(Mekong Region Needs to
Overcome Drought Together)
Dr. Liu Hui – Bình Yên Đông lược dịch
Khaosod English – August 8, 2019
Hạn hán ở Loei, Thái
Lan ngày 16 tháng 7 năm 2019.
Thái Lan và các quốc
gia khác trong khu vực Mekong càng ngày càng chịu nhiều thiệt hại do hạn hán
khốc liệt trong 5 thập niên qua. Các
quốc gia nầy không những cần một kế hoạch dài hạn để đối phó với khủng hoảng
đang xảy ra mà còn cần một sự hợp tác trong toàn khu vực.
Hạn hán, tiếp theo sau lũ lụt và bão tố, là
những thiên tai gây nhiều ảnh hưởng nhất trên thế giới. Theo một công bố trên website của Dữ kiện Tai
họa Quốc tế (International Disaster Database) năm 2018, 16% dân số ảnh hưởng
bởi tai họa trong năm 2018 là do hạn hán.
Trong vài thập niên qua, các quốc gia dọc theo
sông Lancang-Mekong đã gánh chịu nhiều trận hạn hán có mức độ khác nhau, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nông nghiệp, ngư nghiệp, sản xuất và đời sống. [Lancang là tên gọi sông Mekong ở Trung Hoa]
Khu vực Lancang-Mekong đang đối mặt với nhiệt
độ gia tăng như các nơi khác trên thế giới.
Nhiệt độ trên mặt đất từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2019 ấm hàng thứ 3 trong
170 năm. Theo tin tức được WMO [World
Meteorological Organization (Tổ chức Khí tượng Thế giới)] phổ biến, Trái đất
vừa có tháng 6 ấm nhất trong lịch sử. [Lời
người dịch: Tháng 6 năm 2019 không phải là tháng ấm nhất trong lịch sử.]
Mức sai biệt với nhiệt độ trung bình khoảng 1 oC
trong khu vực Lancang-Mekong trong năm 2019.
Khi nhiệt độ ấm áp đi kèm với hiện tượng El
Niño mạnh hay gió mùa Tây Nam yếu, hạn hán khốc liệt sẽ kéo dài trong khu vực,
giống như trận hạn hán bất thường trên toàn lưu vực trong năm 2016 và có thể
kéo dài hơn trong năm nay.
Thời kỳ
Ấm áp
Theo dữ kiện thời tiết, lượng mưa trong lưu vực
Lancang-Mekong từ tháng 1 đến giữa tháng 7 năm 2019 thấp hơn mức trung bình
khoảng 42%.
Lượng mưa thấp trong đầu mùa mưa năm nay cũng
được Văn phòng Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission Secretariat (MRCS))
loan báo trong các phúc trình hàng tuần từ tháng 6.
Theo chỉ số hạn hán (SPEI [Standardized
Pricipitaion Evapotranspiration Index]) từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2019, hạn
hán xảy ra trên toàn khu vực Lancang-Mekong.
Đối với lưu vực Lancang, hạn hán trở nên nghiêm
trọng hơn từ tháng 3 và đạt cao điểm trong tháng 5. Đối với trung lưu vực Mekong (Thái Lan, một
phần của Lào và Cambodia), mức độ nghiêm trọng của hạn hán ở mức vừa phải cho
đến nghiêm trọng từ đầu năm. Đối với
vùng đồng bằng Mekong, hạn hán xảy ra trong tháng 2, tháng 4 và chấm dứt trong
tháng 5.
Các hồ chứa trên sông Lancang trữ một phần nước
trong mùa mưa 2018, và xả nước bổ sung trở lại sông Mekong từ tháng 1 đến tháng
6 năm 2019, và mực nước trong các hồ chứa hạ dần xuống mực nước chết vào đầu
tháng 7.
Dự trù cho việc hết nước “bổ sung,” hồ Cảnh
Hồng quyết định tiến hành việc bảo trì định kỳ từ ngày 5 đến 19 tháng 7 để duy
trì lượng nước xả hợp lý.
Một thông báo về việc bảo trì được Bộ Thủy Lợi
Trung Hoa gởi đến các quốc gia Mekong và MRCS vào ngày 3 tháng 7. Và MRCS đã kịp thời công bố trên website vào
ngày 3 tháng 7, với tựa đề Lưu lượng từ
trạm Cảnh Hồng, Trung Hoa giao động, nhưng được dự đoán là không có ảnh hưởng
quan trọng.
Mới đây, tin tức về hạn hán trong năm nay đã
gia tăng và càng ngày càng thu hút sự chú ý từ nông dân cho đến các viên chức
chánh phủ cao cấp.
Theo tờ Cambodia Daily ngày 20 tháng 7, 2019,
hạn hán kéo dài ở Cambodia khiến cho các phụ lưu của hồ Tonle Sap cạn nước, gây
thiệt hại cho nông và ngư dân trong tỉnh Battambang. Dân làng ở đây không thể đánh cá từ tháng 4
do hạn hán. Họ không còn thức ăn và cầu
cứu với chánh phủ để được cứu trợ khẩn cấp.
Tình trạng hạn hán ở Thái Lan nghiêm trọng đến
mức chánh phủ phải yêu cầu Trung Hoa, Lào và Myanmar xả thêm nước để giảm bớt
tình trạng hạn hán ở Thái Lan như Thủ tướng Prayut Chan Chan-o-cha cho biết hôm
24 tháng 7 năm 2019.
Dựa trên các quan sát và nghiên cứu lâu dài về
hạn hán trong vùng Lancang-Mekong, tôi muốn mượn cơ hội nầy để chia sẻ những điều
tôi nhận thấy và đề nghị đến những người có liên hệ và những người có quyền
quyết định, với mục đích cải thiện khả năng cứu trợ hạn hán hỗn hợp để làm cho
khu vực Lancang-Mekong an toàn hơn.
Những điều
nhận thấy
(1) Kết quả phân tích hạn hán dựa trên thời
tiết cho thấy hạn hán nghiêm trọng ở đông bắc Thái Lan, hầu hết Cambodia và Lào
và gia tăng trong nửa thế kỷ qua, đặc biệt trong vài vùng ở đông bắc Thái Lan.
Trong hầu hết lưu vực, chu kỳ hạn hán do thời
tiết khoảng 25% do ít mưa, đặc biệt ở đông bắc Thái Lan và Cambodia; và
Cambodia và đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam có nhiều khả năng bị hạn hán
nghiêm trọng và bất thường.
Việc phân tích nguyên nhân của những trận hạn
hán tiêu biểu cho thấy rằng nguyên nhân chính của hạn hán trong lưu vực Mekong
là do lượng mưa thấp bất thường (so với lượng mưa trong cùng thời kỳ trong lịch
sử) do hiện tượng El Nino và sự luân chuyển bất thường của hệ thống đại
dương-khí quyển.
(2) Vì sự khác biệt giữa khả năng hỗ trợ kinh
tế quốc gia và sự phát triển các dự án bảo tồn nước, khả năng đối phó với hạn
hán của các quốc gia khác nhau.
Trong đó, sự phân phối của diện tích được dẫn
tưới thì không đồng đều ở Cambodia và khả năng đối phó với hạn hán khác nhau
của các vùng khác nhau. Số dự án thủy
nông và diện tích dẫn tưới ở Lào tương đối nhỏ và khả năng đối phó với hạn hán
hơi yếu.
Việt Nam và Thái Lan đã xây được nhiều dự án
thủy nông và hệ thống dẫn thủy có mật độ và qui mô tương đối cao, có thể bảo
đảm về mặt kỹ thuật cho việc chống hạn.
Đề nghị
(1) Khai thác tiềm năng và tăng cường khả năng
của các quốc gia trong việc đối phó với thiên tai.
Các quốc gia Mekong đã thiết lập các tổ chức
ngăn ngừa và giảm nhẹ thiên tai để đối phó với hạn hán.
Mặc dù có sự liên hệ chặt chẽ giữa khả năng cứu
trợ hạn hán và mức độ phát triển kinh tế xã hội, sự nhất trí trong toàn lưu vực
trong việc cải thiện các biện pháp cứu trợ hạn hán cũng rất quan trọng.
Dựa trên quan điểm kỹ thuật, các quốc gia như
Thái Lan và Việt Nam đã có những biện pháp thích hợp để đối phó với hạn hán,
nhưng vẫn cần tăng cường xây dựng thêm kỹ thuật cứu trợ hạn hán để đối phó với
hạn hán nghiêm trọng.
(2) Thiết lập các kế hoạch tổng thể và phối hợp
để tăng cường khả năng giảm nhẹ thiên tai cho toàn lưu vực.
Mặc dù các hồ chứa trên sông Lancang đã đóng
vai trò “bổ sung” bằng cách sử dụng khả năng trữ nước và điều tiết và xả xuống
hạ lưu Mekong khoảng 140% lưu lượng tự nhiên từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2019,
mực nước tại các trạm thủy học ở hạ lưu Mekong vẫn thấp.
Đó là vì lượng nước của sông Lancang chỉ chiếm
khoảng 20% trong mùa khô và 11% trong mùa mưa của toàn lưu vực
Lancang-Mekong. Khi hạn hán xảy ra trên
toàn lưu vực, các biện pháp khác cho toàn lưu vực cần được cứu xét.
Các phụ lưu dọc theo sông Mekong nên đóng một
vai trò quan trọng hơn trong việc điều tiết và trữ nước. Những hồ chứa được xây trong lưu vực Mekong
có dung tích hơn 20 tỉ m3.
Vai trò tích cực của các hồ chứa trong việc cứu
trợ hạn hán ở tất cả các quốc gia và toàn lưu vực cần được nghiên cứu kỹ lưỡng,
và ảnh hưởng của các dự án cứu trợ hạn hán đối với tai họa về nước ở hạ lưu cần
phải được phân tích sâu rộng để đặt nền móng cho sự phối hợp trong toàn lưu
vực.
(3) Tận dụng các cơ chế hợp tác khu vực để
khuyến khích hợp tác toàn lưu vực.
Trong số các cơ chế hợp tác trong khu vực
Lancang-Mekong (MRC [Mekong River
Commission (Ủy hội Sông Mekong)], GMS [Greater
Mekong Subregion (Đại phân vùng Mekong)], Chương trình Tứ giác Vàng…), Hợp
tác Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)) được thành lập bởi tất cả
6 quốc gia duyên hà vào năm 2016, tạo một diễn đàn mới cho sự đối thoại và hợp
tác trong toàn lưu vực.
Tài nguyên nước là 1 trong 5 lãnh vực ưu tiên
của LMC. Các Nhóm Công tác Hỗn hợp về
tài nguyên nước của LMC gồm có các cơ quan tương ứng của 6 quốc gia LMC và
Trung tâm Hợp tác Tài nguyên Nước Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Water
Resources Cooperation Center) được thành lập ở Bắc Kinh, đánh dấu việc thành
lập cơ chế Tài nguyên Nước Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Water Resources) vào
năm 2017.
Những đề tài hợp tác dưới đây đươc đề nghị để
thực hiện qua cơ chế Tài nguyên Nước Lancang-Mekong.
Chúng gồm có tăng cường việc chia sẻ tin tức và
tham khảo ý kiến qua các Nhóm Công tác Hỗn hợp về tài nguyên nước của LMC;
nghiên cứu về ảnh hưởng của thay đổi khí hậu và các biện pháp thích ứng trong
lưu vực Lancang-Mekong; và nghiên cứu về việc vận hành hỗn hợp các hồ chứa
trong toàn lưu vực để tận dụng khả năng điều tiết trong việc đối phó với thiên
tai.
Sơ lược
về tác giả
Dr. Liu Hui thuộc Viện Nghiên cứu Tài nguyên
Nước và Thủy điện của Trung Hoa. Trưởng
dự án “Đánh giá Hỗn hợp Công tác Phòng
ngừa Lũ lụt và Cứu trợ Hạn hán trong Lưu vực Mekong (Giai đoạn I),” được
thực hiện bởi chuyên viên của 6 quốc gia qua cơ chế LMC vào năm 2018.
Bà cũng là một trong những chuyên viên của
nghiên cứu hỗn hợp “Ảnh hưởng Thủy học
của Chuỗi Thủy điện Lancang đối với các Hiện tượng Cực đoan ở Hạ lưu” với
sự hợp tác của MRC và IWMI.
Dr. Liu Hui – Bình Yên Đông lược dịch
Khaosod English
No comments:
Post a Comment