN về vấn đề này.
TS Tô Văn Trường |
Những con đập gây rối
Năm nay, mực nước trên dòng Mekong rất thấp. Nhiều đoạn sông ở
Lào, Thái Lan nước thấp đến mức lộ cả đáy. Thưa ông, đâu là nguyên nhân chính
khiến cho mực nước sông Mekong năm nay thuộc vào những năm thấp nhất trong lịch
sử?
Theo quy luật chung vào những năm El Nino (cực đoan khí hậu)
toàn khu vực Đông Nam Á đều ít mưa hơn so với bình thường do “ổ đối lưu gây mưa
bị dịch về phía Đông”. Năm nay, hạn hán diễn ra ở hầu khắp các nước Đông Nam Á
do El Nino, mà ngay ở nước ta, đặc biệt là hạn ở miền Nam và miền Trung.
Mùa khô năm 2019 tổng lượng mưa trên các trạm khác nhau trên
lưu vực thiếu hụt so với trung bình nhiều năm khoảng 55%. Trong khi đó mùa mưa
thường bắt đầu từ tháng 5, nhưng năm nay đến muộn, làm lượng mưa tháng 7 thiếu
hụt lên tới 65%, đặc biệt khu vực thượng nguồn Mekong (bao gồm cả phía Trung Quốc),
mưa giảm nhiều và chỉ đạt trung bình 20% so với nhiều năm.
Hệ thống đập thủy điện thượng nguồn sông Mekong trên đất
Trung Quốc chỉ xả với lưu lượng rất hạn chế, chỉ bằng 1/3 - 1/2 của năm trước,
với lý do bảo trì lưới tải điện. Đập thủy điện Xayabury ở Lào tích nước vận
hành chạy thử tuốc bin. Các hồ thủy điện trên lưu vực đã có tích nước lên đến
55 tỷ m3. Các hồ đang và sẽ hoàn thành đến 2020 có thể đã tham gia tích nước
giai đoạn này lên tới 20 tỷ m3. Trong khi đó, các nước như Thái Lan và
Campuchia cũng sử dụng nhiều lượng nước để sản xuất cho nông nghiệp.
Tổ hợp các yếu tố do thiên tai và nhân tai nói trên làm cho mực
nước sông Mekong năm nay thuộc loại rất thấp, nhưng nguyên nhân chính là do hiện
tượng El Nino hạn hán bất thường trên toàn lưu vực và các nước thượng lưu tích
nước trong các hồ chứa thủy điện.
Không chỉ tới năm nay mà việc xây dựng hàng loạt đập thủy điện
ở thượng lưu đã gây nỗi lo ngại lớn đối với hạ lưu trong nhiều năm qua, nhất là
khi Lào và Campuchia cũng đã, đang và có ý định xây những đập lớn trên con sông
này. Mỗi một đập thủy điện được xây dựng lên trên sông Mekong, sẽ làm trầm trọng
thêm những nguy cơ đối với dòng sông này về dòng chảy, về tài nguyên nước…
Chúng ta cần phải làm gì trước thực trạng nói trên?
Khi xây dựng đập thủy điện có nghĩa là tác động vào thiên
nhiên, là bài toán đánh đổi “được và mất” cả về kinh tế xã hội và môi trường.
Theo tôi biết ở Thái Lan, người dân cũng kịch liệt phản đối việc con người tác
động bằng biện pháp công trình lên sông Mekong kể cả dòng chính và sông nhánh.
Họ lý luận rất đơn giản, theo tiếng Thái và tiếng Lào, Mê Nám có nghĩa là sông
Mẹ.
Con sông Mekong nuôi sống hàng chục triệu người dân. Nếu con
người tác động vào nó giống như đứa con làm tổn thương đến mẹ, và triệt đường sống
của dân. Họ còn thu thập chữ ký gửi phản đối lên Thủ tướng Thái Lan và phê phán
cả việc Trung Quốc xây các đập lớn ở thượng nguồn sông Mekong.
Những người ủng hộ xây dựng đập thủy điện thì lại cho rằng
dân số ngày càng tăng, nhu cầu năng lượng ngày càng lớn, phải khai thác tiềm
năng thủy điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội sao cho cái lợi lớn nhất và
thiệt hại ít nhất.
Các đập của Trung Quốc ảnh hưởng đến Việt Nam không nhiều vì
khá xa Việt Nam, lại có Biển Hồ của Campuchia điều tiết tự nhiên cả mùa lũ và
mùa kiệt. Đáng lo nhất là nếu các nước ở thượng lưu chuyển nước ra khỏi lưu vực
Mekong sẽ tác động lớn đến nguồn nước sông Mekong như thiếu nước, ảnh hưởng
đến phù sa, thủy sản, giao thông thủy, dịch chuyển dòng chảy… Các đập thủy điện
có kế hoạch xây dựng ở Lào và Campuchia sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ĐBSCL cả về
số lượng và chất lượng nước, gây ra lệch mùa dòng chảy vốn có của tự
nhiên.
Người dân ĐBSCL buôn bán ở trên sông. Ảnh: CGIAR. |
Chúng ta có diễn đàn và Hiệp định của Ủy hội sông Mekong quốc tế (MRC) của 4 nước ở hạ lưu vực để thảo luận và đưa ra các quy chế khai thác sử dụng nguồn nước một cách công bằng. Nhưng vai trò của MRC cũng rất hạn chế.
Dù vậy, ta vẫn phải đấu tranh yêu cầu các nước ven sông cần
thực thi nghiêm chỉnh hiệp định hợp tác hạ lưu vực sông Mekong đã ký kết 1995.
Yêu cầu phía Lào cung cấp các thông tin theo đúng quy định của thủ tục thông
báo, tham vấn và thỏa thuận của MRC (PNPCA).
Tuy nhiên, cách tốt nhất, chủ động nhất vẫn phải là “tự cứu
mình”. ĐBSCL ở hạ lưu với 13 tỉnh thành có diện tích gần 40 ngàn km2, là nơi
sinh sống của gần 20 triệu người dân, là vựa lúa, an ninh lương thực, sản lượng
thủy sản, trái cây cũng lớn nhất cả nước. Nông dân Nam Bộ có truyền thống vượt
khó, năng động, sáng tạo có nhiều sáng kiến cải tiến trên mặt trận sản xuất.
Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng yếu kém, rất cần sự quan tâm đầu tư đúng mức của
nhà nước nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Trong tương lai, biến đổi khí hậu làm cho lượng mưa các tháng
biến động nhiều hơn. Nếu Thái Lan chuyển nước sông Mekong ra ngoài lưu vực,
phía Campuchia nếu xây dựng công trình kiểm soát nguồn nước ở (Biển Hồ)
Tonlesap và thủy điện Sambo, lại gặp đúng thời kỳ El Nino, thì tình hình nguồn
nước ở ĐBSCL còn nguy cấp hơn nhiều.
Bởi vậy, bài toán quy hoạch tổng thể sử dụng nguồn nước một
cách khôn ngoan, và hiệu quả theo nguyên tắc quản lý lưu vực sông, đặc biệt dựa
trên tinh thần Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ở
ĐBSCL, càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Quản lý thiên tai khôn ngoan
Mưa ít ở thượng nguồn, xây dựng thủy điện trên sông Mekong… đều
là những vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của Việt Nam hay Việt Nam không thể tự
giải quyết được. Trong khi đó, những tác nhân trên đối với nguồn nước sông
Mekong đang hiển hiện ngày một thường xuyên và rõ rệt hơn. Cần phải làm gì để
ĐBSCL thích ứng được với tình trạng Mekong cạn nước, nguy cơ thiếu nước ngọt sẽ
còn diễn ra trong nhiều năm tới? Các giải pháp trữ nước ngọt cho ĐBSCL đã được
nêu ra như cải tạo Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên thành nơi trữ nước…, liệu
có khả thi không?
Giải pháp trữ nước ngọt ở Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long
Xuyên hoàn toàn khả thi. Về kỹ thuật thì bao lửng cũng phải giải quyết cống bọng
cho hoàn chỉnh như chống lũ triệt để, giảm thiểu tác hại khi cho nước vào theo
kiểu tràn bờ. Còn đê bao khép kín vượt mức báo động 3, ngoài việc bảo vệ sản xuất
là hạ tầng giao thông nông thôn đi lại cho văn minh hơn, thuận tiện hơn. Việc sản
xuất mấy vụ là tùy hoàn cảnh mà quyết định.
Nâng cấp hệ thống đê bao khép kín ĐBSCL làm nhiệm vụ tổng hợp
ngăn lũ và tích nước bảo vệ sản xuất cho nhiều mô hình có cơ cấu mùa vụ, cây trồng,
vật nuôi... khác nhau, trong đó có mô hình 2 vụ lúa, 1 vụ nuôi trồng thủy sản
tôm, cá kết hợp gieo trồng các loại cây thủy sinh thích hợp.
Riêng mô hình này, công năng của hệ thống đê bao khép kín là
sau khi thu hoạch xong vụ lúa đông xuân và vụ lúa hè thu, nếu gặp năm lũ lớn
thì mở cống đón lũ vào đồng cho đến khi đồng đầy nước thì đóng cống lại, gặp
năm lũ nhỏ thì dùng máy bơm điện bơm nước lũ vào đồng ruộng để tích lũ phục vụ
vụ nuôi tôm cá kết hợp trồng các loại cây như súng, ấu, sen, điên điển (chính
là vụ 3 hay còn gọi là vụ thu đông)...
Cuối mùa lũ đầu mùa khô, tôm cá đã đủ lớn cùng các loài cây
thủy sinh đã đúng kỳ cho thu hoạch thì xả nước lũ còn lại trong đồng ra sông,
kênh, rạch từ từ để thu hoạch. Lượng nước xả này sẽ chảy về miệt dưới giúp ngọt
hóa và giảm mặn trong mùa khô cho vùng duyên hải.
Cần xây dựng ngay tầm nhìn cho ĐBSCL. Đó là quản lý thiên tai
một cách khôn ngoan, sử dụng tài nguyên nước một cách hiệu quả vì một ĐBSCL
kinh tế ổn định, thịnh vượng, môi trường đa dạng và bền vững.
Nguồn nước và hạt lúa
Đê bao, bờ bao ở ĐBSCL đã phát huy vai trò lớn trong việc bảo
vệ các khu dân cư, bảo vệ sản xuất trong mùa lũ. Tuy nhiên, đê bao, bờ bao lại
bị nhiều người coi là nguyên nhân quan trọng khiến cho nước lũ trên sông Cửu
Long không được tích trữ lại trong các đồng ruộng ở vùng thượng nguồn mà bị đẩy
hết ra biển, qua đó góp phần không nhỏ gây ra tình trạng thiếu nước ngọt trong
mùa khô. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
Sau năm 1975, toàn vùng ĐBSCL tổng sản lượng lương thực mới
khoảng 5 triệu tấn, sản xuất chủ yếu là lúa 1 vụ (lúa dài ngày năng suất thấp).
Bài toán đặt ra là ngoài hệ thống kênh cấp nước, tiêu chua, xổ
phèn thì cần phải có hệ thống bờ bao để bảo vệ lúa hè thu và dùng bơm vợi
để tiếp tục sạ lúa vụ đông xuân đã được giải quyết từ thập niên 80 - 90 của thế
kỷ trước. Đây là kết quả đúc kết từ thực tiễn, sáng kiến của người nông dân Nam
Bộ, và của cán bộ địa phương.
Lúc sinh thời, cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt rất tâm đắc việc phát
triển đê bao và bờ bao là nền tảng cho vựa lúa ở ĐBSCL. Trong một bài viết đăng
báo ngày 16/10/2006 với nhan đề “Đê bao, bờ bao nền tảng làm giàu vựa lúa”, ông
cho rằng: “nhờ có hệ thống công trình thủy lợi đa mục tiêu, chúng ta đã đánh thức
được tiềm năng của hai “kho đất” lớn ở tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
Chính từ những đê bao, bờ bao đã hình thành hệ thống giao
thông, nơi ở an toàn cho người dân vùng ngập lũ, cuộc sống của người dân vùng
ĐBSCL ngày nay được an toàn hơn, sản xuất chủ động (lúa, màu, cây ăn trái, thủy
sản nước mặn, nước ngọt…), ngành nghề phát triển đa dạng, giao thông nông thôn
thông thoáng hơn.
Hệ thống thủy lợi đã tạo ra nền tảng làm giàu cho vựa lúa hôm
nay, góp phần đắc lực vào chương trình an ninh lương thực quốc gia và ổn định
kinh tế - xã hội”.
Từ thực tiễn trên, cho thấy “sống thuận thiên” ở ĐBSCL theo
Nghị quyết 120 của Chính phủ trong thời gian tới không phải là phá dỡ hệ thống
đê bao khép kín, mà phải khắc phục những mặt còn hạn chế, phát huy các mặt tích
cực để mang lại lợi ích to lớn cho ĐBSCL.
Các ý kiến phê phán hay băn khoăn về các mặt tồn tại của đê
bao, bờ bao được đề cập như mức độ ảnh hưởng đến thoát lũ, khả năng lấy phù sa,
sạt lở bờ bao sau mỗi trận lũ, phát triển quá nhiều lúa vụ 3 trong đê bao, là rất
đáng hoan nghênh, trân trọng bởi vì nó giúp cho những người có trách nhiệm phải
xem xét, điều tra, tính toán để cần thiết bổ sung, đưa ra những biện pháp khắc
phục các mặt còn khiếm khuyết.
Tuy nhiên, cần tránh những nhận xét phiến diện, chủ quan, cục
bộ, chỉ biết khai thác những điểm còn tồn tại, hạn chế cả trong quá trình thực
thi cũng như trong quản lý, vận hành, mà không dựa vào tổng thể chung của cả hệ
thống để đánh giá một cách khách quan và khoa học những hiệu ích to lớn do đê
bao, bờ bao mang lại.
Sở dĩ tôi phải nhấn mạnh như vậy vì trong quá khứ đã có không
ít thế này thế khác quanh chủ trương xây dựng hồ Dầu Tiếng, kênh Hồng Ngự,
chương trình thoát lũ ra biển Tây, cầu Mỹ Thuận... Song, trên thực tế, lợi ích
to lớn của các công trình nói trên cho đến nay thì ai cũng hiểu (ngay kênh Hồng
Ngự được người dân biết ơn Nhà nước, đặt tên là kênh Trung ương).
Sông Mekong ở thượng nguồn. Ảnh: Mekong Eye. |
Lúa là cây trồng chủ lực ở ĐBSCL khi chiếm diện tích lớn nhất, cho sản lượng hằng năm nhiều nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xuất khẩu gạo cả nước. Nhưng lúa lại được coi là một trong những loại cây trồng tiêu tốn nhiều nước nhất. Trong bối cảnh ĐBSCL ngày càng phải đối mặt với nguy cơ thiếu nước ngọt bởi biến đổi khí hậu và hoạt động xây dựng thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong, tình trạng nước sông Mekong xuống thấp, dẫn tới nguy cơ thiếu nước ngọt ở ĐBSCL sẽ diễn ra thường xuyên hơn, ĐBSCL có nên điều chỉnh lại sản xuất lúa hay không?
Về lý thuyết hoàn toàn đúng, song trong thực tiễn không hẳn
như vậy. Lúa đúng là cây trồng tiêu tốn nhiều nước. Theo nhiều tài liệu, để sản
xuất ra 1kg gạo, cần 3.500 - 4.000 lít nước (hay 3,5 - 4m3 nước). Tuy nhiên, đó
là khi ta cần duy trì mực nước cho cây lúa đảm bảo cây sinh trưởng phát triển
bình thường, còn cây lúa không lấy đi theo nông sản lượng nước trên, giống như
chất dinh dưỡng từ phân bón.
Tuy nhiên, trong trường hợp cần bơm tưới thì vấn đề lại khác,
rất cần tính toán. Theo tôi, điều chỉnh diện tích lúa cho hiệu quả không phải
chỉ do thiếu nước mà có lẽ là cái chính là do hiệu quả kinh tế thấp.
Xin cảm ơn ông!
TRẦN THANH SƠN
No comments:
Post a Comment