23/5/2020
Ngày 11.05.2020, Ủy hội
sông Mekong (MRC) ra thông báo về việc Chính phủ Lào sẽ tiến hành Tham vấn trước
cho dự án thủy điện Sanakham. Ngày bắt đầu chính thức của sáu tháng thực hiện
thủ tục Tham vấn trước dự kiến sẽ được quyết định tại cuộc họp của nhóm công tác
gồm đại diện của Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam ngày 16.6.2020.
Ba
năm và sáu con đập chặn dòng Mekong
Dự án thủy điện
Sanakham nằm trên dòng chính hạ nguồn sông Mekong, cách thủ đô Viêng Chăn (Lào)
khoảng 155 km về phía hạ lưu, cách bờ biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
thuộc Việt Nam khoảng 1.737 km. Dự án này có công suất 684 MW với tổng vốn đầu
tư ước tính 2,073 tỷ USD. Dự kiến việc khởi công xây dựng dự án sẽ được thực hiện
trong năm 2020 và hoàn tất để đưa vào vận hành năm 2028.
Điện năng sản xuất ra từ
thủy điện Sanakham chủ yếu được bán sang Thái Lan [i].
Chủ đầu tư dự án
Sanakham là Công ty thủy điện Datang Sanakham (Lào). Đây là công ty con của
China Datang Corporation (CDT), một trong năm công ty phát điện lớn nhất Trung
Quốc. CDT là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập năm 2002 và được trực tiếp
quản lý bởi Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc [ii].
Tính đến thời điểm giữa
tháng 5.2020, Sanakham là con đập thủy điện thứ sáu được Lào trình ra MRC để thực
hiện thủ tục Tham vấn trước. Đã có hai con đập gồm Xayaburi và Don Sahong lần
lượt được đưa vào vận hành từ tháng 10.2019 và tháng 01.2020. Hai dự án dù chưa
xây dựng nhưng đã vượt qua thủ tục Tham vấn trước, gồm Pak Beng và Pak Lay lần
lượt hoàn tất tháng 06.2017 và tháng 04.2019.
Dự án thứ năm là Luang
Prabang bắt đầu Tham vấn trước từ tháng 10.2019, lẽ ra sẽ hoàn tất vào tháng
04.2020. Nhưng do đại dịch COVID-19, cuộc họp của Ủy ban liên hợp bốn quốc gia
Mekong để thảo luận tuyên bố chung của dự án Luang Prabang đã được hoãn lại đến
ngày 04.6.2020.
Chuỗi đập [thuỷ điện]
này làm gia tăng mức độ tổn thương của cư dân ĐBSCL do hạn hán, xâm nhập mặn, sụt
lún đất, xói lở bờ sông và ven biển, cùng với những mất mát về đa dạng sinh học,
nguồn lợi thủy sản, năng suất nông nghiệp và sinh kế người dân.
Như vậy, chỉ trong vòng
ba năm qua, đã có hai con đập được đưa vào vận hành, bốn con đập khác đang được
ráo riết chuẩn bị để hiện thực hóa trong vòng tám năm tới. Dòng chính hạ nguồn
sông Mekong đang dần “nghẽn mạch”, như cảnh báo của bác sỹ - nhà văn Ngô Thế
Vinh, người đã vượt hành trình dài 4.800 km dọc dòng Mekong từ Tây Tạng xuống
Biển Đông [iii].
Báo cáo đánh giá tác động
tích lũy của 11 đập thủy điện trên dòng chính hạ nguồn Mekong (2017) [iv] và
Nghiên cứu về quản lý và phát triển bền vững lưu vực Mekong (2019)[v] do MRC chủ
trì thực hiện đã nhận định rằng những tác động tích lũy kinh tế - xã hội - môi
trường do chuỗi đập này gây ra với Việt Nam là vô cùng nghiêm trọng. Theo đó,
chuỗi đập này làm gia tăng mức độ tổn thương của cư dân ĐBSCL do hạn hán, xâm
nhập mặn, sụt lún đất, xói lở bờ sông và ven biển, cùng với những mất mát về đa
dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản, năng suất nông nghiệp và sinh kế người dân.
Vị trí, hiện trạng và
công suất các dự án thủy điện trên dòng chính Mekong
đến tháng 5.2019.
Nguồn:
Tác giả cập nhật từ bản đồ gốc của International Rivers (2017) và ICEM (2010)
Cửa
bán điện của Luang Prabang càng hẹp
Trong 6 con đập đang và
sẽ tạo ra sự “nghẽn mạch” của dòng Mekong, có sự tham gia tích cực của một
doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam. Đó là Công ty Điện lực Dầu khí (PV Power), người
tiên phong phát triển dự án thủy điện Luang Prabang bằng việc ký kết một thỏa
thuận với Chính phủ Lào từ tháng 10.2007.
Dự án Luang Prabang có
công suất 1.460 MW, quy mô lớn thứ hai nhưng đã chiếm hơn 15% tổng công suất
trong tổng số chín dự án thủy điện được quy hoạch trên dòng chính Mekong thuộc
lãnh thổ Lào. Một doanh nghiệp đã được lập ra để đóng vai trò chủ đầu tư dự án
Luang Prabang là Công ty TNHH Năng lượng Luang Prabang (LPCL). PV Power nắm 38%
cổ phần của LPCL, hai cổ đông khác gồm Công ty TNHH PT (Lào) nắm 37% cổ phần và
Chính phủ Lào nắm 25% cổ phần [vi].
Với vị trí địa lý và thị
trường điện trong khu vực, dự án Luang Prabang chỉ có hai thị trường chủ yếu là
Thái Lan và Việt Nam. Như đã phân tích trong bài “Canh bạc Luang Prabang - Bài
1: Hiệu quả tài chính còn để ngỏ” [vii], do đặc điểm kỹ thuật của dự án Luang
Prabang, ước tính giá bán điện sang Thái Lan phải trong khoảng 7,5 - 8,6
UScent/kWh và về Việt Nam phải trong khoảng 8,6 - 9,6 UScent/kWh thì dự án này
mới có hiệu quả về mặt tài chính.
Nếu bán sang Thái Lan,
giá điện của Luang Prabang sẽ cao hơn từ 14% đến 30% so với giá điện của
Xayaburi. Nếu bán về Việt Nam, giá điện của Luang Prabang sẽ cao hơn từ 1,8 đến
2 lần so với khung giá phát điện do Bộ Công thương ban hành, vốn đang duy trì ở
mức 4,8 USCent/kWh.
Chính ông Hồ Công Kỳ,
Chủ tịch HĐQT của PV Power, phát biểu trên Báo Đầu tư ngày 24.6.2019 rằng “dự
án tốt” khi bán điện về Việt Nam với giá là 9,38 UScent/kWh. “Tuy nhiên, để triển
khai dự án này, PV Power sẽ phải xây dựng cơ chế đặc thù trình Thủ tướng Chính
phủ và có thể phải xin ý kiến Quốc hội. Quan điểm của PV Power là không hiệu quả
sẽ không đầu tư”, ông Kỳ nói [viii].
Theo tính toán của tác
giả bài này, nếu Việt Nam chấp nhận giá điện 9,38 UScent/kWh như PV Power mong
đợi, thì ngân sách để bù giá điện là 4,6 USCent/kWh. Với lượng điện năng thương
phẩm 6.231 GWh/năm, thì ngân sách hàng năm phải chi ra để bù giá cho Luang
Prabang lên đến trên 285 triệu USD.
Tính trong tối thiểu 30
năm chu kỳ dự án, khoảng bù giá này là 8,6 tỷ USD.
Lưu ý rằng PV Power nắm
38% cổ phần trong dự án, Chính phủ và doanh nghiệp Lào cùng nắm 62% cổ phần dự
án. Do đó, trong khoảng bù giá nêu trên, PV Power sẽ nhận được 3,3 tỷ USD, còn
Chính phủ và doanh nghiệp Lào sẽ được nhận 5,3 tỷ USD.
Với Thái Lan, chính phủ
nước này đã thu hẹp quy mô nhập khẩu điện từ Lào xuống còn 3.500 MW đến năm
2037. Nghĩa là bảy dự án Pak Beng, Luang Prabang, Pak Lay, Sanakham, Pak Chom,
Ban Khoum và Phou Ngouy trên lãnh thổ Lào với tổng công suất đến 8.000 MW phải
khốc liệt cạnh tranh nhau để bán điện cho Thái Lan. Chỉ tính riêng bốn dự án
đã, đang và chuẩn bị Tham vấn trước, gồm Pak Beng (912 MW), Pak Lay (1.320 MW),
Luang Prabang (1.460 MW), và Sanakham (684 MW) thì tổng công suất đã lên đến
4.376 MW, dư ra đến 876 MW công suất chưa biết bán cho ai. Hơn thế nữa, dự án
Luang Prabang cũng có vị trí bất lợi nhất để bán điện sang Thái Lan trong số bốn
dự án đó, do có khoảng cách truyền tải điện năng xa nhất.
Vì vậy, có thêm dự án
Sanakham, cửa bán điện của dự án Luang Prabang sang Thái Lan ngày càng hẹp.
Trong khi đó, nếu chấp nhận mua điện của Luang Prabang, Việt Nam sẽ phải mở đường
cho việc chi ra hàng tỷ USD ngân sách từ tiền đóng thuế để hỗ trợ cho PV Power,
cho Chính phủ và doanh nghiệp Lào.
Vì
sao Sanakham nộp hồ sơ tham vấn sau Luang Prabang?
Ngày 31.7.2019, Chính
phủ Lào thông báo cho Ban thư ký của MRC về ý định Tham vấn trước cho dự án thủy
điện Luang Prabang. Chưa đầy hai tháng sau, ngày 09.09.2019, Lào gởi tiếp thông
báo về ý định Tham vấn trước cho dự án thủy điện Sanakham, ngay sau khi hồ sơ
Tham vấn trước dự án Luang Prabang được đệ trình đến MRC. Vì muốn tập trung vào
việc Tham vấn trước cho Luang Prabang, nên MRC phải hoãn lại việc thông báo về
thủ tục Tham vấn trước cho Sanakham đến ngày 11.05.2020 [ix].
Việc
tham vấn liên tiếp hai dự án này có mối quan hệ gì với nhau?
Có luồng ý kiến chủ đạo
cho rằng Việt Nam nên chủ động đầu tư vào Luang Prabang để “chủ động tham gia từ
khâu thiết kế”, vì “Trung Quốc sẵn sàng nhảy vào đầu tư và chi phối các hoạt động
của thủy điện ở Lào”[x]. Nghĩa là, vì một nỗi sợ vô hình về việc “Trung Quốc nhảy
vào” nên Việt Nam “cần chọn cái dở ít nhất trong những cái dở” như ý kiến của
ông TS Tô Văn Trường bằng việc khuyến khích PV Power đầu tư vào Luang Prabang?
Theo Hồ sơ tham vấn trước
của dự án thủy điện Sanakham do chủ đầu tư Datang chuyển cho MRC[xi] thông qua Ủy
ban sông Mekong quốc gia Lào, điều đáng chú ý nhất là toàn bộ tài liệu đều ghi
thời hạn lập tháng 10.2018. Đặc biệt, còn có một tài liệu ghi là Hội thảo Tham
vấn & Khởi động (PNPCA Consulting & Opening Workshop) ngày 30.10.2018.
Như vậy, Datang đã sẵn sàng mọi tài liệu để trình lên MRC và có thể bắt đầu thủ
tục Tham vấn trước từ cuối tháng 10.2018. Điều gì khiến họ không làm điều đó mà
phải chờ đến gần một năm để Luang Prabang thực hiện tham vấn trước, rồi ngay lập
tức “lật ngửa quân bài”, gởi hồ sơ đệ trình dự án Sanakham lên MRC?
Không loại trừ khả năng
đây là một tính toán chiến thuật của Công ty thủy điện Datang Sanakham. Vào thời
điểm sẽ diễn cuộc họp của Ủy ban liên hợp các quốc gia Mekong để xem xét hồ sơ
Tham vấn trước dự án Sanakham khoảng hơn sáu tháng tới, mọi thảo luận và quyết
định của ủy ban này đối với dự án Luang Prabang đều sẽ được thông báo công
khai. Lúc ấy, nếu Việt Nam quyết định ủng hộ PV Power đầu tư vào Luang Prabang,
sẽ không còn một cơ hội nào cho Việt Nam phản đối Sanakham.
Trong khi còn chưa thấy
một doanh nghiệp Trung Quốc (tưởng tượng) nào đó “nhảy vào” Luang Prabang, thì
đã lù lù một công ty “bằng xương bằng thịt” là CDT xuất hiện để tích cực thúc đẩy
dự án Sanakham. Việc khuyến khích PV Power đầu tư vào Luang Prabang bất chấp hậu
quả và việc Datang lật con bài tẩy Sanakham nói lên điều gì?
Mặc dù Hiệp định Mekong
1995 không cho phép một quốc gia nào có quyền phủ quyết đối với các dự án được
đề xuất trên dòng chính Mekong, nhưng điều đó không có nghĩa bất cứ một quốc
gia nào cũng có thể thực hiện các dự án của họ mà bất chấp quyền lợi của các quốc
gia khác.
Một là, kiên quyết yêu
cầu PV Power rút ra khỏi dự án Luang Prabang, tổng hợp thông tin về những thiệt
hại của ĐBSCL do các dự án thủy điện đã vận hành gây ra để bằng mọi cách về ngoại
giao và pháp lý nhằm yêu cầu Lào (và Trung Quốc) tuân thủ quyền sử dụng nguồn
nước công bằng và hợp lý trên dòng Mekong.
Hai là, ủng hộ PV
Power, chuẩn bị ngân sách để hỗ trợ PV Power, Chính phủ Lào và doanh nghiệp Lào
đồng thời chối bỏ quyền phản đối của Việt Nam đối với tất cả các dự án thủy điện
trên dòng chính Mekong.
Việt
Nam sẽ chọn gì: kiên định với lập trường cách đây gần 10 năm, hay làm ngược lại
với những gì đã nói?
Ngày 19.04.2011, trong
Thông cáo báo chí của MRC về việc các nước hạ nguồn Mekong đưa quá trình Tham vấn
trước về dự án Xayaburi lên cấp Bộ trưởng, Việt Nam đã bày tỏ các mối quan ngại
sâu sắc về việc thiếu các đánh giá thỏa đáng, đầy đủ và toàn diện về các tác động
xuyên biên giới và lũy tích mà dự án này có thể gây ra cho khu vực hạ nguồn, đặc
biệt là vùng ĐBSCL. Việt Nam đề nghị trì hoãn dự án này và các dự án đề xuất
xây dựng đập thủy điện khác trên dòng chính sông Mekong ít nhất là 10 năm.
“Việc trì hoãn nên được
nhìn nhận một cách tích cực là một cách để có thêm thời gian cần thiết để chính
phủ các nước ven sông tiến hành các nghiên cứu toàn diện và mang tính định lượng
cụ thể hơn về tất cả các tác động lũy tích có thể có,” Tiến sỹ Lê Đức Trung,
trưởng đoàn Việt Nam, phát biểu[xii].
Mặc dù Hiệp định Mekong
1995 không cho phép một quốc gia nào có quyền phủ quyết đối với các dự án được
đề xuất trên dòng chính Mekong, nhưng điều đó không có nghĩa bất cứ một quốc
gia nào cũng có thể thực hiện các dự án của họ mà bất chấp quyền lợi của các quốc
gia khác. Việc thực hiện bất kỳ dự án nào mà không có sự đồng thuận của Ủy ban
liên hợp thuộc MRC sau khi kết thúc quy trình Tham vấn trước đều vi phạm Hiệp định
Mekong 1995. Điều này từng xảy ra với Xayaburi và Don Sahong khi Lào cho phép
các chủ đầu tư hai dự án này tiến hành thi công dù không có bất cứ đồng thuận
nào sau khi kết thúc Tham vấn trước [xiii].
Về nguyên tắc, khả năng
khởi kiện chính phủ Lào ra các tòa án quốc tế về việc vi phạm Hiệp định Mekong
1995 vẫn còn để ngỏ cho các quốc gia Campuchia, Thái Lan và Việt Nam [xiv]. Việc
Campuchia ra quyết định hoãn phát triển các đập thủy điện mới trên sông Mekong
trong 10 năm tới [xv], gồm Stung Treng và Sambor, không chỉ là một bước đi đúng
đắn về việc chuyển đổi sang các nguồn năng lượng thân thiện môi trường hơn mà
còn có thể tạo điều kiện cho những hành động pháp lý quyết liệt hơn của quốc
gia này đối với các dự án thủy điện trên lãnh thổ Lào.
Nguyễn
Đăng Anh Thi
Chuyên gia Năng lượng
và Môi trường (Canada)
https://www.baoquocdan.org/2020/05/nguyen-ang-anh-thi-canh-bac-luang.html
.
No comments:
Post a Comment