Minh Bảo
23/5/2020
"Bao phen quạ nói với diều Cù
lao ông Chưởng có nhiều cá tôm"... Trong hơn 300 năm lịch sử đầy biến động của mình, vùng đất
phương Nam của chúng ta chứng kiến vô số thay đổi thời cuộc. Suốt thời gian đó,
có những con người mà sự nghiệp của họ đã thành bất tử, tên của họ được nhân
dân ca tụng, lan truyền mấy trăm năm với tình cảm vô cùng trìu mến, hóa thành
những địa danh, những câu ca dao truyền miệng...
Câu ca dao trên có từ rất
xa xưa, trong đó có nói đến tên một vị võ tướng đã trở thành huyền thoại, đó là
“ông Chưởng” - một tên gọi dân gian tôn kính của Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh,
người đã dùng tài năng và đức độ của mình lần đầu tiên đem đến cho Đại Việt mảnh
đất phương Nam vô cùng xinh đẹp này.
Dòng dõi danh tướng
hàng đầu Nam triều
Nguyễn Hữu Cảnh (chữ
Hán: 阮有鏡,
1650–1700), tên đúng phải là Nguyễn Hữu Kính, do tôn trọng mà kiêng húy tên ông
nên sau này mà người ta đọc trại thành Cảnh. Ông làm quan đến tước Lễ Thành Hầu
(禮成侯),
sau này thời Minh Mạng lại được triều đình truy phong tước Vĩnh An Hầu (永安侯),
là một danh tướng thời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Nguyễn Hữu Cảnh sinh
thành tại thôn Phước Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh,
huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình), là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật.
Tục truyền rằng Nguyễn
Hữu Cảnh là cháu 9 đời của Nguyễn Trãi. Ông nội của ông là Nguyễn Triều Văn
(dòng Nguyễn Hữu, tước Triều Văn hầu, phò triều Lê và Nguyễn sơ), trước ở làng
Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sau theo chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) di
cư vào đất Thuận Hóa.
Trong số các dòng họ lớn
của miền Nam thời Nam triều về sau, thì dòng họ Nguyễn Hữu đất Quảng Bình có thể
coi là dòng họ danh giá, vẻ vang nhất khi có nhiều đời từ ông đến con cháu đều
làm quan đến hầu tước vào hàng khai quốc công thần, danh tiếng và đạo đức đều
sáng ngời sử sách.
Nguyễn Hữu Cảnh - vị tướng tài ba góp công lớn khi đánh bại vương quốc Chăm Pa hùng mạnh một thời, từ đó mở rộng lãnh thổ Việt Nam. (Ảnh: Shutterstock).
Nguyễn Hữu Cảnh sinh ra
trong một dòng họ danh giá, vẻ vang nhất khi có nhiều đời từ ông đến con cháu đều
làm quan đến hầu tước vào hàng khai quốc công thần.
Cha ông, Chiêu Vũ hầu
Nguyễn Hữu Dật, sinh nhiều con trai, trong đó có bốn người là tướng giỏi, kể
theo thứ tự gồm: Nguyễn Hữu Hào (tước Hào Lương hầu, tác giả truyện nôm Song
tinh bất dạ), Nguyễn Hữu Trung (tước Trung Thắng hầu), Nguyễn Hữu Cảnh (tước Lễ
Thành hầu) và Nguyễn Hữu Tín (tước Tín Đức hầu).
Lần đầu bình định
Champa, mở ra trấn Thuận Thành
Champa là một vương quốc
từng rất hùng mạnh nằm án ngữ toàn bộ miền Trung Việt Nam thời xưa. Họ đã nổi
lên như một thế lực đáng kể trong khu vực khi đã từng đánh vào tận Thăng Long của
nhà Trần và quyết chiến hàng trăm năm với đế quốc Khmer hùng mạnh phía Nam.
Nhưng có lẽ ý trời không phù hộ người Chăm nên quốc gia của họ dần dần tàn lụi
qua vô số cuộc chiến tranh với Đại Việt. Khởi đầu từ nhà Trần, cho đến cao điểm
vào thời Lê Thánh Tông, Champa ngày một thu nhỏ qua những lần bại trận. Đến thời
các chúa Nguyễn thì lãnh thổ Champa chỉ còn kéo dài đến Bình Thuận, nhưng lại một
lần nữa họ bị đánh bại và sáp nhập lãnh thổ. Người thực hiện điều này là Nguyễn
Hữu Cảnh, một vị tướng trẻ tài năng đang độ sung sức của quân đội nhà Chúa;
sách Đại Nam Thực lục - Tiền biên - quyển VII có ghi chép:
“Mùa thu, tháng 8, vua
nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ
Diên Ninh. Dinh Bình Khang đem việc báo lên. Chúa sai Cai cơ Nguyễn Hữu Kính
(con Nguyễn Hữu Dật bấy giờ gọi là Lễ tài hầu; chữ Tài, có chỗ viết là Thành, lại
là Hòa) làm Thống binh, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu suất lãnh
quân Chính dinh, cùng quân Quảng Nam và Bình Khang đi đánh.
Mùa đông, tháng 12, lấy
Lê Hoành Giảng và Nguyễn Khoa Chiêm làm thủ hợp Chính dinh.
Quý dậu, năm thứ 2
[1693], mùa xuân, tháng giêng, bọn Thống binh Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm
Thành, Bà Tranh bỏ thành chạy.
Tháng 3, Nguyễn Hữu
Kính bắt được Bà Tranh và bầy tôi là Tả trà viên Kế Bà Tử với thân thuộc là Bà
Ân đem về. Chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành.”
Vùng lãnh thổ của vương
quốc Chăm Pa hùng mạnh một thời, từng khiến nhiều đời vua của Đại Việt e ngại.
(Ảnh: Wikipedia).
Sau chiến công này,
chúa Nguyễn lần đầu tiên xưng Quốc chúa, từ thời điểm đó chính thức coi mình là
quốc vương một vương quốc độc lập là Đàng Trong:
“Ngày Ất Mão, chúa coi
việc chầu (việc quốc hiếu đã xong rồi làm lễ mừng), bầy tôi đến mừng, tấn tôn
chúa làm Thái phó quốc công, lại dâng tôn hiệu là quốc chúa. Từ đấy sắc lệnh đều
xưng là quốc chúa.
Mùa thu, tháng 7, Nguyễn
Hữu Kính đến cửa khuyết dâng chiến tù Chiêm là bọn Bà Tranh. Chúa sai kể tội và
giam ở núi Ngọc Trản, hàng tháng cấp cho tiền gạo vải lụa đủ dùng. Sai Cai đội
Nguyễn Trí Thắng giữ Phố Hài, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ giữ Phan Rí, Cai đội Chu
Kiêm Thắng giữ Phan Rang (Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang, nay đều thuộc Bình Thuận)
để phòng dư đảng của Thuận Thành.
Sai sửa công phủ, những
điếm quân ở các cửa trong ngoài phủ bắt đầu lợp ngói.
Tháng 8, đổi trấn Thuận
Thành làm phủ Bình Thuận, lấy Tả trà viên Kế Bà Tử làm Khám lý, ba người con Bà
Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người kinh và sai về
để vỗ yên lòng dân”. (Đại Nam Thực lục - Tiền biên- quyển VII).
Lần thứ hai bình định
Champa, Hữu Cảnh lập đại công
Vốn là một dân tộc thượng
võ và quật cường, người Champa không chịu dễ dàng khuất phục như thế. Họ nhân
cơ hội nhà Chúa chưa ổn định nền cai trị để quật khởi lần nữa. Lần quật khởi
này cũng gây khá nhiều thiệt hại, giết mất nhiều tướng lãnh cao cấp của chúa
Nguyễn.
Đại Nam Thực lục- Tiền
biên - quyển VII chép:
“Mùa đông, tháng 10,
ngày Đinh sửu, hai mặt trời cùng mọc.
Tháng 12, người Thanh
là A Ban cùng với Hữu trà viên là Ốc Nha Thát ở Thuận Thành nổi loạn. Trước là
A Ban đến ở Thuận Thành, vốn cùng Ốc Nha Thát đi lại rất thân. Từ lúc Bà Tranh
bị bắt, hai người đều chạy về đất Đại Đồng, A Ban đổi tên là Ngô Lãng tự xưng
mình có phép hô phong hoán vũ, gươm đao không thể làm bị thương. Người Thuận
Thành là Chế Vinh kêu họp dân man đi theo. Đến bấy giờ đem đồ đảng cướp Phố
Hài. Cai đội Nguyễn Trí Thắng đem quân chống đánh. A Ban giả đò thua, Trí Thắng
đuổi theo bị phục binh giết chết. Cai đội dinh Bà Rịa tên là Dực và thư ký là
Mai (không rõ họ) đem quân đến cứu viện, đều chết cả. A Ban bèn vào Phan Rí, lo
rằng cai cơ Nguyễn Tân Lễ sức mạnh, mình không chống nổi, bèn sai con gái người
dân Thuận Thành bỏ thuốc độc vào quả chuối cho Tân Lễ ăn. Tân Lễ bị câm. A Ban
lại tung nhiều tiền bạc để ngầm kết với quân Tân Lễ làm nội ứng. Đến khi đánh,
Tân Lễ bị bọn phản binh đâm chết, dinh trại của cải bị đốt và cướp gần hết. A
Ban lại kéo quân đến Phan Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng vì quân ít không ra,
đóng cửa thành tự thủ. Gặp Khám lý Kế Bà Tử vừa đến, Kiêm Thắng bắt trói ở
ngoài cửa thành bảo sẽ đem chém. Ốc Nha Thát sợ [Kế Bà Tử] bị giết, nói với A
Ban bỏ vây đi. Kiêm Thắng bèn thả Kế Bà Tử về”.
Quân Chăm Pa hừng hực
khí thế sau khi liên tục đánh bại và tiêu diệt các tướng lĩnh của chúa Nguyễn.
(Ảnh: Shutterstock).
Không những Champa nổi
loạn, mà nhà Chúa còn phải đối phó với chính sự phản loạn từ bên trong những
người họ hàng của mình (Tôn Thất):
“Giáp tuất, năm thứ 3
[1694], mùa xuân, tháng giêng, Chưởng cơ là Huệ và Thông (con thứ ba, thứ tư của
thiếu sư Tôn Thất Diễn) mưu nổi loạn. Chưởng cơ Tôn Thất Nhuận cùng tiểu sai là
Đức Nhân (không rõ họ) đem sự trạng báo lên. Kíp bắt giao xuống triều đình tra
hỏi, biết hết sự thực. Huệ và Thông cùng 7 người đồng mưu đều bị giết. Thưởng
cho Tôn Thất Nhuận và Đức Nhân thực ấp, tiền bạc, thực phẩm, theo thứ bực.” (Đại
Nam Thực lục - Tiền biên - quyển VII)
Lần nổi loạn này khá lớn
và đem lại nhiều tổn thất cho quan binh triều đình khi đi dẹp loạn. Nhà chúa
Nguyễn đã mất một số tướng lĩnh cao cấp trong thời gian này. Nhưng cũng nhờ vậy
mà Nguyễn Hữu Cảnh có cơ hội lập công dẹp giặc và được vinh thăng lên Chưởng
cơ. Cái tên ông Chưởng của ông bắt đầu có từ lúc này:
“A Ban lại vây Phan
Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng báo tin gấp về dinh Bình Khang. Trấn thủ Nguyễn Hữu
Oai và Lưu thủ Nhuận (không rõ họ) tiến binh theo thượng đạo để cứu viện. A Ban
bèn lui về Bào Lạc. Phan Rang được giải vây. Rồi Hữu Oai bị bệnh chết.
Tháng 2, A Ban tiến giữ
lũy Ô Liêm. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân
giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Quân ta đuổi theo sát. Giặc lại chạy về Thượng
Dã (tiếp địa giới Chân Lạp). Nhuận bèn về, đem việc báo lên. Chúa lại ra lệnh
cho Cai cơ Nguyễn Hữu Kính, và văn chức Trinh Tường (không rõ họ) tiện nghi xử
trí. Cai cơ Nguyễn Thắng Hổ đem quân tiến đánh, đảng giặc dẹp yên.
Thăng Nguyễn Hữu Kính
làm Chưởng cơ, lãnh Trấn thủ dinh Bình Khang.” (Đại Nam Thực lục- Tiền biên-
quyển VII).
(còn tiếp…)
Minh
Bảo
.
No comments:
Post a Comment