(How to
power the Mekong countries into a cleaner future)
Mekong Eye – Bình Yên Đông lược dịch
13 March 2023
Việt Nam đã trải qua việc
bùng nổ chưa từng thấy trong đầu tư năng lượng tái tạo,
nhất là điện gió và mặt
trời. [Ảnh: Yen Duong]
Hội thảo trên mạng lắng nghe chuyên
viên thảo luận các giải pháp đi đến một tương lai năng lượng sạch hơn, sáng hơn
cho các quốc gia Mekong.
BANGKOK, THAILAND – Các quốc gia Mekong có thể thực
hiện 100% năng lượng tái tạo mà không hy sinh những sông nhạy cảm sinh thái,
theo các chuyên viên tham dự buổi hội thảo trên mạng gần đây. Họ cũng thắc mắc nếu thủy điện là sự chọn lựa
khả chấp cho việc chuyển tiếp năng lượng sạch của khu vực.
Việc tăng giá nhiên liệu hóa thạch toàn cầu đã gây nên tình
trạng thiếu năng lượng trong nhiều quốc gia kể từ năm ngoái, và khu vực Mekong
không phải là một ngoại lệ.
Việt Nam, thí dụ, đã thỉnh thoảng bị mất điện suốt năm 2022
vì sự tăng vọt giá điện than. Thái Lan,
nơi thành phần điện dựa vào khí đốt thiên nhiên nhập cảng, cũng trải qua sự bốc
hơi giá cả và phải tăng cường việc tìm kiếm các nguồn năng lượng khác từ than
đá đến tái tạo.
Các nhà phân tích đã tiên đoán khủng hoảng năng lượng sẽ tiếp
tục đánh các quốc gia đang phát triển trong năm 2023. Nó cũng sẽ thúc đẩy nhiều quốc gia để tìm
kiếm năng lượng tái tạo.
Trong các quốc gia Mekong, thủy điện được xếp loại như nguồn
tái tạo có tiềm năng cao, cùng với mặt trời và gió.
Các nhà làm chánh sách xem nó như năng lượng sạch và phóng
thích thấp, có thể cung cấp điện “rẻ”, giải quyết thay đổi khí hậu và đáp ứng
với nhu cầu điện gia tăng, nhất là trong thời hậu-Covid khi các quốc gia toan
tính để tiếp tục tăng trưởng kinh tế trở lại.
Cambodia, Thái Lan và Việt Nam đã bày tỏ quan tâm mạnh mẽ
trong việc gia tăng số điện nhập cảng từ Lào, phần lớn được cung cấp từ các đập
thủy điện trên dòng chánh Mekong và các phụ lưu của nó.
Tin tức ở địa phương cho biết Việt Nam dự định mua 3.000 MW
từ Lào, trong khi Thái Lan sẽ nhập cảng tổng cộng 10,9 GW cho 2 thập niên sắp
tới.
Rừng đầm lầy nước ngọt ở
đông bắc Thái Lan bị ngập bất chấp mùa tự nhiên vì việc xây cất đập Rasi
Salai. Người dân địa phương nói rằng đập
làm giảm các loại cá và cây, buộc họ phải chật vật với việc mất thu nhập và an
toàn lương thực. [Ảnh: Visarut Sankham]
Dựa trên bối cảnh nầy, các cộng đồng địa phương và giới học
thuật đã nêu lên những lo ngại về ảnh hưởng xã hội và sinh thái của các đập
thủy điện, gồm có mất đa dạng sinh học, dời cư các cộng đồng và những thay đổi
cuộc sống tiêu cực cho các cộng đồng dựa vào sông.
Họ cũng thắc mắc nếu thủy điện thật sự sạch và nếu nó có thể
lót đường đến một sự chuyển tiếp đúng đắn, nơi người dân bị ảnh hưởng bởi các
đập sẽ không bị bỏ rơi.
Nối mạng lưới
điện
Rafael Guevara Senga, Quản đốc và Cầm đầu Năng lượng cho Phân
vùng Mekong và Vùng Phụ cận của Quỹ Hoang dã Thiên nhiên Thế giới (WWF), chỉ ra
rằng 100% tái tạo có thể được thực hiện mà không hy sinh các sông quý giá của
khu vực.
“Chúng tôi tin rằng có đủ nguồn tái tạo ngoài thủy điện có
thể cung cấp 100% điện vào năm 2050, hay sớm hơn. Phần lớn sẽ là mặt trời và gió và một sự gia
tăng rất tối thiểu trong thủy điện,” Senga nói trong buổi hội thảo trên mạng
gần đây Powering the Mekong: Does clean
energy means more dams? (Cung cấp điện cho Mekong: Năng lượng sạch có nghĩa là
thêm đập?) Buổi hội thảo trên mạng
được tổ chức bởi Internews’ Earth Journalism network (Hệ thống Phóng viên Địa
cầu của Internews).
Senga cầm đầu một nghiên cứu đang diễn ra của WWF để cung cấp
các giải pháp để tối ưu hóa những tái tạo với việc nới rộng một lưới khu vực
kết hợp dành riêng cho những vùng năng lượng tái tạo.
“Chúng tôi đang nhìn tới một mạng lưới khu vực được tổ chức
và thiết kế tốt vì nó có thể giúp việc sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn tái
tạo lớn lao của Mekong, gồm có mặt trời và gió chưa được sử dụng. Chúng tôi chỉ chạm vào bề mặt của cái chúng
ta có ở đây,” ông nói.
“Điều nầy đòi hỏi hợp tác khu vực và ý chí chánh trị giữa các
chánh phủ. Nó không còn là thách thức kỹ
thuật hay kinh tế nữa. Mặt trời và gió nay
là nguồn năng lượng rẻ nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.”
Từ năm 2021 đến nay, các turbines khí đốt có chu kỳ được phối
hợp là nguồn dẫn đầu của việc sản xuất điện của khu vực với tổng số công suất
42.555 MW. Nó được theo sau bởi thủy
điện (38.541 MW), than (32,310 MW) và tấm quang điện (18.147 MW). Gió và sinh khối đóng vai trò thứ yếu trong
sự trộn lẫn năng lượng.
Nghiên cứu của WWF tiên đoán rằng khu vực Mekong sẽ có một
trong những tăng trưởng nhanh nhất trong nhu cầu năng lượng, sẽ làm tăng từ gần
500 TWh trong năm 2021 đến trên 1.600 TWh trong năm 2050. Việt Nam sẽ chiếm 50% của nhu cầu nầy.
Kế hoạch phát triển lưới hiện nay chú trọng đến năng lượng cổ
điển và không tận dụng tiềm năng đầy đủ của điện mặt trời và gió, Senga nói.
Nối mạng lưới khu vực đến các vùng tái tạo có giá trị sẽ ổn
định năng lượng, giảm chi phí điện và cứu các sông nhạy cảm sinh thái bằng cách
thay đổi vai trò của thủy điện hiện nay từ một nguồn điện căn bản đến một nguồn
điện dự phòng cho mặt trời và gió, mà không xây đập mới.
Một mô hình tương tự có thể được thấy trong lưới điện của Âu
Châu, được điều hành trong một hệ thống duy nhất để đa dạng hóa các nguồn điện
của khu vực, từ thủy điện và nhiên liệu hóa thạch đến điện gió, và cung cấp
năng lượng khi công suất của gió và mặt trời yếu.
Một trang trại gió trong
tỉnh Bạc Liêu ở Việt Nam, nơi năng lượng gió đang được tăng tốc để làm giảm sự
lệ thuộc vào than đá và khí dốt của tỉnh. [Ảnh: Chi Quoc]
Thảo luận
thủy điện khả chấp
Tại COP 27 ở Egypt hồi năm ngoái, Hiệp hội Thủy điện Quốc tế
(IHA) công bố một tuyên bố kêu gọi các lãnh đạo trên thế giới đầu tư thêm vào
đập như một giải pháp để giảm nhẹ và thích ứng khí hậu.
“Thủy điện khả chấp” là từ ngữ mà kỹ nghệ đã dùng đi dùng lại
để khuyến khích các đập như nguồn năng lượng phóng thích thấp và ảnh hưởng
thấp.
Tranh cãi chung quanh từ ngữ nầy đã được theo dõi bởi Carl
Middleton, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Xã hội của Đại học
Chulalongkorn ở Thái Lan, người truy nguồn gốc của từ ngữ trong thập niên 1970s
khi các dự án thủy điện lớn được khởi động ở nhiều nơi trên thế giới.
Trong thập niên 1990s, những đập nầy trải qua cao điểm của sự
chỉ trích rộng rãi vì ảnh hưởng xã hội và môi trường của chúng và sự thất bại
trong việc đóng góp vào phát triển.
“Thảo luận thủy điện khả chấp” xuất hiện để chống lại những
chỉ trích nầy bằng cách hứa hẹn để mang những lối thực hành tốt nhất vào việc
điều hành đập, Middleton quan sát.
Trong năm 2009, Ủy hội Sông Mekong (MRC) phát động sáng kiến
thủy điện khả chấp đưa đến việc phát động chiến lược phát triển thủy điện khả
chấp trong năm 2021. Nó đề cập đến sự
tham gia của quần chúng và đánh giá ảnh hưởng nhằm mục đích cải thiện những cái
sai của những lối thực hành trong quá khứ.
Nhưng trong khu vực Mekong, Middleton thấy rằng những lối
thực hành tốt nhất nầy có thể không có tác dụng tại chỗ tốt bên trong bối cảnh
của tự do giới hạn về xã hội, chánh trị và truyền thông, và thường thiếu trách
nhiệm.
“Ý tưởng của thủy điện khả chấp là những sửa chữa kỹ thuật –
xây các đường cá đi, các turbines thân thiện với cá, tháo phù sa và v.v. Những sửa chữa kỹ thuật nầy có thể là một sự
cải thiện đối với các đường lối trong quá khứ, nhưng chúng vẫn không đề cập đầy
đủ những ảnh hưởng xã hội và môi trường của các dự án thủy điện lớn,” ông nói.
Ý tưởng “đặt kỹ thuật ở trọng tâm” nầy đổi thương hiệu của
thủy điện như là một giải pháp, Middleton nói thêm, nhưng chỉ ra rằng nó thu
hút sự chú ý từ những tầm rộng lớn hơn của những giá trị mà sông cung cấp cũng
như các giải pháp có tiềm năng thay thế khác.
“Nó không có nghĩa là nguồn cung cấp điện không phải là vấn
đề kỹ thuật. Vì nó là một vấn đề. Nhưng những quyết định chống đỡ chung quanh
một số dự án không phải là câu trả lời kỹ thuật đúng đắn. Thật sự, nó thiên về những giá trị của xã
hội, về cái gì quan trọng về mặt công lý môi trường và xã hội và tính khả chấp môi
trường.”
Một thang cá được thêm vào
đập Pak Mun trong tỉnh Ubon Ratchathani ở đông bắc Thái Lan để cho phép cá di
chuyển qua việc xây cất đập. [Ảnh: Visarut Sankham]
Ông nói đến một số nghiên cứu gần đây được thực hiện cho khu
vực Mekong và các sông nhiệt đới khác, nói nó có thể không giả sử rằng tất cả
các dự án thủy điện làm giảm lượng phóng thích khí nhà kiếng đáng kể và cần
thực hiện thêm các nghiên cứu để lượng định lời tuyên bố nầy.
Cũng có việc tranh luận về việc đóng góp của các đập lớn đến
các chiến lược thích ứng khí hậu.
Nhiều dự án được điều hành bởi các diễn viên tư nhân hoặc các
hợp doanh công-tư nơi các công ty phải đáp ứng những bắt buộc của nguồn cung
cấp điện hay bị phạt, có nghĩa là những đập nầy không thực hiện đầy đủ nhiệm vụ
của chúng trong việc quản lý hạn hán và lũ lụt khi cần.
Phân tán
năng lượng
Một số tổ chức xã hội dân sự trong khu vực Mekong đã xung
kích những phong trào để khuyến khích khái niệm và đường lối phân tán năng
lượng, trong đó sự tham gia của nhiều bên liên hệ là chìa khóa cho sự chuyển
tiếp đúng đắn.
Một trong số đó là EnergyLab Cambodia, một tổ chức bất vụ lợi
chú trọng đến việc tham dự của những nhóm xã hội dân sự và những doanh thương ở
địa phương trong việc khuyến khích năng lượng sạch ở cấp cộng đồng.
Sokphalkun Out, Quản đốc Chương trình Tham gia của EnergyLab
Cambodia, nói rằng các cộng đồng ở địa phương, nhất là những cộng đồng ở nơi xa
xôi nơi lưới điện quốc gia không có, có thể được lợi từ hệ thống năng lượng
phân tán.
Cambodia có khoảng 45.000 MW tiềm năng điện mặt trời, nhưng
chỉ có 500 MW được sử dụng hiện nay.
“Có quan tâm trong việc tham gia tích cực từ cộng đồng để
giải quyết vấn đề năng lượng và sự cần thiết bằng cách nhìn vào đường lối lấy
con người làm trọng tâm – đến cộng đồng, làm một số xây dựng khả năng hay tạo
sự hiểu biết về những loại kỹ thuật khác nhau để làm cho họ hiểu cái họ cần là
gì,” bà nói.
“Không nói chỉ có [tiếp cận đến] một lưới điện siêu nhỏ trên
khắp Cambodia, nhưng là, cái mà dự án khác chúng ta sẽ cần cho cộng đồng
đó. Có sự tham gia tích cực từ cộng đồng
rất quan trọng để bảo đảm có một sự chuyển tiếp năng lượng đúng đắn ở đó.”
Sự cần thiết của đường lối từ dưới lên trong việc tăng tốc
việc chuyển tiếp năng lượng có thể cần cho Cambodia, ví các kế hoạch của chánh
phủ để gia tăng nguồn năng lượng không tái tạo đến 74% của sự trộn lẫn năng
lượng quốc gia.
Những nguồn năng lượng nầy, ưu tiên hóa các nhà máy điện
nhiên liệu hóa thạch và thủy điện thường dựa vào đường lối tập trung rất hiếm
khi có sự tham gia có ý nghĩa và tạo ra xung dột khi ảnh hưởng môi trường và xã
hội xảy ra.
Stefan Bößner, một Thành viên Nghiên cứu ở Viện Môi trường
Stockholm, nói các thị trường năng lượng ở Dông Nam Á (ĐNA) không được thiết
lập cho việc sản xuất năng lượng tái tạo phân tán và uyển chuyển, nhưng thay
vào đó được thúc đẩy bởi độc quyền điện.
“Cần phải thay đổi để làm cho việc chuyển tiếp năng lượng
thành công. Chúng ta sẽ đi từ một hệ
thống tập trung dựa vào nhiên liệu hóa thạch đến một hệ thống phân tán qui mô
nhỏ dựa trên năng lượng carbon thấp.
Điều nầy ám chỉ đến việc thay đổi cấu trúc thị trường và hạ tầng cơ sở, Bößner
nói.
“Năng lượng phân tán cung cấp một số lợi ích cho người dân để
mang họ lại với nhau. Người dân tập họp
với nhau và đầu tư tập tể vào năng lượng tái tạo. Điều đó tạo nên ‘các cộng đồng năng
lượng’. Chúng ta có một số kinh nghiệm ở
Đức, nơi 50% của việc thiết lập tái tạo do cư dân làm chủ.”
Bößner nói cần phải giải quyết hiệu năng và tối ưu hóa năng
lượng trước khi thêm điện mới vào hệ thống.
Thực hiện điều nầy sẽ đòi hỏi các quốc gia ĐNA giúp sự tham gia của
nhiều bên liên hệ để hiểu sự cần thiết.
“Phối hợp thêm về cấp song phương như bước đầu sẽ giúp [ĐNA]
để sử dụng tài nguyên của họ có hiệu quả hơn.
Các hành động tập thể và khu vực hay hợp tác song phương, thay vì các dự
án đại qui mô, có thể là một cách tốt để đi tới,” ông nói thêm.
.