Abstracts
Following introduction in section 1 about the sea and
oceans with songs and Vietnamese poetry about oceans, the various roles of
ocean are mentioned in section 2: supply, ecology, society and
spirituality. Oceans provide a variety of fish products, shrimps and other
molluscs. Oceans regulate the earth climate with ocean currents. El Nino,
earthquakes also originate from oceans. Oceans also are important for recreational
use. Oceans can awaken, renew, or deepen spirituality washes over our
inner selves that can lead to serenity and peace. .Section 3 deals
with ocean issues: coastal resources are under constant stress from human
activity with pollution, overfishing, degradation of coastline forests,
destruction of coral reefs .. Climate change and rising seas go on to
exacerbate existing threats .Section 4 deals about managing
coastal resources which may be summarized in 4 P: to protect, to preserve, to
promote and to prevent.. In concluding remarks in section 5, the author
stresses the harmony in development, that is the fair allocation and use of
coastal resources while managing these areas sustainably, so that they can be
used by future generations
1. Dẫn nhập
Trong Tứ Diệu Đế của Phật giáo thì mệnh đề thứ nhất
nói về cái khổ, như đời là biển khổ, nước mắt của chúng sinh nhiều như
cát sông Hằng, tràn ngập đại dương .. nên trong lời kệ kinh Phật có
câu khuyên ta: Tâm bồ đề kiên cố, Xa bể khổ nguồn mê ,Chóng quay về
bờ giác v.v.
Trong Tứ Đại của Phật giáo, nước cũng là một trong 4
yếu tố: đất, nước, gió, lửa
Nói đến nước là phải nghĩ ngay đến biển, đến
đại dương.
Biển có nhiều đặc thù: gió biển khác với gió đất, cát
biển khác với cát sông, cá biển khác với cá nước ngọt v.v. .
Các vùng ven biển chỉ chiếm 20% diện tích Trái Đất nhưng có
đến 50% dân cư sống tại đó .Vài ví dụ các thành phố ven biển:
Thượng Hải, Hong Kong nằm sát biển ở Trung Quốc
Marseille, Bordeaux nằm gần biển ở Pháp; Barcelone ở
Espagne, NewYork ở Mỹ, Lisbonne ở Portugal đều là những thành phố quan trọng
sát biển.
Đại dương quan trọng vì chứa nhiều tài nguyên (dầu hoả, hơi
đốt), vì 90% hàng hoá thương mại trên thế giới là trên biển, vì nguồn lợi hải
sản, vì du lịch v.v.
Đại dương thế giới được chia thành 5 đại dương, chia cắt đất
liền thành các lục địa.
Trong 5 đại dương thì
Thái Bình dương lớn nhất, chiếm
một diện tích 180 triệu km2, bao phủ 1/3 diện tích trái đất. Nhiều hoạt động
núi lửa trên mặt (Indonesia) hoặc dưới nước
Đại Tây dương đứng hạng 2 với
106 triệu km2 , kéo dài từ bắc xuống nam với chiều rộng trung bình 5000km, tiếp
nhận nhiều nguồn nước nhạt từ các cửa sông St Laurent, sông Congo, sông Amazone
Ấn độ dương với trên 73 triệu
km2, nằm giữa Châu Phi và châu Úc
Hai đại dương còn lại là Bắc Băng dương và Nam
Băng dương. Nếu tính theo tỷ số diện tích các đại dương thì Thái Bình dương
đã chiếm gần 50%, Đại Tây dương với gần 30% và Ấn độ dương 20%
Nhưng biển cũng rất đa dạng: có biển nằm trong lục địa như biển Caspian, biển
Aral, Biển Chết. Những biển này thực ra không thông thương với đại dương nhưng
thực chất là những hồ nước mặn.
Tỷ trọng của nước biển nằm trong khoảng
1.020 tới 1.030 nghĩa là nặng hơn nước ngọt. Nước biển có độ mặn
không đồng đều trên toàn thế giới mặc dù phần lớn có độ mặn nằm trong khoảng từ
3,1% tới 3,8%.
Biển Chết
ở Trung Đông là nơi thấp nhất trên
bề mặt Trái Đất. Khu vực chứa nước bị hãm kín này có thể coi là một
hồ chứa nước có độ mặn cao nhất trên thế giới.
Bờ biển
cũng thay đổi vì có chỗ hình vòng cung, có chỗ cạn, chỗ sâu nên có nhiều danh
từ địa mạo khác nhau như: vịnh, vũng, phá, eo v.v.
Vịnh
(gulf) là phần biển lõm sâu vào đất liền, có kích thước khá lớn. Ví dụ: vịnh
Thái Lan, vịnh Bắc Bộ
Vũng
(bay) là những vịnh có kích thước không lớn, được bảo vệ chống sóng gió bởi các
mõm nhô ra biển.Một số vũng ở Việt Nam: Vũng Rô, Vũng Tàu…
Ảnh: Hòn Chồng ở
Nha Trang
Phá
(lagoon) kéo dài dọc theo bờ biển, hoàn toàn tách biệt với biển bằng các doi
đất, chỉ trừ vài cửa thông với biển. Ví dụ: phá Tam Giang ở Thừa Thiên.
Eo biển
(détroit, straits) là phần biển dài và hẹp nằm ở giữa
hai khoảng đất, thường là hai lục địa nối liền hai
vùng biển với nhau. Ví dụ: Eo biển Bering nối
liền Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, phân
cách Châu Á và Bắc Mỹ; Eo biển Gibraltar nối Địa Trung Hải với Đại Tây Dương, phân
cách Châu Âu và Châu Phi; Eo biển Malacca nối Biển Đông với Ấn Độ Dương.
Sông ngòi thông ra với biển qua các cửa biển; ở Việt Nam,
ta có Cửa Lò, Cửa Tùng, Cửa Việt, cửa Đại v.v.
Biển bao la trên Trái Đất nên cũng là nguồn cảm hứng cho nhà
văn, nhà thơ.
Thi bá Nguyễn Du có nói về biển ngay đầu tập thơ Kim Vân
Kiều:
Trải qua một cuộc biển dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn long
Biển dâu, dâu biển cũng còn trong câu:
Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình
Nói về Từ Hải, Nguyễn Du viết:
Một tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành
Bể Sở sông Ngô là chỉ hai nước thời Chiến Quốc, chiếm một
phần lớn phía Nam sông Dương Tử, chỉ một vùng đất rộng mênh mông như bể.
Dưới mắt của nhà thơ Nguyễn Khắc Hoạch, bút hiệu Trần Hồng
Châu thì:
Biển là mây gió
Biển là Tự do không bờ
bến
…
Biển là huynh đệ lòng người
Biển cũng có những bát
ngát tư duy
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)
Biển cũng là nguồn cảm xúc của nhiều nhạc sĩ với
nào là Mưa trên biển vắng, Biển cạn, Vùng biển vắng, Biển vắng
ru đêm, Đêm chôn dầu vượt biển, Biển vẫn đợi chờ , Bay đi cánh chim
biển v.v. .
Với Biển nhớ thì:
Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về.
Gọi hồn liễu rũ lê thê
Gọi bờ cát trắng đêm khuya
Ngày mai em đi biển nhớ em
quay về nguồn gọi trùng dương gió ngập hồn v.v
cũng như nỗi nhớ ray rứt trong thơ Đinh Hùng:
Có kẻ nghe mưa, trạnh mối sầu
Vắt tay chờ mộng, suốt đêm thâu
Gió từ sông lại, mưa từ biển
Không biết người yêu nay ở đâu
Vắt tay chờ mộng, suốt đêm thâu
Gió từ sông lại, mưa từ biển
Không biết người yêu nay ở đâu
Lời mẹ ru con buồn xa vắng hay lời hát quan họ Bắc Ninh cũng
nhắc đến biển:
Đêm qua chớp bể mưa nguồn,
Hỡi người tri kỷ có buồn hay không,
Cá buồn cá lội tung tăng,
Người buồn người biết đãi đằng cùng ai,
Ngày qua chung bóng chung hơi,
Bây giờ kẻ ngược người xuôi mặc lòng.
Từ bờ biển ra khơi, ta phân biệt:
-thềm
lục địa là vùng khá bằng phẳng, ít dốc, sâu tới 200 mét, ứng với
vùng triều (littoral) và vùng dưói triều (sublittoral). Thềm lục địa chứa
dầu hoả và hơi đốt .
-sườn
dốc lục địa
-nền
đại dương với núi lửa, dãy núi giữa đại dương, hố sâu
Các nước ven biển có toàn quyền của mình trong vùng đặc
quyền kinh tế tức Exclusive Economic Zone
(EEZ) 200 hải lý theo Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật biển tức UN Convention on the Law of the Sea (UNCLOS)
Biển có một vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ sinh
thái trái đất.
Biển điều hòa khí hậu và điều tiết các quy trình tái tạo các
yếu tố thiết yếu của sự sống (các-bon, o-xy…), cung cấp nguồn tài nguyên và
phục vụ cho cuộc sống của con người
2. Vai trò của đại dương
2.1. cung cấp: Đại dương có cá
biển, tôm biển, cua biển, sò, ốc ..
2.1.1. các loài cá biển: Tuy có hàng
ngàn loài cá thuộc khoảng 200 họ nhưng chỉ có chừng 100 loài là có giá trị kinh
tế như cá mú, cá chim, cá chình, cá chuồn..
Cá biển rất đa dạng về chủng loại, hình thái, kích thước,
điều kiện sinh thái, sinh trưởng, sinh sản và khác nhau về giá trị kinh tế.
-theo chiều dọc, có thể phân loại:
. cá nổi, cá tầng giữa như cá đé (Ilisha elongata)
là một loại cá nhiều ở vịnh Bắc Bộ được liệt vào hạng cá tứ quý ở vùng biển
phía bắc Việt Nam: cá chim, cá thu, cá nhụ, cá đé.
.cá tầng gần đáy và cá đáy; cá đáy cũng còn bao
hàm luôn các loài cá khai thác được bằng lưới kéo đáy như cá hồng còn có tên
khác là cá hanh, cá mối.
-theo chiều ngang, cá phân chia
thành:
. cá cửa sông, cá ven bờ (như cá trích, cá cơm, cá
đé, cá nục..)
.cá đại dương (cá thu, cá ngừ, cá chuồn, cá bạc má,
cá nhám..) .
Cá mòi (Clupanodon) là cá tầng
trên ở các vùng nước ven bờ biển; trước kia Việt Nam có nhiều nhưng nguồn lợi
này bị giảm sút nặng do đánh cá quá mức khi cá đi đẻ..Cá mòi được gợi
lại trong ca dao sau đây:
Tiếng đồn con gái Phú Yên
Đồng Nai đi cưới, một thiên mắm mòi
Chẳng tin giở hộp ra coi
Rau răm ở dưới, mắm mòi ở trên
Cá chuồn (họ Exocoetidae) tập trung
nhiều biển miền Trung; cá chuồn có thể bay trong không khí, mỗi lần bay chỉ kéo
vài chục giây trên vài chục mét cá chuồn là loại cá nổi, thân nhỏ, ít
thịt nhiều xương với hai vây lưng rất to. Loài cá này chỉ xuất hiện rộ vào mùa
biển lặng từ tháng hai âm lịch. Cá chuồn có thể chế biến được nhiều món và dành
làm thực phẩm cho mùa mưa gió. Ở xứ Quảng có câu ca:
Ai về nhắn với bạn nguồn
Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên.
Mít non nấu canh cá chuồn là món ăn dân dã, mộc mạc đã gắn
bó bao đời nay với người dân xứ Quảng, như một mối tình gắn bó keo sơn giữa
rừng với biển - mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên
Cá trích (Clupeidae) thường được
khai thác bằng kết hợp ánh sáng và lưới kéo, ban đêm thường nổi lên mặt, ban
ngày ở lớp gần đáy
Cá mú (Serranidae) sống chủ yếu vùng
rạn đá và rạn san hô nên cá này khó đánh bắt bằng lưới kéo đáy. Loài cá được ưa
chuộng nhất trong các loài cá biển vì thịt trắng, ngon, dai
Cá ngừ vây vàng (tuna) dùng làm
món ăn sushi, sashimi
Ngoài cá biển, còn gặp thêm:
2.1.2. Các loài thân giáp (Crustacea)
như cua biển, tôm hùm (homard), tôm rồng (langouste)
Rủ nhau xuống biển mò cua
Đem về hái quả mơ chua trên rừng
Ngoài biển, phía gần bờ còn có con ruốc, còn gọi là tép
biển Acetes, bộ Thân giáp mười chân (Decapoda).
Ruốc sống thành đàn lớn chứa nhiều protein
Các loài tôm tép có trong ca dao:
Bể sâu con cá lớn vẫy
vùng
Trời cao muôn trượng, cánh chim bằng cao bay
Xá chi đồi cát vũng lầy
Những loài tôm tép biết ngày nào khôn
2.1.3 Các loài thân mềm:
(Mollusque) có các đặc điểm như cơ thể mềm, không xương sống,có thể có vỏ đá
vôi che chở và nâng đỡ như hàu, sò, ốc, hến, ngao hoặc mực ống, mực nang..
Hàu (huitre).
Hàu có chừng 25 loài, họ Hàu (Ostreidae),
có 2 mảnh vỏ và sống chủ yếu ở vùng triều cửa sông, các rạn đá ven bờ, cả trong
nước mặn và nước lợ .
Đầm Ô Loan giữa Qui Nhơn và Tuy Hoà có nhiều sò huyết và hàu
đến nỗi Tản Đà có thơ rằng:
Lấy chi vui với thu tàn
Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu
Sò cũng là tên gọi chung các
động vật thân mềm với 2 mảnh vỏ, họ Sò (Arcidae) như sò huyết, sò điệp
Quê tui nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn mầu mỡ, biển thừa cá tôm
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn
Ruộng vườn mầu mỡ, biển thừa cá tôm
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn
Nghêu sò Cồn Lợi,
thuốc ngon Mỏ Cày.
Bào ngư (haliotide), có tên khác ốc
chín lổ, là nhóm ốc biển.
Sống trong các khe đá dưới biển. Thịt bào ngư ngon, vỏ làm
đồ mỹ nghệ
Sứa (méduse, jellly fish)
là một lớp thân mềm,
có địa phương gọi là con nuốt. Một số loại sứa có thể được sử dụng làm
các món ăn như bún sứa, gỏi sứa.
Còn có động vật da gai (Echinoderme) như Sao biển
(starfish). Khoảng 1.800 loài sao biển còn sống hiện
diện trong tất cả các đại dương của thế
giới. Sao biển có mặt ở trên một phạm vi sâu rộng từ các bãi triều đến độ sâu
thẳm (6.000 m)
Vì biển Đông nhiều cá nên một trong những hình thức dự trữ
là dưới dạng chế biến thành nước mắm (nước mắm Phan Thiết, nước mắm Phú
Quốc ..) hoặc mắm.
Tản Đà khen mắm Long Xuyên như sau :
Hà tươi cửa bể Tourane
Long
Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà
Các hải đảo biển Đông như các cù lao ngoài khơi Nha Trang,
Đà Nẵng thì phong phú yến sào, món đứng đầu bát trân của người Trung
Hoa.
Ngoài các loài Thân Giáp và Thân Mềm nói trên, có thể kể Rùa
biển thuộc loài Bò Sát hầu như suốt đời sống ở biển, chỉ lên bờ để đẻ
trứng.Việt Nam có nhiều loài rùa biển.
Hải sâm, tên gọi dân gian
là đỉa biển, còn gọi là dưa biển do thân hình loài vật này
giống quả dưa. Tên tiếng Anh của loài này là Sea Cucumber. Hải sâm
là loài vật chuyên ăn xác chết của động vật dưới biển, Thức ăn của chúng là
loài phù du và các chất hữu cơ tìm thấy dưới biển. Hải sâm được khai thác nhiều
nhất ở Phú Yên, Khánh Hoà cũng như Vũng Tàu Côn Sơn. Người ta phát hiện gần đây
trong hải sâm chất holothurine có tác dụng ức chế sự phân bào, có khả năng sử
dụng trị ung thư.
Nhiều nguồn động vật biển được tái chế thành bột cá, dầu
cá..Bột cá sử dụng như phân bón hoặc dùng làm thức ăn chăn nuôi, thức
ăn thuỷ sản. Dầu cá nhiều Omega 3 cũng là nguồn cung cấp năng lượng rất tốt
trong thức ăn.
2.1.4: Ngoài hải sản còn có thực
vật nằm dưới biển như các loại rong biển, cỏ biển.
Rong biển là
những loài thực vật sinh sống ở
biển, thuộc nhóm tảo biển. Rong biển có thế sống ở cả hai môi
trường nước mặn và nước lợ. Chúng mọc trên các rạn san hô hoặc trên các vách
đá, hoặc có thể mọc dưới tầng nước sâu với điều kiện có ánh sáng mặt trời chiếu
tới để quang hợp.
Rong biển đã được sử dụng trong bữa ăn của con người từ thời
tiền sử.Và sau đó trở nên phổ biến trên các quốc gia như Nhật Bản hay Hàn Quốc.
Rong câu (Gracilaria) là một
loài tảo. Ở Việt Nam, có nhiều loài, đặc biệt có rong câu chỉ vàng (Gracilaria
asiatica) có giá trị kinh tế lớn, sống ở môi trường nước lợ, thích mặt nước
lặng, không có sóng gió. Đầm Ô Loan ở Phú Yên có nhiều rong câu . Rong câu cung
cấp nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất aga và các chế phẩm khác. Việt
Nam có nhiều tiềm năng sản xuất rong câu, tuy nhiên còn thua xa Đài Loan về mặt
năng xuất (8-10 tấn rong câu khô/ ha / năm ở Đài Loan, 1-1.2 tấn/ ha/ năm ở
Việt Nam.
Cỏ biển (seagrass) ở các vùng
cạn gần bờ, có ánh sáng mặt trời xuyên qua. Cỏ biển có lá, có hoa
2.2. Sinh thái. Biển chiếm đến
71% diện tích Trái Đất, như vậy dĩ nhiên 71% này có ảnh hưởng lớn đến 29% đất
còn lại. Biển với gió biển, bão biển, thuỷ triều, các dòng hải lưu .. ảnh hưởng
đến hệ sinh thái của Trái Đất. Chỉ cần một thay đổi nhỏ về năng lượng ở bề
mặt nước biển thì sự tác động của sự thay đổi nhỏ này cũng tạo nên những sự
thay đổi rất lớn của khí hậu trên đất liền. Như vậy, đại dương cũng quan trọng như khí quyển trong sự vận hành khí hậu toàn
cầu. Sự nối kết giữa đại dương và khí quyển đã ảnh hưởng sâu xa đến các
sự thay đổi khí hậu về lâu về dài. Thực vậy, địa quyển, phong quyển, thuỷ
quyển, khí quyển, bấy nhiêu cái ‘quyển’ ấy đều tác động hổ tương lên nhau: năng
lượng mặt trời nóng ở vùng xích đạo, nước biển bốc hơi, gió chở vào lục địa,
gây ra mưa to, gió lớn, ‘nước trôi ra biển lại mưa về nguồn’ (Tản Đà), nước
nóng theo các dòng hải lưu lên miền lạnh và nước lạnh miền cực trao đổi với
dòng nước nóng xích đạo v.v.: ta thấy cả một thế cân bằng động giữa nhiều thành
tố khác nhau trong một chu kỳ từ hàng triệu năm nay.
Trong diện tích biển thì biển Thái Bình Dương là lớn nhất:
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình
đúng như lời ca một bài hát nọ. Thái Bình Dương có tác
động mạnh nhất đến khí hậu toàn cầu: các bão lụt, hạn hán đã xảy ra từ Mỹ đến
Honduras, từ Indonesia đến Việt Nam.. đều do các sự thay đổi ở vùng nhiệt đới
Thái Bình Dương.
2.2.1. Hiện tượng El Nino cũng
xuất phát từ Thái Bình Dương. Thực vậy, dòng nước ấm ở phía đông Thái Bình
dương chạy dọc theo các nước Chili, Pérou đã đẩy vào không khí một lượng hơi
nước rất lớn.Hậu quả là nhiều nước ở Nam Mỹ phải hứng chịu một lượng mưa lớn
bất thường. Và vì mây tập trung vào một chỗ quá cao nên phần còn lại của thế
giới (Úc châu, Á châu) bị khô hạn, làm mùa màng bị thiệt hại nặng nề.
2.2.2. Động đất cũng xuất phát từ
sự va chạm các mảng kiến tạọ. Dưới đại dương có những giãy núi ngầm phun
ra lửa với nhiều đá basalt; các giãy núi ngầm chia bề mặt rắn chắc quả đất
thành nhiều mảng (tectonic plate) như mảng Âu Á, mảng Phi Châu, mảng Bắc Mỹ .
Sự va chạm các mảng ngầm dưới biển tạo nên động đất. Động đất ngoài biển tạo
nên sóng thần (tsunami), giết hại hàng
trăm ngàn sinh linh, từ Indonesia đến miền nam Thái Lan, hàng chục ngàn người
Nhật (Fukushima).
2.2.3 Bão nhiệt đới (hurricane, typhon)
Những trung tâm phát sinh ra bão nhiệt đới luôn luôn ở các
vùng nhiệt độ nước biển nóng, ở giữa các vĩ tuyến từ 5 độ đến 15 độ vì tại đây,
nhiệt độ nước biển thường 27 độ hay cao hơn nên bốc hơi rất mạnh. Mắt bão là
nơi hạ áp lớn nên không khí nóng và ẩm bị hút mạnh vào đó, tạo ra gió cuốn như
trôn ốc và vì không khí nóng bốc lên cao sẽ gặp lạnh , tạo ra nhiều mây
dày đặc nên tạo ra mưa to gió lớn.. Từ ngoài khơi Phi Luật Tân, bão nhiệt đới
thổi vào đất liền, từ Trung Hoa, Đài Loan đến miền Trung Việt Nam, gây nhiều
lụt lội, tàn phá mùa màng. Bão nhiệt đới cơ bản là những cỗ máy nhiệt khổng lồ,
được tiếp sức bằng việc chuyển tiếp sức nóng từ đại dương lên khí quyển tầng
cao.
2.2.4 Dòng hải lưu.
Biển điều hoà khí hậu nhờ các dòng hải lưu. Chính vì
có sự chênh lệch về nhiệt độ mới có các dòng hải lưu . Ở xích đạo nhận
được nhiều nhiệt từ mặt trời hơn, đại dương bị đốt nóng hơn nên tỷ trọng của
nước biển ở đây nhẹ hơn và ngược lại đối với các vùng cực và gần cực. Sự chênh
lệch tỷ trọng này dẫn đến sự hình thành các dòng hải lưu mà hướng chảy của
chúng phụ thuộc rất nhiều yếu tố như sự phân bố các lục địa, địa hình. Nhưng
nói chung là dòng hải lưu ấm nóng chảy từ xích đạo về hai cực và dòng hải
lưu lạnh chảy từ hai cực về xích đạo.
Ví dụ dòng Gulf Stream chuyển vận nước nóng miền nhiệt đới
đến miền biển Đông Canada và lên tận các xứ Bắc Au làm nhiệt độ các vùng ven
biển Bắc Âu ấm áp hơn . Các dòng hải lưu có thể lưu thông trên một quãng đường
dài hàng ngàn kilômét..
2.2.5 Biến đổi khí hậu do quả đất
đang nóng lên vì khí nhà kính, sẽ kéo theo nhiều hậu qủa như sau:
- Các băng hà sẽ tan nhiều, chẩy xuống đại dương, nên dòng
hải lưu nóng từ xích đạo đi lên Bắc bán cầu sẽ bị chậm hoặc ngưng lại, do không
có hải lưu nóng sưởi ấm nữa nên thời tiết về mùa Đông ở Bắc Âu, và một số nước
Tây Âu như Anh, Pháp, sẽ rất lạnh. Đặc biệt, nước ngọt tạo ra do sự tan chảy
của các núi băng ở Bắc Băng Dương có thể làm loãng nước của
hải lưu Gulf Stream và làm cho nó nhẹ đi nên không chìm xuống. Kết quả là một
sự thay đổi lớn trong khí hậu của châu Âu, với những hậu quả chưa thể tính trước.
- Bão ngày càng nhiều và mạnh: nào là bão Katrina tàn phá
vùng Nam nước Mỹ (Louisiana), nào là bão Sandria tàn phá miền Đông như New
York, nào là bão Hải Yến tàn phá luôn cả một thành phố ở Philippines. Bão
mạnh xâm thực bờ biển khiến đất thổ cư, đất trồng trọt cư dân ven biển bị mất
đi, kéo theo nghèo đói
- mực nước biển dâng ngày một cao nên nhiều chỗ thấp
vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long sẽ bị nước mặn xâm nhập..
2.2.6 Thuỷ triều.
Nói đến biển là nghĩ ngay đến thuỷ triều, cũng thường gọi là con nước như trong
câu:
Trông vời con nước mênh mông
Nước biển có thể dâng lên hay hạ xuống do tác động giữa mặt
trời, mặt trăng với trái đất. Trong văn thơ Việt có nhiều đoạn nói về các
chuyển động lên xuống của thuỷ triều:
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm, mây lồng
trước sau
N ỗi buồn của nàng Kiều khi ở lầu
Ngưng Bích:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Thời điểm mà dòng triều ngừng chuyển động: ta gọi là nước đứng. Ở
miền châu thổ sông Cửu Long, thường có câu đố : nước không chân,
sao gọi là nước đứng
Trước hết, chế độ thủy triều có thể nhật triều ( một ngày
chỉ có một lần thủy triều lên, một lần thủy triều xuống ) hoặc bán nhật triều (một
ngày có hai lần thủy triều lên xuống)
Những vùng chịu ảnh hưởng của loại triều này thường nằm ở vĩ tuyến gần xích đạo. .có nơi có chế độ nhật triều
rất rõ rệt như Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan. . Thủy triều biển Đông ở bờ biển
Việt Nam khá phức tạp vì bị chi phối bởi địa hình bờ biển và đáy biển gần bờ,
dạng bờ biển, chiều sâu đại dương..
Dưới tác dụng của dòng triều, nước biển xâm nhập vào sông,
đi về hướng thượng nguồn. Chiều dài xâm nhập phụ thuộc vào cường độ của dòng
triều và lượng nước trên thượng lưu đổ về .
Trên sông Hồng, khoảng cách truyền triều chừng 180km; trên
sông Cửu Long, nước lên/nước xuống đến tận Nam Vang. Hình ảnh thuỷ triều
có mặt trong các câu sau trong đó chàng thanh ni ên nhắn người con gái gắng
chờ, còn cô thiếu nữ kia lại trách nhẹ kẻ chậm chân:
-Nước
ròng chảy đến Nam Vang
Làm thơ để lại em khoan
lấy chồng
-Tay bưng chậu cúc trăm bông
Chờ anh chẳng đặng em trồng xuống đây!
Nhà nhạc sĩ cũng dùng hình ảnh thuỷ triều như trong bài Tình
Nhớ:
Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều
Như từng con nước ròng xoá một ngày đìu hiu
Gặp lúc trăng rằm hay trăng ba mươi/mồng một (trăng non)
nghĩa là khi Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất cùng thẳng hàng thì
lực tạo thủy triều sẽ lớn; ta gọi là triều cường (vives-eaux; spring
tide) hay là nước
phát vì là tổng của hai lực hấp dẫn Mặt Trời và Mặt Trăng thay
vì chỉ có một lực hấp dẫn của Trăng như thông thường. Triều lên/xuống rất mạnh
Vào lúc trăng thượng tuần (mồng 7 âm lịch) hay hạ tuần (23
âm lịch) nghĩa là khi mặt trời và Mặt trăng cách biệt nhau 90 độ nhìn từ
trái đất thi sự khác biệt giữa nước lớn và nước ròng cũng nhỏ đi (mortes-
eaux; neap tide) vì lực hút yếu. Ta gọi là nước sính.
Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ
chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp.
Vùng nước dao động do thủy triều lên
xuống giữa mức nước lớn và nước ròng. Những bãi biển xoải cát, cửa sông
hoặc những mỏm đá thấp thường được gom vào khu vực này.
Triều cường
làm các vùng thấp duyên hải bị ngập, làm hư hại các đê bao ngăn mặn, gây ngập
úng các đầm nuôi tôm, các vườn cây ăn trái, các nhà cửa ven kinh rạch.
Khi triều cường vào cửa sông thì độ mặn lan truyền, khuyếch
tán vào trong sâu nội địa, nhất là lúc cao điểm đỉnh triều cường vào con
nước rằm và ba mươi tháng Giêng âm lịch, thì sẽ gây thiệt hại cho nhiều diện
tích lúa đông xuân đang trong giai đoạn làm đòng, trổ bông . Triều cường
và sóng lớn làm phá vỡ bờ cây xanh chắn sóng dọc theo bờ biển, lấn sâu vào đất
liền
Nước lên-nước xuống chi phối đời sống dân ven biển. Một chu
kỳ biến động của mực nước-từ lúc nước biển rút xuống đến mức tối đa đến lúc
nước biển lên cao đến mức tối đa- kéo dài 15 ngày và được gọi là một con nước. Như vậy,
mỗi tháng có 2 con nước.
Trông về con nước vơi đầy
Nỗi sầu xa cách biết ngày nào vơi
Lênh đênh duyên phận bọt bèo
Đành cho con nước thuỷ triều đầy vui
Trăng lên con nước rong đầy
Anh đừng đến nữa, má rầy khổ em
Nhìn nước lớn, nước ròng, nhìn cuộc đời sớm còn, tối mất,
người ta ca rằng:
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê
Trước khi đổi con nước, dòng sông ngưng hẳn, gọi là nước đứng:
Nước không chưn sao kêu bằng nước đứng
Cá không giò sao gọi con cá leo?
Khi nưóc mặn xâm nhập vào cửa sông thì đất bị nhiễm
mặn và năng suất lúa bị giảm và không trồng lúa được vào mùa khô.
2.3. Xã hội: Ở Việt Nam, nhiều
làng đánh cá ven biển thường tổ chức đầu năm âm lịch lễ Cầu Ngư. Lễ hội
Cầu Ngư bắt nguồn từ tục thờ Ông Nam Hải (cá voi), tập tục lâu đời của cư dân
vùng biển từ bắc miền trung trở vào nam, điển hình nhất là ở Khánh Hòa, mục
đích cầu cho mưa thuận gió hoà trước khi thuyền đánh cá ra khơi.
Lễ hội có các nghi thức tín ngưỡng và biểu diễn nghệ thuật
truyền thống độc đáo mang tính đặc trưng của các làng chài ven biển trong khu
vực. Sau phần nghi lễ là phần hội với nhiều màn biểu diễn diễn tả gồm
nhiều hoạt động tái hiện sinh hoạt văn hóa của ngư dân vùng biển cùng hội đua
ghe truyền thống.
Còn có lễ hội Nghinh Ông - trong đó, hoạt
động chính là lễ rước Ông từ biển vào Lăng thờ với ý nghĩa cầu ngư, cầu
cho mưa thuận gió hòa để ngư dân an tâm ra khơi. Ngoài việc cầu mong ra khơi
thuận buồm xuôi gió, lễ hội Nghinh Ông còn là dịp để người dân miền biển vui
chơi, giao lưu văn hóa trước khi khởi hành chuyến biển đầu năm mới.
Biển cũng giúp sự truyền bá các tôn giáo: Phật giáo lan
truyền qua nhiều xứ ở Đông Nam Á như Thái Lan, Miến Điện qua đường biển với các
sa môn từ Ấn Độ. Là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại, Ấn Độ cũng
là mảnh đất khởi nguồn của Phật giáo với tinh thần phi bạo lực, bình an, hòa
thuận..
Chùa Phật tích (Bắc Ninh) là ngôi
chùa có bề dày lịch sử và chiều sâu tâm linh, là một trong những cái nôi của
Phật giáo Việt Nam, nơi mà 2000 năm trước, nhà sư Ấn Độ Khâu Đà La cùng các
đoàn thuyền buôn theo con đường tơ lụa trên
biển đã đặt chân đến và mang đạo Phật truyền cho người Việt.
Dân Phi Châu bị bắt đi qua Mỹ Châu cũng đi trên thuyền
xuyên qua Đại Tây Dương, đến Haiti đầu tiên để trồng mía đường, từ
đó nhiều điền chủ Mỹ qua mua nô lệ về Mỹ
trồng bông vải..
Thành phố Alexandria ở Ai Cập ngày nay trên bờ Địa Trung Hải
là do Alexandre Đại Đế của Hi Lạp dựng nên 300 năm trưóc Công Nguyên và là một
trung tâm quan trọng của văn hoá Hi Lạp và La Mã gần 1000 năm .
Vai trò của biển trong các hoạt động thương mại, du lịch rất
rõ rệt. Như tại Viet Nam, thành phố Hội An đã có chùa Nhật từ hàng trăm năm
trước, khi họ tới giao thương buôn bán, còn để lại nhiều di tích văn hoá
2.4 Kinh tế: Tại các nước đang
phát triển, có khoảng một tỷ người đang coi cá và hải sản là nguồn dinh dưỡng
chính của họ và có tới hơn một nửa tỷ người coi đánh cá là nghề kiếm sống của
họ. Hải sản dồi dào ở đại dương tạo nguyên liệu cho kỹ nghệ hải sản: tôm
đông lạnh, nước mắm, mực khô, cá khô.. góp phần tạo được công ăn việc làm cho
dân cư sống dọc bờ biển và đóng góp vào xuất cảng.
Việt Nam với bờ biển dài hơn 3.260 km, nhiều
làng mạc phải nhờ biển mà sống:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá (Tế Hanh)
Xưa kia, các thuyền đánh cá chỉ dùng buồm để di chuyển:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giưong to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió (Tế Hanh)
Ngày nay, các thuyền đánh cá dù gần bờ hay xa bờ đều chạy
bằng máy dầu diesel để đánh bắt hải sản. Tuy nhiên, phần lớn tàu của ngư dân
Việt chỉ trang bị động cơ nhỏ nên chỉ đánh bắt gần bờ.
2.5. Du lịch .Du lịch đóng vai
trò quan trọng với các quốc gia sống gần biển. Các hải đảo vùng Caraibes chỉ
sống nhờ du lịch, phần lớn du lịch từ Mỹ và Canada. Các du thuyền chở hàng ngàn
khách du lịch đi từ cảng này sang cảng nọ, khắp nơi dọc bờ biển Địa Trung Hải,
bờ biển Bắc Âu. Biển cũng đóng vai trò du lịch với giải trí như
bơi lội, trượt sóng, lặn, câu cá
2.6. Tâm linh. Về biển, con người
gần với thiên nhiên bao la, thấy mình chỉ là một sinh vật nhỏ bé trong vũ trụ
bao la; biển với trời cao mây rộng giúp ta khiêm tốn.
Sự thinh lặng vô biên là một điều kiện giúp cho con
người dễ đi sâu vào nội tâm, vào mầu nhiệm của Chân Như
Nỗi buồn của nàng Kiều khi nhìn biển:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gọt rửa bao giờ cho phai?
hoặc:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Nhờ thinh lặng vô biên của biển, con người bớt căng thẳng
trong cuộc sống xô bồ ngày nay. Căng thẳng (stress) chính là yếu tố gây nhiều
bệnh. Thực vậy, ngày nay, con người sống xa rời thiên nhiên, thích đua đòi, lái
xe quá nhanh, đọc sách rất ít, xem truyền hình và internet quá nhi ều, hết
facebook rồi tweeter, hiếm khi ngồi trong thinh lặng. Con người ngày nay như
vậy là người lang thang số hoá
(nomade numérique) .Nhiều căn bệnh tâm thần phát sinh vì thiếu giao tiếp. Ta
chinh phục được thế giới bên ngoài nhưng không biết gì về thế giới bên trong.
Khi đi dạo ven biển, người nhàn tản đơn độc còn hít
thở cả hương thơm đất trời hài hòa cùng nhau, không thở bụi bặm và ô nhiễm của
các ‘phố phường chật hẹp, người đông đúc’,tìm lại sự yên tĩnh của tâm
hồn, vứt bỏ những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, ..tức là các ô nhiễm của tâm hồn. Từ
thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Không động
tâm cho nên an lành, ít gây đổ vỡ.
Cần phải quý trọng sự thinh lặng nội tâm mới có thể
thấy những giá trị lớn lao đang chìm sâu hay bị che khuất trong khung cảnh
thường nhật .Chính vì vậy mà rất nhiều phát nguyện trong Phật học thường nhắc
nhở đến biển:
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê
Đắm trong sinh tử đã bao lần
Nay đến trước đài Vô Thượng Giác
Biển trần khổ lâu đời
luân lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
.. và do đó khuyên ta:
Chúng con khổ nguyền xin tự độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ tuyệt vời
Con nhớ đức Di Đà lạc quốc
Phật A Di Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Tục ngữ ta có câu: “Dò sông dò biển dễ dò. Đố ai
lấy thước mà đo lòng người”. Lòng người thay đổi với nhiều vọng niệm,
vọng tâm, loạn tưởng, thay đổi bất thường cho nên khó dò trong khi biển, có thể
dùng máy đo được nhiều đặc tính lý hoá, chiều sâu .
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: “Căn bản của
sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chơn tâm”.Vọng
tâm ví như những ngọn sóng do gió thổi gây nên, gió nhẹ sóng nhỏ, gió mạnh
sóng to .Vọng tâm nghĩa là khi vui, khi buồn, lúc thương lúc ghét, lúc tốt lúc
xấu, lúc nghĩ chuyện đông, lúc nghĩ chuyện tây, lúc nghĩ chuyện hiện tại, lúc
nghĩ chuyện quá khứ, vị lai, lúc vầy lúc khác v.v..Vọng tâm là tâm chướng ngại,
tâm phân biệt, tâm không bình đẳng, sanh diệt liên miên trong từng sát na,
trong từng giây phút, ví như con vượn chuyền từ cành cây này sang cành cây khác
khắp nơi , như câu thơ :
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Còn Chơn tâm là tâm không chướng ngại mà ‘tâm
không chướng ngại thì tâm không sợ hãi, xa l ìa mọi vọng tưởng,
xa lìa mọi điên đảo, đạt Niết bàn tuyệt đối’ (Kinh Bát Nhã
); Chơn tâm thì vào cảnh giới Niết Bàn, đạt được bốn đặc tính: Thường, Lạc,
Ngã, Tĩnh của nhà Phật. Chơn tâm là tâm không phân biệt vì ví như mặt biển
yên lặng, phẳng lờ, rộng rãi, bao la bát ngát.; sống với “chơn tâm’có
nghĩa tâm an định, không xao xuyến, không phiền não, như đoạn thơ sau của
nhà thơ Tô Thùy Yên:
Lòng ta vô sự, ta vui vẻ,
Bướm với hoa cùng bay nhởn nhơ
Mùa hạ tàn trôi trôi đóm lửa
Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ,
Quên quên, nhớ nhớ tiền sinh kiếp
Thiên cổ mang mang, thế sự nhoà
Trận lốc cười tròn trên quá vãng
Ta làm lại cả tâm hồn ta
Làm lại cả tâm hồn ta, có nghĩa là mỗi ngày gắng nhặt một
niềm vui trong ánh mắt quen chào nhau, tách trà ấm, nụ cười bè bạn, nhiều niềm
vui nho nhỏ sẽ tạo niềm an lạc lón như những dòng sông con quy tụ ở biển khơi. Cuộc đời giống như đại dương, không
thể điều khiển được mà luôn luôn có những thăng trầm, lên xuống. Chúng ta như
những con tàu trên đó, nương theo những náo nhiệt, lên xuống để luôn luôn ở
trên mặt nước chứ không phải chìm bên dưới. Phải điều chỉnh bản thân mình để có
thể tự tại an nhiên ở cả hai
trạng thái lên và xuống, Hãy để cảm xúc bên trong người tự do, nếu còn bị
ràng buộc bởi những so sánh, chúng ta không thể tự do được. Sự tự do ở đây
chính là tự do bên trong tâm hồn, và đó chính là Tâm An Lạc. Thực vậy:
Vọng tâm
là động lực chính dẫn dắt chúng sanh tạo nghiệp trong vòng sanh tử luân hồi và
chỉ có Chơn tâm mới tạo an lạc
trong tâm thức
Trên bước đường tu tâm dưỡng tánh, phải xả bỏ những
tạp niệm, vọng tâm, loạn tưởng, đừng để vọng tâm lôi cuốn mình đi , nghĩa là
phải sống trong tỉnh thức, sống trong chánh niệm trong mỗi phút giây nghĩa
là phải gắng loại trừ các tạp niệm:
Tự quy Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo Đạo Cả, phát
lòng vô thượng
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh thấu rõ Kinh Tạng, trí
huệ như biển
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng,
hết thảy không ngại
Trí huệ rộng lớn
như biển cả có nghĩa là cần phát triển tinh thần vị tha về tình thương, từ
bi và sự diệt trừ vô minh, ích kỷ và tham lam. Vô minh chính là đám mây mù che
lấp trí tuệ của con người và đó là nguồn gốc của tam độc Tham Sân Si để dẫn con
người đi lang thang lẩn thẩn trong luân hồi. Có được trí huệ rộng lớn, lúc đó,
ta được giải thoát khỏi những hệ lụy ưu phiền và phiền não và khổ đau sẽ không
đến.
Trí huệ rộng lớn
có nghĩa là phải buông xả. Buông tới lúc trong lòng trống rỗng thì có hoà bình
trong tâm hồn. Thực vậy, cuộc đời vốn thế, xin cứ thanh thản như mây, xin đừng
quá vui cũng chẳng quá buồn, rắc rối làm chi, những điều đơn giản.
Nói về biển, người Việt không thể quên hàng vạn thuyền nhân
đi tìm tự do đã bị chôn vùi dưới lòng biển sâu khi vượt biên bằng thuyền với
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A Tỳ
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển Đông!
……………………….
dưới sâu vẫn vô vàn cánh tay
dằn dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiếp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc?
……………………..
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
.Với luật nhân quả, đã gây ra điều ác thì sẽ không tránh
khỏi hậu quả:
Dẫu bay vút trên trời cao
Hay lặn sâu dưới biển
cả
Hoặc chui rút vào hang đá
Trốn làm sao được hậu quả
Các điều ác đã tạo ra
(Kinh Pháp Cú: Phẩm Ác)
3. Các vấn nạn của môi trường biển.
Trong khi nguồn cá là một trong những tài sản thiên
nhiên quan trọng nhất của con người thì đáng tiếc là con người đang hủy hoại
chính nguốn sống của mình vì các lý do sau:
3.1. Ô nhiễm. Vùng ven biển
thường là nơi tập trung các chất thải sinh hoạt dân cư theo sông đổ ra, như chai
lọ, vỏ lon bia, rác thải của kỹ nghệ, y tế, giao thông v.v. nên gây ảnh hưởng
đến phẩm (chất lượng) nước biển, làm nước biển thiếu ô-xy, sinh sôi nhiều loài
tảo độc và sinh vật có hại. Biển là nơi tụ tập cuối cùng của các phế thải môi
trường; nếu môi trường các dòng sông bị ô nhiễm bởi các phế thải kỹ nghệ với
các kim loại nặng (đồng, chì, thủy ngân…) thì biển sẽ ‘lãnh đủ’. Chất lượng
môi trường biển Việt Nam hiện nay tiếp tục suy giảm theo chiều hướng xấu với
các rác đô thị, các chất thải sinh hoạt từ các khách sạn, từ các khu gia
cư đổ thẳng ra biển, các vết dầu loang từ các tàu chở dầu hoặc từ hoạt động
thăm dò dầu khí gây ra v.v. khiến nhiều sinh vật sống trong nước biển chết hàng
loạt. Chỉ tính riêng tại Vịnh Hạ Long hiện có tới hàng chục làng chài lớn nhỏ
đang “tọa lạc” trên biển. Các làng chài thải toàn bộ rác sinh hoạt xuống mặt
biển chưa qua xử lý, rất khó thu gom, dẫn tới một số xuồng lạch đã xảy ra hiện
tượng tắc dòng chảy vì rác..Chất lượng trầm tích đáy biển ven bờ, -nơi cư trú
nhiều loài hải sản-, cũng giảm dần do đó đa dạng sinh học động vật đáy ở ven
biển cũng suy giảm. Chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp cứ đổ vào vịnh
Nha Trang
3.2. Đánh bắt cá quá mức. Tình
trạng đánh bát có tính hủy diệt cao như lưới quét mắt nhỏ, xiết điện, chất nổ,
thuốc độc làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản … đã tiêu diệt các loại cá nhỏ, khiến
số lượng đàn cá không kịp phục hồi Do đó, phải quy định về cỡ lưới sao
cho những con cá con có thể thoát ra được để phục hồi đàn cá; giới hạn tổng sản
lượng đánh bắt; đóng cửa một số ngư trường; cấp giấy phép đánh bắt cá; chia đều
sản lượng đánh bắt cho các ngư dân trong một khu vực đã được xác định.
3.3 Rừng ngập mặn giảm sút Các giải
rừng ngập mặn bị đốn phá, nhường chỗ cho các vuông tôm nhưng ô nhiễm cũng xảy
ra tại nhiều vùng nuôi tôm. Trong khi đó loại rừng này có vai trò bảo vệ vùng
cửa sông, cửa biển để chống xói lở, hạn chế tác hại của gió bão; mở rộng đất
liền. Rừng ngập mặn còn giúp cho bầu không khí bớt ô nhiễm vì rừng này với
những cây bần, đước, sú, vẹt v.v. hấp thụ khí CO2 do hoạt động kỹ nghệ và sinh
hoạt thải ra và sinh ra một lượng ô-xy rất lớn. Rừng này còn cung cấp gỗ,
than, chim và nhiều hải sản như tôm, cua. Thế nhưng, hiện nay nhiều loại rừng
này bị phá huỷ để làm hồ nuôi tôm, cua, cá; làm đất nông nghiệp, đường sá, nhà
cửa và từ đó, đẩy mạnh sự xâm nhập nước mặn vào đất nội d ịa. Rừng ngập mặn với
các cây mắm, sú, vẹt, bần, đước,v.v. sống đan xen nhau, chồng chéo lên
nhau đến độ ánh sáng mặt trời không thể chiếu xuống tới được lớp lá mục của
loại rừng này và nhờ giải rừng dày đặc này mà đất không bị sói mòn, sạt
lở bởi sóng, triều cường v.v.
3.4 Phá hủy các rạn san hô. Cũng
như rừng ngập mặn, “rừng” san hô còn có tác dụng che chắn, giảm nhẹ sóng mạnh
đánh vào bờ nên bờ biển bớt xói lở.. Rạn san hô là 'rừng dưới biển’ với nhiều
loài, đủ các dạng như dạng bàn, dạng phiến, dạng khối, dạng dĩa với nhiều hình
thù khác nhau như cái hình cây nấm, cái hình những ngón tay, với nhiều sắc mầu
kỳ ảo. Rạn san hô cũng là nơi trú ẩn nhiều loài cá như cá thia, cá bàn chải, cá
hồng .. cũng như các loài động vật thân mềm (trai, ốc, mực ..), các loài thuộc
lớp chân bụng (ốc), thuộc lớp hai mảnh vỏ (hàu, sò, điệp..), hoặc loài giáp xác
(tôm, cua ..)
Các rạn san hô đóng vai trò quan trọng đối với môi trường
biển nhưng hệ sinh thái này đang bị khai thác qúa mức bằng lưu đạn, mìn, thuốc
nổ, hoá chất độc để đánh bắt hải sản sống trong rạn san hô, để khai thác san hô
cứng (cung cấp cho một số nhà máy sản xuất xi măng) hay san hô mềm, còn gọi là
bông đá. Thuốc nổ chẳng những hủy diệt tất cả những gì có trong rạn, trong lòng
đại dương, gây ô nhiễm môi trường, mà còn để lại hậu quả lâu dài đối với sự
phục hồi và phát triển (vốn rất chậm) của san hô.
San hô bị tàn phá thì:
-không còn chỗ cho các loài thuỷ sản sinh sống
-mất ghềnh đá san hô chắn sóng nên bờ biển dễ bị xói mòn
Ngoài ra, trong các rạn san hô có hàng trăm loài sinh
vật biển như: tảo, rong, cua, cá, tôm hùm, hải sâm, đồi mồi, động vật thân mềm,
chưa kể nhiều cá cảnh. Rạn san hô có tiềm năng du lịch to lớn.
3.5 Đại dương đang nóng lên
.Sự biến đổi khí hậu với khí thải CO2 tăng lên do hoạt động của con người đã
làm đại dương nóng lên, gây ra những trận bão nhiệt đới tàn phá gây thiệt hại
tài sản và nhân mạng như trận bão Hải Yến phá hủy luôn cả một thành phố ở Phi
Luật Tân, trận bão Sandy bay đến tận New York năm 2013. Khí hậu nóng lên làm
các khối tảng băng Bắc Cực tan ra nhanh, làm nước biển dâng lên và những thành phố ven biển dễ bị nguy cơ nhất.
Tạp chí National Geographic chỉ rõ có 5 thành phố sau đây nhiều nguy cơ ngập
nhất vì gần biển: Calculta và Bombay (Ấn Độ), Dhaka (Bangladesh), Thượng Hải
(Trung Quốc) và Saigon (Viet Nam). Và Ngày Môi trường Thế giới (5 tháng 6) năm
nay (2014) với chủ đềHãy hành
động để ngăn nước biển dâng nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của việc
bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu đối với các khu vực dễ bị tổn
thương như hải đảo và các khu vực ven biển. Chủ đề này đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng đối với Việt Nam vì Việt Nam có nhiều vùng đất trũng, đất thấp ven biển
rộng lớn tại đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng với khoảng
50% số dân cả nước sống ở các vùng đất thấp và ven biển
3.6 Xói lở bờ biển. Sự khai
thác bừa bãi càng ngày càng nhiều các tài nguyên như cát, sỏi, vật liệu xây
dựng trên các dòng sông để xây cất trong quá trình đô thị hoá cũng như xây kè
lấn ra bờ sông làm thay đổi dòng chảy hiện có, thay đổi cấu trúc/kết cấu/
địa mạo dòng sông, gây nhiều vực sâu, đưa đến tình trạng sạt lở bờ sông, như
tình trạng các dòng sông như Thu Bồn, Trà Khúc v.v. khiến nhiều gia đình
sống mấp mé bên các triền sông phải di dời hàng năm. Ở Việt Nam, nhiều tỉnh có
bờ biển bị xâm thực, ít đi từng ngày. Bãi cát trên bờ trước kia rộng
300-400m, nhưng ngày nay, sau một thời gian bị xâm thực, bờ biển gần như bị xoá
sổ trên bản đồ; nhiều nhà trước đây xa mép nước biển hàng trăm mét thì nay nước
biển đã mấp mé chân tường. Nhiều cư dân sống gần biển luôn lo âu bờ biển cứ xói
lở không dám ngủ trong nhà nên phải di tản vào sâu để tránh sóng.Nhiều công
trình lấn biển đang được triển khai, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường
3.7. Nhiều cửa sông bị bồi lấp sau mùa lũ.
Phá rừng làm phù sa bùn cát lắng đọng và các hồ chứa nước bị bồi đầy nhanh
chóng, nên cửa biển rất cạn, tàu thuyền khó qua lại. ‘Mỗi lần ra biển hay
trở về, ngư dân phải chờ thủy triều lên mới dám cho tàu qua lại. Khó khăn nhất
là mỗi khi có sương mù dày đặc, mưa rào nặng hạt hoặc đêm tối thì tai nạn mắc
cạn rất dễ xảy ra. Theo thống kê của ngư dân địa phương, mỗi năm có hơn 30 vụ
tàu thuyền mắc cạn tại khu vực này. Nhẹ thì trục vớt, cứu được phương tiện, còn
nặng thì tàu bị sóng đánh vỡ, vùi trong cát. Mỗi lần tàu bị mắc cạn, gây nguy
hiểm đến tính mạng và tài sản của ngư dân, còn trực tiếp ảnh hưởng tới kế hoạch
chuyến biển, doanh thu của tàu’ (trích báo trong nước)
4. Quản trị các vùng ven biển.
Từ các vấn nạn của môi trường biển vừa đề cập, loài người
cần phải quản trị môi trường biển một cách bền vững, phối hợp về mọi mặt
như du lịch, chuyển vận, đánh cá, năng lượng v.v nhằm mục tiêu sử dụng hợp lý
các tài nguyên. Quản trị các vùng ven biển nhằm vào bảo vệ tài nguyên ven
bờ cho các thế hệ mai sau trong khi vẫn phải điều hoà quyền lợi kinh tế, văn
hoá và môi trường.
Tóm tắt trong 4 P:
4.1. Prevent. Cần ngăn ngừa sự
thoái hoá và xói mòn các cửa sông, các bờ sông vùng ven biển. Ngăn ngừa không
làm ô nhiễm môi trường như đổ rác, phóng uế và cũng không khai thác cạn kiệt
nguồn tài nguyên của biển như không dùng mắt lưới qúa nhỏ, bớt đánh cá gần
bờ để giảm áp lực trên đàn cá sinh sản. Ngăn ngừa sự phá rừng trên các đồi cát
ven biển cũng như rừng ngập mặn
4.2. Preserve. Cần bảo tồn
phẩm (chất lượng) và đa dạng sinh học của môi trường ven bờ như giới hạn
các hoạt động của con người
4.3. Protect. Cần bảo vệ
thực vật và đời sống hoang dã các vùng ven biển. Không phá huỷ các rừng ngập
mặn ven bờ mà phải củng cố, trồng lại các chỗ bị tàn phá, nói cách khác là phải
bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên của tôm con, bảo vệ đàn tôm bố mẹ trong mùa đẻ,
bảo vệ đàn tôm con ở khu vực gần bờ. Chọn vùng khai thác để bảo tồn các
sinh vật biển có giá trị đang là đối tượng khai thác như rùa biển cũng như phối
hợp đáp ứng các yêu cầu thuỷ lợi cho nông nghiệp, thủy lợi cho thuỷ sản, suy
giảm nguồn nước ngầm ở những nơi nuôi tôm vùng cát đều là những vấn đề bức xúc
hiện nay
4.4. Promote: Thúc đẩy việc thiết
lập các khu bảo tồn sinh học biển nhằm tăng sự đa dạng sinh học,
các giải pháp quy hoạch bảo vệ những vùng ngập lũ, phát triển rừng, rừng ngập
mặn cản sóng, phát triển các dải cây xanh dọc theo bờ biển để cản gió
bão dành đất dự trữ để phát triển đê, điều, xây dựng hệ thống thoát nước, trạm
bơm chống úng ngập, thúc đẩy các nghiên cứu kỹ thuật phòng, chống ngập
úng, hoàn thiện hệ thống thoát nước mưa và tách nước thải ra khỏi hệ thống cống
chung, nạo vét mở rộng kênh rạch để xóa các điểm ngập tại đô thị .Hỗ trợ
cho đội tàu đánh cá xa bờ với công suất cao ( 400-900CV) để giảm áp lực cho các
ngư trường gần bờ.
5. Kết luận
Đại dương, biển cả ngày nay là biên giới cuối cùng của loài
người trên hành tinh này .Trong khi dân số trên thế giới vẫn tăng đều và diện
tích đất đai trồng trọt được càng ngày càng ít đi thì chính đại dương là nguồn
sống của nhân loại. Thực vậy, đại dưong là khí hậu, đại dương là
kho tài nguyên gần bờ, xa bờ, là kho tàng đáy biển, là nơi chứa
tiềm năng du lịch sinh thái và du lịch nghĩ ngơi, và đại dương cũng
là nghĩa trang vì cuối cùng, mọi chu kỳ cuộc sống đều tận cùng ở
chỗ thấp nhất, bao la nhất là biển . Chính vì vậy mà Liên Hiệp Quốc đã chọn năm
2013 là ‘Năm Đại Dương’ với chủ đề : ‘Chúng ta chỉ có
chung một đại dương, một bầu khí quyển, một tương lai’ nhằm mục đích nâng
cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mỗi người dân đối với công tác bảo vệ
môi trường và phát triển bền vững, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và
nước biển dâng, ngăn chặn sự gia tăng về tốc độ ô nhiễm và suy thoái môi
trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, vì sự phát triển bền vững của hành
tinh chúng ta
Môi trường bị đe doạ từ nhiều nguyên nhân, và nguyên nhân
của mọi nguyên nhân là từ cái
Tâm con người. Thực vậy, tài
nguyên trái đất này là hửu hạn và con người phải thích nghi với môi trường sống
càng ngày càng suy thoái.
Chợt nhớ vài vần thơ trong bài Biển Cả của Phùng Cung:
Hỡi biển cả
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát….
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ…
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ…
Vậy dẫu có vô cùng lớn lao gì đó
Ta chỉ yêu cầu phải hài hoà với vô cùng bé nhỏ mà thôi.
Hài hoà trong vũ trụ
có nghĩa kết hợp giữa bảo tồn biển và phát triển kinh tế biển, thông
qua tổng thể các giải pháp hợp lý nhằm phát triển bền vững, vừa đạt
được mục tiêu bảo tồn cho các thế hệ kế tiếp, vừa đạt được mục tiêu nhu cầu cho
các thế hệ hôm nay. Trái đất này là của chung, mọi việc đều liên quan đến nhau:
khí dioxyt cacbon trên khí quyển là một khí không biên giới; bầu không khí
O3 (ozone) là không biên cương. Nó không tuân thủ các ranh giới hành chánh
của các chính phủ. Môi sinh có thể nhìn dưới dạng vĩ mô hay vi mô.
Trên cương vị vĩ mô,
đó là trái đất, là một xứ; trên phạm vi vi
mô đó là một quả đồi, một thung lũng, một dòng sông, một cái hồ.
Trái đất này là Một, - một không có nghĩa là 1, 2 - mà là toàn thể (holism, do chữ whole). Đó cũng là luận thuyết GAIA. Gaia là một từ ngữ Hi Lạp cổ về nữ thần của Trái Đất. Ngày nay, người ta sử dụng danh từ này để mô tả một hệ thống trong đó đại dương, khí quyển, khí hậu và vỏ trái dất được điều chỉnh lẫn nhau để có sự sống: vũ trụ này là một thực thể sống động tương tác với những dòng chảy năng lượng luân lưu. Quan niệm Gaia với Trái Đất-Quê Hương buộc ta có một cái nhìn tổng thể, cái nhìn Huyền đồng.
Trái đất này là Một, - một không có nghĩa là 1, 2 - mà là toàn thể (holism, do chữ whole). Đó cũng là luận thuyết GAIA. Gaia là một từ ngữ Hi Lạp cổ về nữ thần của Trái Đất. Ngày nay, người ta sử dụng danh từ này để mô tả một hệ thống trong đó đại dương, khí quyển, khí hậu và vỏ trái dất được điều chỉnh lẫn nhau để có sự sống: vũ trụ này là một thực thể sống động tương tác với những dòng chảy năng lượng luân lưu. Quan niệm Gaia với Trái Đất-Quê Hương buộc ta có một cái nhìn tổng thể, cái nhìn Huyền đồng.
Thái Công Tụng
(Tổ Đình Từ Quang-Hè 2014)
***
Những bài viết của GS. Thái Công Tụng - Google Drive's LymHa:
***
No comments:
Post a Comment