(How sand mining puts
Southeast Asia’s farmers at risk)
Skylar Lindsay – Bình Yên Đông lược dịch
Asean Today – May 19, 2020
Nguồn: Sumaira Addulali
Nông dân Đông Nam Á (ĐNA) đối mặt với áp lực gia tăng để nuôi
sống khu vực trong đại dịch, nhưng trên cả hạn hán và thay đổi khí hậu, họ đang
đối mặt với ảnh hưởng của việc khai thác cát.
“Đất nầy của tôi, nó sạt
lở dần từ bờ sông và một lúc sau, toàn bộ khối đất hoàn toàn sụp đổ,” Than Zaw
Oo, một nông dân ở ven sông Salween trong vùng đông nam Khu Hành chánh Mon,
Myanmar, nói với Reuters mới đây. Ông
nói ông mất ¾ đất vì sạt lở, và nay đang thiếu vài ngàn USD nợ dùng cho việc
gia cố bờ, trong cố gắng để duy trì nông trại của ông.
Trong khi Covid-19 gây
chấn động kinh tế và việc đóng cửa tạm thời khiến nhiều người không có thu
nhập, đại dịch nêu câu hỏi về an ninh của nguồn lương thực. Nông nghiệp ở ĐNA cho đến nay vẫn ổn định,
mặc dù nông dân trong vùng đã chật vật với những thách thức đáng kể từ hạn hán
và thay đổi khí hậu trước khi có đại dịch.
Nhưng nay,nông dân cũng
đang nhận thấy ảnh hưởng từ việc khai thác cát, một kỹ nghệ đang vươn ra được
thúc đẩy bởi nhu cầu cát cho bê tông và kiếng cho các thành phố và dự án hạ
tầng cơ sở.
Dọc theo các sông và
duyên hải trên khắp ĐNA, những người khai thác cát dùng máy xúc để lấy cát, đổ
đống trên các xà lan để mang sang các thành phố khổng lồ như Bangkok hay
Jakarta hay xa hơn. Quốc gia nhập cảng
cát lớn nhất thế giới là Singapore, dùng cát cho các dự án cải tạo đất. Những nguồn lớn nhất cho việc khai thác cát ở
trong vùng là Cambodia, Indonesia, Malaysia, Myanmar và Việt Nam.
Theo một phúc trình của
Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UN Environmental Programme (UNEP)), nhu
cầu cát toàn cầu gia tăng gấp 3 lần trong 20 năm qua đến 50 tỉ tấn mỗi năm,
nhiều hơn bất cứ tài nguyên thiên nhiên nào khác. Phúc trình cũng cho thấy việc khai cát cát
gây ô nhiễm, ngập lụt, hạ thấp mực nước ngầm và hạn hán. [Lời người dịch: Khai thác cát
có thể gây ô nhiễm; nhưng nó chưa được chứng minh là gây ngập lụt, hạ thấp mực
nước ngầm, và gây hạn hán.]
Ảnh hưởng của việc khai
cát cát làm cho hệ thống lương thực của ĐNA giảm sức chịu đựng và khiến cho
nông dân trong vùng dễ bị tổn thương hơn là ảnh hưởng của thay đổi khí hậu và
những chấn động như đại dịch Covid-19.
Khi cát được xúc từ lòng
sông, nó thay đổi tình trạng thủy học của sông và gây thiệt hại cho hệ sinh
thái. Nó hủy hoại nơi cư trú của cá và
lấy đi chất dinh dưỡng cho thú và nông nghiệp.
Khai cát cát từ lòng sông cũng gây sạt lở, dọc theo sông nơi khai thác
cát hay dọc theo bờ biển, nơi phù sa từ sông bồi đất. Ở các châu thổ, việc khai thác cát cũng có
thể làm cho xâm nhập của nước mặn trở thành mối đe dọa. [Lời người dịch: Điều nầy cũng chưa được chứng minh.]
Nông dân ĐNA đang mất đất vì sạt lở
Sạt lở do khai thác cát
đang gập nhấm đất đai của nông dân như Than Zaw Oo và nó có thể gây nguy hiểm
cho nguồn lương thực của Myanmar. Cư dân
dọc theo sông Salween và Irrawaddy, nơi Myanmar trồng hầu hết lương thực, nói
với các phóng viên và nhà nghiên cứu rằng sạt lở đã gia tăng nhanh chóng từ khi
có việc khai thác cát.
Marc Goichot, một chuyên
viên về nước ở Á Châu Thái Bình Dương của WWF, nói với Frontier Myanmar rằng các nhà nghiên cứu của ông nhận thấy Châu thổ
Irrawaddy đã bị mất dần vì phù sa bị lấy đi từ hệ thống sông. Năm 2008, châu thổ bị tàn phá bởi bão Nargis,
làm cho 138.000 người chết. Ông Goichot
nói, nếu châu thổ, một vùng sản xuất lương thực quan trọng, bị một cơn bão
tương tự trong lúc nầy, ảnh hưởng sẽ lớn hơn nhiều. Khi thay đổi khí hậu khiến cho giông bão mạnh
hơn và thường xuyên hơn trên khắp vùng, nguy cơ đối với các châu thổ cạn kiệt
như Irrawaddy gia tăng.
Sự bùng phát khai thác
cát hiện nay ở Myanmar bắt đầu một phần vì Philippines, Malaysia, Cambodia và
Việt nam đã hạn chế hay cấm xuất cảng cát sang Singapore, nâng cao nhu cầu ở
Myanmar.
Khai thác cát làm cho nước mặn tràn ngập nông nghiệp ở châu
thổ
Ảnh hưởng của việc khai
thác cát cũng khiến cho các châu thổ hệ trọng của khu vực dễ bị tổn thương vì
xâm nhập của nước mặn từ biển, nhất là Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam
(ĐBSCL). Đây là một trong những vùng
nông nghiệp trù phú nhất của ĐNA và thiết yếu cho hệ thống lương thực trong khu
vực và toàn cầu.
Nhưng việc khai thác cát
làm lòng sông sâu thêm, nó cho phép nước biển thâm nhập càng ngày càng sâu hơn
vào hệ thống sông trong mùa khô. Lòng
sông sâu hơn và lưu lượng thấp hơn cũng có nghĩa là nước biển ở trong ĐBSCL lâu
hơn, và hủy hoại mùa màng. Giữa thu
hoạch ít hơn và thu nhập thấp hơn của nông dân, sự xâm nhập của nước mặn là một
đe dọa lớn đối với nông nghiệp của ĐBSCL: năm nay, nó gây thiệt hại cho mùa
màng sâu đến 110 km vào đất liền. [Lời
người dịch: Đây có vẻ là mức xâm nhập của nước mặn trong sông Vàm Cỏ Tây. Việc gây thiệt hại cho mùa màng không được
chứng minh.]
Nguồn: Chmee2
Vấn đề thêm nghiêm trọng vì hạn hán và mực nước thấp kỷ lục
trong sông Mekong và hồ Tonle Sap ở Cambodia, cung cấp 1/3 nhu cầu nước của
ĐBSCL. Không có lưu lượng thêm vào đó,
nước biển có thể xâm nhập sâu thêm 30-40% vào đất liền trong mùa khô năm nay.
ĐBSCL cũng dễ tổn thương đối với những thay đổi thủy học
nhiều hơn dự đoán trước đây, như một nghiên cứu của Đại học Utrecht ở
Netherlands cho thấy là ĐBSCL, trên trung bình, chỉ cao hơn mực nước biển 0,8
m, thấp hơn 2 m so với các đo đạc trước đây. [Lời người dịch: kết quả nghiên cứu của Đại học Utrecht không phù hợp
với thực tế.]
Theo WWF và Ủy hội Sông Mekong, cát được khai thác từ Mekong
lên đến trên 55 triệu tấn mỗi năm – gần gấp đôi số lượng được sông mang
đến. Nhưng số lượng phù sa tự nhiên cũng
giảm nhanh với việc xây cất các đập thủy điện: một nghiên cứu của UNEP và Viện
Môi trường Stockholm năm 2017 cho thấy rằng, nếu các chánh phủ Mekong tiếp tục
với 11 đập dự trù trên dòng chánh Mekong, nó có thể ngăn chận 94% phù sa đến
ĐBSCL.
Lòng sông ở nhiều nơi trong hạ lưu Mekong sâu thêm từ 20 đến
30 cm mỗi năm. Giữa khai thác cát và ảnh
hưởng của đập, ĐBSCL có thể mất hầu hết phù sa để ngăn chận sự sục sạo của nước
biển.
Nhu cầu cao thúc đẩy
khai thác trái phép, ngay trong Covid-19
Indonesia, Cambodia, Malaysia và Việt Nam tất cả đã cấm hay
kiểm soát việc khai thác cát, một số để bán cho Singapore. Nhưng hầu hết đều trái phép: từ năm 2007 đến
2016, chỉ có 3,5% cát xuất cảng từ Cambodia sang Singapore được chánh phủ
Cambodia ghi nhận.
Ở Việt Nam, mức độ khai thác cát trái phép gia tăng đáng kể
trong lúc quốc gia nầy đóng cửa vì Covid-19, theo cư dân địa phương. Cư dân ở huyện Ba Vì, Hà Nội báo cáo một sự gia
tăng lớn các xà lan khai thác cát ở trong vùng của sông Hồng. Người địa phương trong tỉnh Bình Phước ở phía
nam cũng báo cáo một sự gia tăng tương tự, với xe vận tải đến và rời cộng đồng
mỗi ngày.
Giới chức Việt Nam cố gắng theo dõi việc khai thác trái phép
và bắt giữ một số người vi phạm, nhưng vấn đề vẫn như trước. Kế hoạch sắp tới của chánh phủ là nâng mức
phạt đối với việc khai thác trái phép và có thể sửa luật để xếp việc vi phạm
thành tội ăn trộm.
Nhưng mặt khác, trong một nền kinh tế bấp bênh, khai thác cát
cho thu nhập rất nhanh. Một mẻ cát có
thể mang lại từ 700 đến 1.000 USD, so với lợi tức trung bình hàng tháng của
người Việt Nam là 269 USD. Giá cát cũng
đang gia tăng nhanh chóng - ở Việt Nam, giá cát tăng gấp 4 lần trong năm
2017. Với ảnh hưởng kinh tế của đại
dịch, các chánh phủ sẽ phải hỗ trợ các người khai thác cát để tìm sinh kế khác.
Từ sạt lở đến nước mặn xâm nhập, vét lòng sông tạo thêm nguy
hiểm khiến nông dân trong vùng dễ bị tổn thương hơn – vào lúc nhiều người đang
lo lắng về sự ổn định của nguồn lương thực.
Khai thác cát đặt nông nghiệp ĐNA vào nơi nguy hiểm, và nếu không có
luật lệ cẩn thận, thi hành luật pháp và những bước để giảm nhu cầu, nông dân ở
nhiều nơi sẽ rất chật vật để nuôi sống cả vùng.
.
No comments:
Post a Comment