.
Trong tháng 7 năm 2016, nhân chuyện Philippines kiện Trung quốc về biển Đông, nhóm LymHa chúng tôi xin được post lên Blog CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982 để độc giả tiện dụng, vì dẫu đó là chuyện kiện biển Đông của Philippines, nhưng là hình ảnh của chuyện Trung Cộng chiếm biển Đông của Việt Nam, vẫn là chuyện NƯỚC... NON như chuyện dòng MEKONG-CỬU LONG".
Trong tháng 7 năm 2016, nhân chuyện Philippines kiện Trung quốc về biển Đông, nhóm LymHa chúng tôi xin được post lên Blog CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982 để độc giả tiện dụng, vì dẫu đó là chuyện kiện biển Đông của Philippines, nhưng là hình ảnh của chuyện Trung Cộng chiếm biển Đông của Việt Nam, vẫn là chuyện NƯỚC... NON như chuyện dòng MEKONG-CỬU LONG".
*****
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations Convention on Law of the Sea - UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982. UNCLOS có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994.
Công ước Luật biển quy
định về sử dụng các đại dương của thế giới. Công ước đã được ký kết
năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn.
Công ước quy định quyền
và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn
rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý
các tài nguyên thiên nhiên đại dương.
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển lần I – 1956 tại Geneva
Năm 1956, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội
nghị về Luật Biển đầu tiên (UNCLOS I)
ở Geneva, Thụy Sĩ. Hội nghị này đạt được bốn hiệp định ký kết năm 1958:
- Công Ước về Lãnh Hải và Vùng Tiếp Giáp, có hiệu lực vào ngày 10/09/1964
- Công Ước về Thềm Lục Địa, có hiệu lực vào ngày 10/06/1964
- Công Ước về Hải Phận Quốc tế, có hiệu lực vào ngày 30/09/1962
- Công Ước về Nghề Cá và Bảo Tồn Tài nguyên Sống ở Hải Phận Quốc tế, có hiệu lực vào ngày 20/03/1966.
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển Lần II – 1960 tại Geneva
Năm 1960, Liên Hiệp Quốc
tổ chức Hội nghị về Luật Biển lần hai. Tuy nhiên, hội nghị sáu tuần ở Geneva
không đạt được tiến triển nào mới.
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển Lần III – 1973 tại New York
Năm 1973, Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần
thứ 3 về Luật biển (Third United Nations Conference on the Law of the Sea)
được tổ chức tại New York. Kết quả là công ước có hiệu lực từ
ngày 16 tháng 11 năm 1994.
Các vùng biển theo luật biển quốc tế
(Source Wikipedia)
Source:
*****
List of parties to the United
Nations Convention on the Law of the Sea
The United Nations Convention
on the Law of the Sea (UNCLOS) is the international agreement that
resulted from the third United Nations Conference on the Law of the Sea (UNCLOS
III), which took place between 1973 and 1982. The convention was opened for
signature on 10 December 1982 and entered into force on 16 November 1994 upon
deposition of the 60th instrument of ratification.
The convention has been ratified by 168 parties, which
includes 167 states (164 United Nations member states plus the UN Observer state Palestine, as well as the Cook Islands
and Niue)
and the European Union. An additional 14 UN member
states have signed, but not ratified the convention.
Subsequently, the "Agreement
relating to the implementation of Part XI of the United Nations Convention on
the Law of the Sea" was signed in 1994, amending the original
Convention. The agreement has been ratified by 149 parties (all of which are
parties to the Convention), which includes 148 states (145 United Nations member states plus the UN Observer state Palestine, as well as the Cook Islands
and Niue)
and the European Union. An additional three
UN member states have signed, but not ratified the agreement.
Although the United States helped
shape the Convention and its subsequent revisions, and
though it signed the 1994 Agreement on Implementation, it has not signed the
Convention as it objected to Part XI of the Convention.
In 1983 President Ronald Reagan,
through Proclamation No. 5030, claimed a 200-mile
exclusive economic zone. In December 1988 President Reagan, through
Proclamation No. 5928, extended U.S. territorial waters from three nautical
miles to twelve nautical miles for national security purposes. However a legal
opinion from the Justice Department
questioned the President's constitutional authority to extend sovereignty as
Congress has the power to make laws concerning the territory belonging to the
United States under the U.S. Constitution. In any event, Congress needs to make
laws defining if the extended waters, including oil and mineral rights, are
under State or Federal control.
On 16 July 2012, the U.S. Senate had
34 Republican Senators who have indicated their intention to vote against
ratification of the Treaty if it comes to a vote. Since at least 2/3 of the 100
member Senate (at least 67 Senators) are required to ratify a treaty,
consideration of the treaty was deferred again.
Some American commentators, including
former Secretary of Defense Donald
Rumsfeld, have warned that ratification of the Law of the Sea Treaty
might lead to its taxing authority being extended to cover the resources of outer space.
Parties
Parties, dually represented by the European Union
Signatories
Non-parties
Source:
CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HIỆP QUỐC
VỀ LUẬT BIỂN 1982
(Ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982)
CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN CỦA CÔNG ƯỚC
Với lòng mong muốn giải quyết, trên
tinh thần hiểu biết và hợp tác với nhau, mọi vấn đề liên quan đến luật biển, và
ý thức được tầm vóc lịch sử của Công ước là một cống hiến quan trọng vào việc
giữ gìn hòa bình, công lý và tiến bộ cho tất cả các dân tộc trên thế giới;
Nhận thấy rằng, những sự kiện mới
nảy sinh kể từ các Hội nghị của Liên hợp quốc về luật biển được nhóm họp tại
Giơnevơ năm 1958 và năm 1960, đã làm tăng thêm sự cần thiết phải có một Công
ước mới về luật biển có thể được mọi người chấp nhận;
Ý thức rằng, những vấn đề về các
vùng biển có liên quan chặt chẽ với nhau và cần được xem xét một cách đồng bộ;
Thừa nhận rằng, điều đáng mong muốn
là, bằng Công ước với sự quan tâm đúng mức đến chủ quyền của tất cả các quốc
gia, thiết lập được một trật tự pháp lý cho các biển và đại dương làm dễ dàng
cho việc sử dụng công bằng và hiệu quả những tài nguyên, việc bảo tồn những
nguồn lợi sinh vật của các biển và các đại dương, việc nghiên cứu, bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển;
Cho rằng, việc thực hiện các mục
tiêu này sẽ góp phần thiết lập nên một trật tự kinh tế quốc tếđúng đắn và công
bằng, trong đó có tính đến các lợi ích và nhu cầu của toàn thể loài người và
đặc biệt là các lợi ích và nhu cầu riêng của các nước đang phát triển, dù có
biển hay không có biển;
Mong muốn phát triển bằng Công ước,
các nguyên tắc trong Nghị quyết 2749 (XXV) ngày 17 tháng 12 năm 1970, trong đó
Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đặc biệt trịnh trọng tuyên bố rằng khu vực đáy
biển và đại dương, cũng như lòng đất dưới đáy các khu vực nằm ngoài giới hạn
chung của loài người và việc thăm dò, khai thác khu vực này sẽ được tiến hành
vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các
quốc gia;
Tin tưởng rằng, việc pháp điển hóa
và sự phát triển theo chiều hướng tiến hóa của Luật biển được thực hiện trong
Công ước sẽ góp phần tăng cường hòa bình, an ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị
giữa tất cả các dân tộc phù hợp với các nguyên tắc công bằng và bình đẳng về
quyền, và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tiến bộ về kinh tế và xã hội của tất
cả các dân tộc trên thế giới, phù hợp với các mục tiêu và các nguyên tắc của
Liên hợp quốc như đã được nêu trong Hiến chương;
Khẳng định rằng, các vấn đề không
quy định trong Công ước sẽ tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc
của pháp luật quốc tế chung;
Đã thỏa thuận như sau:
PHẦN I - MỞ ĐẦU
ĐIỀU 1. Sử dụng các thuật ngữ và
phạm vi áp dụng
Những thuật ngữ được sử dụng trong
Công ước cần được hiểu như sau:
1. “Vùng” (Zone): là đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia;
2. “Cơ quan quyền lực” (Autorité):
là cơ quan quyền lực quốc tế vềđáy biển;
3. “Các hoạt động được tiến hành trong
Vùng” (activités menées dans la Zone): là mọi hoạt động thăm dò và khai thác
các tài nguyên của Vùng;
4. “Ô nhiễm môi trường biển”
(Pullution du milieu marin): là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các
chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi
việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi
sinh vật, và đến hệ động vật và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe
con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản
và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước
biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển;
5. a) “Sự nhận chìm” (immersion) là:
i. mọi sự trút bỏ có ý thức xuống
biển các chất thải hoặc các chất khác từ các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn
nổi hoặc công trình khác được bố trí ở biển.
ii. mọi sựđánh chìm tàu thuyền,
phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được bố trí ở biển.
b) Thuật ngữ “nhận chìm” không nhằm
vào:
i. việc vứt bỏ các chất thải hoặc
các chất khác được sản sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc khai thác bình
thường của tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được
bố trí trên biển, cũng như các thiết bị của chúng, ngoại trừ các chất thải hoặc
các chất khác được chuyên chở hoặc chuyển tài trên các tàu thuyền, phương tiện
bay, giàn nổi hoặc các công trình khác bố trí ở biển được dùng để thải bỏ các
chất đó, trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hay các công trình đó
tạo ra;
ii. việc tàng chứa các chất với mục
đích không phải chỉ là để thải bỏ chúng với điều kiện là việc tàng chứa này
không đi ngược lại những mục đich của Công ước.
2.1 “Các quốc gia thành viên” (Etats
Parties) là những quốc gia đã chấp nhận sự ràng buộc của Công ước và Công ước
có hiệu lực đối với các quốc gia đó.
2. Công ước được áp dụng mulatis
mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho những thực thể nói
trong Điều 305 khoản 1, điểm b, c, d, e và f đã trở thành thành viên của Công
ước, theo đúng với các điều kiện liên quan đến từng thực thể; trong giới hạn
đó, thuật ngữ “quốc gia thành viên” cũng dùng để chỉ những thực thể này.
PHẦN II - LÃNH HẢI VÀ VÙNG TIẾP GIÁP
Mục 1 - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 2. Chế độ pháp lý của lãnh hải
và vùng trời ở trên lãnh hải cũng nhưđáy và lòng đất dưới đáy của lãnh hải
Chủ quyền của quốc gia ven biển được
mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc
gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là
lãnh hải (merterritoriale)
Chủ quyền này được mở rộng đến vùng
trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất của biển này.
Chủ quyền của Công ước và các quy
tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Mục 2 - RANH GIỚI CỦA LÃNH HẢI
ĐIỀU 3. Chiều rộng của lãnh hải
Mọi quốc gia đều có quyền ấn định
chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ
đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước.
ĐIỀU 4. Ranh giới phía ngoài của
lãnh hải
Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là
một đường mà mỗi điểm ở trên đường đó cách điểm gần nhất của đường cơ sở một
khoảng cách bằng chiều rộng của lãnh hải.
ĐIỀU 5. Đường cơ sở thông thường
Trừ khi có quy định trái ngược của
Công ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn
nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ
lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận.
ĐIỀU 6. Các mỏm đá (recifs)
Trong trường hợp những bộ phận đảo
cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất ở bờ phía ngoài
cũng của các mỏm đá, nhưđã được thể hiện trên các hải đồ được quốc gia ven biển
chính thức công nhận.
ĐIỀU 7. Đường cơ sở thẳng
1.
Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và
lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương
pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2.
Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn
định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có
thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía
trong bờ, các đường cơ sởđã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc
gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.
3.
Tuyến các đường cơ sở không được đi
chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ
sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.
4.
Các đường cơ sở thẳng không được kéo
đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ởđó có những
đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc
vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.
5.
Trong những trường hợp mà phương
pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một sốđoạn
đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà
thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng
minh rõ ràng.
6.
Phương pháp đường cơ sở thẳng do một
quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi
biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.
ĐIỀU 8. Nội thủy
1.
Trừ trường hợp đã được quy định ở
Phần IV, các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy
của quốc gia.
2.
Khi một đường cơ sở thẳng được vạch
ra theo đúng phương pháp được nói ởĐiều 7 gộp vào nội thủy các vùng nước trước
đó chưa được coi là nội thủy, thì quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước
vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó.
ĐIỀU 9. Cửa sông
Nếu một con sông đổ ra biển mà không
tạo thành vụng thì đường cơ sở là một đường thẳng được kẻ ngay qua cửa sông nối
liền các điểm ngoài cùng của ngấn nước triều thấp nhất ở hai bên bờ sông.
ĐIỀU 10. Vịnh
1.
Điều này chỉ liên quan đến những
vịnh mà bờ vịnh thuộc một quốc gia duy nhất.
2.
Trong Công ước, “Vịnh” (baie) cần
được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền mà chiều sâu của vùng lõm đó
so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là nước của vùng lõm đó được
bờ biển bao quanh và vùng đó lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển. Tuy
nhiên, một vũng lõm chỉ được coi là một vịnh nếu như diện tích của nó ít nhất
cũng bằng diện tích một nửa hình tròn có đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua
cửa vào của vùng lõm.
3.
Diện tích của một vùng lõm được tính
giữa ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối
liền các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do có
các đảo mà một vùng lõm có nhiều cửa vào, thì nửa hình tròn nói trên có đường
kính bằng tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào đó. Diện tích
của các đảo nằm trong một vùng lõm được tính vào diện tích chung của vùng lõm.
4.
Nếu khoảng cách giữa các ngấn nước
triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên một vịnh không vượt quá 24 hải
lý, thì đường phân giới có thể được vạch giữa hai ngấn nước triều thấp nhất này
và vùng nước ở phía bên trong đường đó được coi là nội thủy.
5.
Khi khoảng cách giữa các ngấn nước
triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên của một vịnh vượt quá 24 hải
lý, thì được kẻ một đoạn đường cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong vịnh, sao
cho phía trong của nó có một diện tích nước tối đa.
6.
Các quy định trên đây không áp dụng
đối với các vịnh gọi là “vịnh lịch sử” và cũng không áp dụng đối với các trường
hợp làm theo phương pháp đường cơ sở thẳng được trù định trong Điều 7.
ĐIỀU 11. Cảng
Để ấn định ranh giới lãnh hải, các
công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của một hệ thống cảng, nhô
ra ngoài khơi xa nhất, được coi là thành phần của bờ biển. Các công trình thiết
bịở ngoài khơi xa bờ biển và các đảo nhân tạo không được coi là những công
trình thiết bị cảng thường xuyên.
ĐIỀU 12. Vũng tàu
Các vũng tàu được dùng thường xuyên
vào việc xếp dỡ hàng hóa và làm khu neo tàu, bình thường nằm hoàn toàn hoặc một
phần ở ngoài đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải cũng được coi như là bộ
phận của lãnh hải.
ĐIỀU 13. Bãi cạn lúc chìm lúc nổi
1.
“Bãi cạn lúc chìm lúc nổi”
(haut-fonds découvrants) là những vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh,
khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước.
Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn đó ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách
không vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên
các bãi cạn này có thể được dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh
hải.
2.
Khi các bãi cạn lúc chìm lúc nổi
hoàn toàn ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của
lãnh hải, thì chung không có lãnh hải riêng.
ĐIỀU 14. Sự kết hợp các phương pháp
để vạch các đường cơ sở
Quốc gia ven biển, tùy theo hoàn
cảnh khác nhau, có thể vạch ra các đường cơ sở theo một hay nhiều phương pháp
được trù định ở các điều nói trên.
ĐIỀU 15. Việc hoạch định ranh giới
lãnh hải giữa các quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau
Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau
hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường
trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận
ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những
danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh
giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác.
ĐIỀU 16. Hải đồ và bản kê các tọa độ
địa lý
1.
Các đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải được vạch ra theo đúng các Điều 7, 9 và 10 hoặc các ranh giới
hình thành từ các điều đó và các đường hoạch định ranh giới được vạch ra đúng
theo các Điều 12 và 15, được thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác
định được vị trí của nó. Nếu không, thì có thể thay thế bằng một bản kê các tọa
độ địa lý các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa đã được sử dụng.
Quốc gia ven biển công bố theo đúng
thủ tục các hải đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên
hợp quốc một bản để lưu chiếu.
Mục 3 - ĐI QUA KHÔNG GÂY HẠI TRONG
LÃNH HẢI
TIỀU MỤC A - CÁC QUY TẮC ÁP DỤNG CHO
TẤT CẢ CÁC LOẠI TÀU THUYỀN
ĐIỀU 17. Quyền đi qua không gây hại
Với điều kiện phải chấp hành Công
ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được
hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải.
ĐIỀU 18. Nghĩa của thuật ngư “Đi
qua” (Passage)
1. “Đi qua” là đi ở trong lãnh hải,
nhằm mục đích
a) Đi ngang qua nhưng không đi vào
nội thủy, không đậu lại trong một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài
nội thủy; hoặc
b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy,
hoặc đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu hay một công trình cảng trong nội thủy.
2. Việc đi qua phải liên tục và
nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng
chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một
trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu
thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc nạn.
ĐIỀU 19. Nghĩa của thuật ngữ “đi qua
không gây hại” (Passage inoffensif)
1. Việc đi qua là không gây hại,
chừng nào nó không làm phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc
gia ven biển. Việc đi qua không gây hại cần phải được thực hiện theo đúng với
các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
2. Việc đi qua của một tàu thuyền
nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia
ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ
hoạt động nào sau đây:
a) Đe dọa hoặc dùng vũ lục chống lại chính quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;
b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;
c) Thu nhập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;
f) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;
h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;
i) Đánh bắt hải sản;
j) Nghiên cứu hay đo đạc;
k) Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển;
l) Mọi hoạt động khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua.
a) Đe dọa hoặc dùng vũ lục chống lại chính quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;
b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;
c) Thu nhập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;
f) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;
h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;
i) Đánh bắt hải sản;
j) Nghiên cứu hay đo đạc;
k) Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển;
l) Mọi hoạt động khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua.
ĐIỀU 20. Tàu ngầm và các phương tiện
đi ngầm khác
Ở trong lãnh hải, tàu ngầm và các
phương tiện đi ngầm khác buộc phải đi nổi và phải treo cờ quốc tịch.
ĐIỀU 21. Các luật và quy định của
quốc gia ven biển liên quan đến việc đi qua không gây hại
1. Quốc gia ven biển có thể định ra,
phù hợp với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc
tế, các luật và quy định liên quan đến việc đi qua không gây hại ở trong lãnh
hải của mình về các vấn đề sau đây:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển;
b) Bảo vệ các thiết bị và các hệ thống bảo đảm hàng hải và các thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ các đường giây cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển;
e) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc đánh bắt;
f) Gìn giữ môi trường của quốc gia ven biển và ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường;
g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn;
h) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven biển;
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển;
b) Bảo vệ các thiết bị và các hệ thống bảo đảm hàng hải và các thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ các đường giây cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển;
e) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc đánh bắt;
f) Gìn giữ môi trường của quốc gia ven biển và ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường;
g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn;
h) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven biển;
2. Các luật và quy định này không áp
dụng đối với cách thiết kế, việc đóng hoặc đối với trang bị của tàu thuyền nước
ngoài, nếu chúng không có ảnh hưởng gì đến các quy tắc hay quy phạm quốc tế
được chấp nhận chung.
3. Quốc gia ven biển công bố theo
đúng thủ tục các luật và quy định này.
4. Khi thực hiện quyền đi qua không
gây hại ở trong lãnh hải tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ các luật và quy
định này, cũng như tất cả các quy định quốc tế được chấp nhận chung có liên
quan đến việc phòng ngừa đâm va trên biển.
ĐIỀU 22. Các tuyến đường và cách bố
trí phân chia luồng giao thông ở trong lãnh hải
1. Quốc gia ven biển khi cần bảo đảm
an toàn hàng hải có thể đòi hỏi tàu thuyền nước ngoài đi qua không gây hại
trong lãnh hải của mình phải đi theo các tuyến đường do mình ấn định và phải
tôn trọng các cách bố trí phân chia các luồng giao thông do mình quy định nhằm
điều phối việc qua lại các tàu thuyền.
2. Đặc biệt, đối với các tàu xi-teec
(navires-citernes), các tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hại nhân và các tàu
chở các chất hay các nguyên liệu phóng xạ hoặc các chất khác vốn nguy hiểm hay
độc hại, có thể bị bắt buộc chỉ được đi theo các tuyến đường này.
3. Khi ấn định các tuyến đường và
quy định cách bố trí phân chia luồng giao thông theo điều này, quốc gia ven
biển lưu ý đến:
a) Các kiến nghị của tổ chức quốc tế có thẩm quyền;
b) Tất cả các luồng lạch thường được sử dụng cho hàng hải quốc tế;
c) Các đặc điểm riêng của một số loại tàu thuyền và luồng lạch;
d) Mật độ giao thông.
a) Các kiến nghị của tổ chức quốc tế có thẩm quyền;
b) Tất cả các luồng lạch thường được sử dụng cho hàng hải quốc tế;
c) Các đặc điểm riêng của một số loại tàu thuyền và luồng lạch;
d) Mật độ giao thông.
4. Quốc gia ven biển ghi rõ các
tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông nói trên lên hải đồ và công
bố theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 23. Tàu thuyền nước ngoài có
động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân và tàu thuyền chuyên chở các chất phóng
xạ hay các chất vốn nguy hiểm hoặc độc hại.
Các tàu thuyền nước ngoài có động cơ
chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng như các tàu thuyền chuyên chở các chất phóng
xạ hay các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, khi thực hiện quyền đi qua
không gây hại trong lãnh hải, buộc phải mang đầy đủ các tài liệu và áp dụng
những biện pháp phòng ngừa đặc biệt theo quy định của các điều ước quốc tế đối
với loại tàu thuyền đó.
ĐIỀU 24. Các nghĩa vụ của quốc gia
ven biển
1. Quốc gia ven biển không được cản
trở quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải,
ngoài những trường hợp mà Công ước đã trù định. Đặc biệt khi áp dụng Công ước,
quốc gia ben biển không được:
a) Áp đặt cho các tàu thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn đến việc cản trở hay hạn chế việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền này;
b) Phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với các tàu thuyền chở hàng từ một quốc gia nhất định hay đến quốc gia đó hoặc nhân danh một quốc gia nhất định.
a) Áp đặt cho các tàu thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn đến việc cản trở hay hạn chế việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền này;
b) Phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với các tàu thuyền chở hàng từ một quốc gia nhất định hay đến quốc gia đó hoặc nhân danh một quốc gia nhất định.
2. Quốc gia ven biển thông báo thích
đáng mọi nguy hiểm về hàng hải của mình biết trong lãnh hải của mình.
ĐIỀU 25. Quyền bảo vệ các quốc gia
ven biển
1. Quốc gia ven biển có thể thi hành
các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn cản mọi việc đi qua có
gây hại.
2. Đối với tàu thuyền đi vào vùng
nội thủy hay vào một công trình cảng ở bên ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven
biển cũng có quyền thi hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi
phạm đối với các điều kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để được phép
vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển có thể tạm thời
đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài
tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần
thiết để bảo đảm an ninh của mình, kể cả để thử vũ khí, nhưng không được phân
biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài.
Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 26. Lệ phí đối với tàu thuyền
nước ngoài
1. Không được thu lệ phí đối với tàu
thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải, nếu không phải vì lý do trả công cho những
dịch vụ riêng đối với những tàu thuyền này. Khi thu lệ phí đó không được phân
biệt đối xử.
TIỂU MỤC B - QUY TẮC ÁP DỤNG CHO TÀU
BUÔN VÀ TÀU NHÀ NƯỚC DÙNG VÀO MỤC ĐÍCH THƯƠNG MẠI
ĐIỀU 27. Quyền tài phán hình sự ở
trên một tàu nước ngoài
1. Quốc gia ven biển không được thực
hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải
để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự
xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
b) Nếu vị vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.
a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
b) Nếu vị vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.
2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến
quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong nước mình qui
định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu
nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những trường hợp nêu ở các
khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển phải thông báo trước
về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của
quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao
hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên
trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các
biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các
thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý thích đáng
đến các lợi ích về hàng hải.
5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII
hay trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy định được định ra theo đúng
phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con
tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc
dự thẩm sau một vụ vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà
không đi vào nội thủy.
ĐIỀU 28. Quyền tài phán dân sự đối
với các tàu thuyền nước ngoài
1. Quốc gia ven biển không được bắt
một tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi hành trình
của nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với một người ở trên con
tàu đó.
2. Quốc gia ven biển không thể áp
dụng các biện pháp trừng phạt hay biện pháp bảo đảm (mesures conservatoires) về
mặt dân sự đối với con tàu này, nếu không phải vì những nghĩa vụ đã cam kết hay
các trách nhiệm mà con tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua
vùng biển của quốc gia ven biển.
3. Khoản 2 không đụng chạm đến quyền
của quốc gia ven biển áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo đảm về mặt dân
sự do luật trong nước của quốc gia này quy định đối với tàu thuyền nước ngoài
đang đậu trong lãnh hải hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã rời nội thủy.
TIỂU MỤC C - QUY TẮC ÁP DỤNG CHO CÁC
TÀU CHIẾN VÀ CÁC TÀU THUYỀN KHÁC CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯỢC DÙNG VÀO NHỮNG MỤC ĐÍCH
KHÔNG THƯƠNG MẠI
ĐIỀU 29. Định nghĩa “tàu chiến”
(navire de guerre)
Trong Công ước, « tàu chiến » là mọi
tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài
đặc trưng của các tàu thuyền quân sự thuộc quốc tịch nước đó; do một sĩ quan
hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách
các sĩ quan hay trong một tài liệu tương đương; và đoàn thủy thủ phải tuân theo
các điều lệnh kỷ luật quân sự.
ĐIỀU 30. Tàu chiến không tuân thủ
các luật và quy định của quốc gia ven biển
Nếu một tàu chiến không tôn trọng
các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong
lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được
thông báo cho họ, thì quốc gia ven biển có thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh
hải ngay lập tức.
ĐIỀU 31. Trách nhiệm của quốc gia mà
tàu mang cờ đối với hành động của một tàu chiến hay một tàu khác của Nhà nước
Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách
nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hoặc về mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven
biển do một tàu chiến hay bất kỳ tàu thuyền nào khác của Nhà nước dùng vào
những mục đích không thương mại vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven
biển có liên quan đến việc đi qua lãnh hải hay vi phạm các quy định của Công
ước hoặc các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
ĐIỀU 32. Các quyền miễn trừ của các
tàu chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại
Ngoài những ngoại lệ đã nêu ở Tiểu
mục A và ở các Điều 30 và 31, không một quy định nào của Công ước đụng chạm đến
các quyền miễn trừ mà các tàu
chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại được hưởng.
chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại được hưởng.
Mục 4 - VÙNG TIẾP GIÁP
ĐIỀU 33. Vùng tiếp giáp
1. Trong một vùng tiếp giáp với lãnh
hải của mình, gọi là vùng tiếp giáp, quốc gia ven biển có thể thi hành sự kiểm
soát cần thiết, nhằm:
a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải.
a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải.
PHẦN III - EO BIỂN DÙNG CHO HÀNG HẢI QUỐC TẾ
Mục 1 - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 34. Chế độ pháp lý của vùng nước các eo biển dùng
cho hàng hải quốc tế
1. Chế độ đi qua các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế
mà phần này quy định không ảnh hưởng gì về bất cứ phương diện nào khác đến chế
độ pháp lý của vùng nước các eo biển này, cũng như đến việc quốc gia ven eo
biển thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình ở các vùng nước ấy, ở đáy
biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển, cũng như vùng trời ở trên các vùng
nước đó.
2. Các quốc gia ven eo biển thực hiện chủ quyền hay
quyền tài phán của mình trong những điều kiện do các quy định của phần này và
các quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
ĐIỀU 35. Phạm vi áp dụng của phần này
Không một quy định nào của phần này được đụng chạm
đến:
a) Nội thủy thuộc một eo biển, trừ khi việc vạch ra
một tuyến đường cơ sở thẳng theo đúng với phương pháp nói ở Điều 7 đã gộp vào
trong nội thủy những vùng nước trước đây không được coi là nội thủy;
b) Chế độ pháp lý của các vùng nước nằm ngoài lãnh hải của các quốc gia ven eo biển, dù chúng thuộc vùng quốc tế hay thuộc biển cả;
c) Chế độ pháp lý của các eo biển mà việc đi qua đã được quy định toàn bộ hay từng phần trong các công ước quốc tế đặc biệt nhằm vào các eo biển này đã có từ lâu đời và vẫn đang có hiệu lực.
b) Chế độ pháp lý của các vùng nước nằm ngoài lãnh hải của các quốc gia ven eo biển, dù chúng thuộc vùng quốc tế hay thuộc biển cả;
c) Chế độ pháp lý của các eo biển mà việc đi qua đã được quy định toàn bộ hay từng phần trong các công ước quốc tế đặc biệt nhằm vào các eo biển này đã có từ lâu đời và vẫn đang có hiệu lực.
ĐIỀU 36. Các đường ở biển cả hay đường qua một vùng
đặc quyền kinh tế nằm trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế.
Phần này không áp dụng đối với các eo biển dùng cho
hàng hải quốc tế, nếu như có thể vượt qua eo biển đó bằng một con đường ở biển
cả hay một con đường qua một vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về
phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn; về các con đường này, những
phần khác tương ứng của công ước có thể được áp dụng, kể cả các quy định liên
quan đến tự do hàng hải và tự do hàng không
Mục 2 - QUÁ CẢNH
ĐIỀU 37. Phạm vi áp dụng của mục này
Mục này được áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng
hải quốc tế giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và
giữa một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế.
ĐIỀU 38. Quyền quá cảnh
1. Trong các eo biển nói ở Điều 37, tất cả các tàu
thuyền và phương tiện bay đều được hưởng quyền quá cảnh mà không bị cản trở,
trừ trường hợp hạn chế là quyền đó không được áp dụng cho các eo biển do lãnh
thổ đất liền của một quốc gia và một hòn đảo thuộc quốc gia này tạo thành, khi
ở ngoài khơi hòn đảo đó có một con đường đi trên biển cả, hay có một con đường
đi qua một vùng đặc quyền về kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện
hàng hải và về các đặc điểm thủy văn.
2. Thuật ngữ “quá cảnh” có nghĩa là việc thực hiện,
theo đúng phần này, quyền tự do hàng hải và hàng không với mục đích duy nhất là
đi qua liên tục và nhanh chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc
một vùng đặc quyền về kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc
quyền về kinh tế. Tuy nhiên, đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không
ngăn cấm việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, đề
rời khỏi hoặc lại đến lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của
quốc gia đó.
3. Bất kỳ hoạt động nào không thuộc phạm vi thực hiện quyền quá cảnh qua các eo biển đều tùy thuộc vào các quy định khác có thể áp dụng của Công ước.
3. Bất kỳ hoạt động nào không thuộc phạm vi thực hiện quyền quá cảnh qua các eo biển đều tùy thuộc vào các quy định khác có thể áp dụng của Công ước.
ĐIỀU 39. Các nghĩa vụ của tàu thuyền và phương tiện
bay trong khi quá cảnh
1. Trong khi thực hiện quyền quá cảnh, các tàu thuyền
và phương tiện bay:
a) Đi qua hay bay qua eo biển không chậm trễ;
b) Không được đe dọa hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;
c) Không được có hoạt động nào khác ngoài những hoạt động cần cho sự quá cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp;
d) Tuân thủ các quy định thích hợp khác của phần này.
a) Đi qua hay bay qua eo biển không chậm trễ;
b) Không được đe dọa hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;
c) Không được có hoạt động nào khác ngoài những hoạt động cần cho sự quá cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp;
d) Tuân thủ các quy định thích hợp khác của phần này.
2. Trong khi quá cảnh các tàu thuyền tuân thủ:
a) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung về mặt an toàn hàng hải, nhất là các quy tắc quốc tế để phòng ngừa đâm va trên biển;
b) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra.
a) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung về mặt an toàn hàng hải, nhất là các quy tắc quốc tế để phòng ngừa đâm va trên biển;
b) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra.
3. Trong khi quá cảnh, các phương tiện bay:
a) Tôn trọng các quy định về hàng không do Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế đề ra để áp dụng cho các phương tiện bay dân dụng; bình thường các phương tiện bay của Nhà nước phải tuân thủ các biện pháp an toàn do các quy định này đề ra và khi hoạt động vào bất kỳ lúc nào, các phương tiện bay cũng phải chú ý đến an toàn hàng không.
b) Thường xuyên theo dõi tần số điện đài mà cơ quan có thẩm quyền được quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông hàng không đã phân bổ cho, hoặc tần số quốc tế về nguy cấp.
a) Tôn trọng các quy định về hàng không do Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế đề ra để áp dụng cho các phương tiện bay dân dụng; bình thường các phương tiện bay của Nhà nước phải tuân thủ các biện pháp an toàn do các quy định này đề ra và khi hoạt động vào bất kỳ lúc nào, các phương tiện bay cũng phải chú ý đến an toàn hàng không.
b) Thường xuyên theo dõi tần số điện đài mà cơ quan có thẩm quyền được quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông hàng không đã phân bổ cho, hoặc tần số quốc tế về nguy cấp.
ĐIỀU 40. Nghiên cứu và đo đạc thủy văn
Trong khi quá cảnh, các tàu thuyền nước ngoài, kể cả
các tàu thuyền chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học biển hay cho đo đạc thủy văn,
không được dùng để nghiên cứu hoặc đo đạc nếu không được phép trước của các
quốc gia ven eo biển.
ĐIỀU 41. Các tuyến đường và các cách bố trí phân chia
luồng giao thông trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế
1. Theo đúng phần này, các quốc gia ven eo biển khi có
nhu cầu bảo đảm an toàn cho tàu thuyền đi qua các eo biển, có thể ấn định các
tuyến đường và quy định các cách phân chia luồng giao thông.
2. Các quốc gia nói trên, khi hoàn cảnh đòi hỏi và sau
khi đã công bố theo đúng thủ tục biện pháp này, có thể ấn định các tuyến đường
mới hay quy định các cách mới phân chia luồng giao thông thay thế mọi tuyến
đường hay mọi cách phân chia luồng giao thông đã được ấn định hay quy định
trước đó.
3. Các tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao
thông cần phải phù hợp với quy định quốc tế đã được chấp nhận chung.
4. Trước khi ấn định hay thay thế các tuyến đường hoặc
trước khi quy định hay thay thế các cách phân chia luồng giao thông, các quốc
gia ven eo biển gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền
thông qua. Tổ chức này chỉ có thể chấp nhận các tuyến đường và cách phân chia
luồng giao thông nào đã có thể thỏa thuận với các quốc gia ven eo biển; khi đó,
các quốc gia này có thể ấn định, quy định hoặc thay thế các tuyến đường và các
cách phân chia luồng giao thông này.
5. Khi đề nghị thiết lập trong một eo biển các tuyến
đường hay cách phân chia luồng giao thông có liên quan đến vùng nước của nhiều
quốc gia ven eo biển, các quốc gia hữu quan hợp tác với nhau để soạn thảo các
đề nghị, có sự tham khảo ý kiến của tổ chức quốc tế có thẩm quyền.
6. Các quốc gia ven eo biển ghi rõ ràng lên các hải đồ
tất cả các tuyến đường hay tất cả các cách phân chia luồng giao thông mà mình
đã thiết lập và công bố các hải đồ này theo đúng thủ tục.
7. Trong khi quá cảnh, tàu thuyền tôn trọng các tuyến
đường và các cách phân chia luồng giao thông đã được thiết lập theo đúng điều
này.
ĐIỀU 42. Các luật và quy định của quốc gia ven eo biển
liên quan đến việc quá cảnh
1. Với điều kiện chấp hành mục này, các quốc gia ven
eo biển có thể ra các luật và quy định liên quan đến việc đi qua eo biển về các
vấn đề sau:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông trên biển như đã được nêu ở Điều 41;
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường, bằng cách thi hành quy định quốc tế có thể áp dụng được về việc trút bỏ dầu, cặn dầu và các chất độc hại trong eo biển;
c) Việc cấm đánh bắt hải sản đối với các tàu đánh bắt hải sản; kể cả quy định việc xếp đặt các phương tiện đánh bắt;
d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven eo biển.
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông trên biển như đã được nêu ở Điều 41;
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường, bằng cách thi hành quy định quốc tế có thể áp dụng được về việc trút bỏ dầu, cặn dầu và các chất độc hại trong eo biển;
c) Việc cấm đánh bắt hải sản đối với các tàu đánh bắt hải sản; kể cả quy định việc xếp đặt các phương tiện đánh bắt;
d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven eo biển.
2. Các luật và quy định này không được dẫn đến bất kỳ
một sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu
thuyền nước ngoài, việc áp dụng các luật và quy định này không được có tác dụng
ngăn cản, hạn chế hay gây trở ngại cho việc thực hiện quyền quá cảnh như đã
được xác định trong mục này.
3. Các quốc gia ven eo biển công bổ những luật và quy
định này theo đúng thủ tục.
4. Các tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền quá
cảnh qua eo biển phải tuân thủ các luật và quy định này.
5. Trong trường hợp một tàu hay một phương tiện bay
được hưởng quyền miễn trừ về chủ quyền vi phạm các luật và quy định này, quốc
gia mà con tàu mang cờ hay quốc gia đăng ký phương tiện bay phải chịu trách
nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hay thiệt hại có thể gây ra cho eo biển.
ĐIỀU 43. Các thiết bị an toàn, bảo đảm hàng hải và các
thiết bị khác, và việc ngăn ngừa hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường
Các quốc gia sử dụng một eo biển và các quốc gia ven
eo biển cần thỏa thuận hợp tác với nhau để:
a) Thiết lập và bảo dường các thiết bị an toàn và bảo
đảm hàng hải cần thiết cũng như các thiết bị khác đặt trong eo biển dùng để làm
dễ dàng cho hàng hải quốc tế, và
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm do tàu thuyền gây ra.
b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm do tàu thuyền gây ra.
ĐIỀU 44. Các nghĩa vụ của các quốc gia ven eo biển
Các quốc gia ven eo biển không được gây trở ngại cho
việc quá cảnh và phải thông báo đầy đủ và mọi nguy hiểm đối với hàng hải trong
eo biển hoặc đối với việc bay trên eo biển mà các quốc gia này nắm được. Việc
thực hiện quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ.
Mục 3 - ĐI QUA KHÔNG GÂY HẠI
ĐIỀU 45. Đi qua không gây hại
1. Chế độ đi qua không gây hại được nêu ở Mục 3 của
phần II được áp dụng trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế:
a) Nằm ngoài phạm vi áp dụng của chế độ quá cảnh theo Điều 38, khoản 1; hoặc
b) Nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác.
a) Nằm ngoài phạm vi áp dụng của chế độ quá cảnh theo Điều 38, khoản 1; hoặc
b) Nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác.
2. Việc thực hiện quyền đi qua không gây hại trong các
eo biển không thể bị đình chỉ.
PHẦN IV - CÁC QUỐC GIA QUẦN ĐẢO
ĐIỀU 46. Sử dụng các thuật ngữ
Trong công ước:
a) “Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc gia
hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn
đảo khác nữa.
b) “Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
b) “Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
ĐIỀU 47. Đường cơ sở quần đảo
1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở
thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi
đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này
bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với
đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.
2. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá
100 hải lý; tuy nhiên có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh
một quần đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.
3. Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt
đường bao quanh chung của quần đảo.
4. Các đường cơ sở không thể kéo dến hay xuất phát từ
các bãi cạn lúc chìm lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay
các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn
bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá
chiều rộng lãnh hải.
5. Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương
pháp kẻ các đường cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách
rời với biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế.
6. Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia
quần đảo nằm giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và
mọi lợi ích chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống
ở trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều
ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng.
7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với
diện tích phần đất đã nêu ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm
bao quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương
có sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi
hay một chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một
bộ phận của đất.
8. Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này
phải được ghi trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê
tọa độ địa lý của các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể
thay thế cho các bản đồ này.
9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản
đồ hoặc bảng liệt kê tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản
để lưu chiểu.
ĐIỀU 48. Đo chiều rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng
đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa
Chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc
quyền về kinh tế và thềm lục địa được tính từ cách đường cơ sở quần đảo theo
đúng Điều 47.
ĐIỀU 49. Chế độ pháp lý của các vùng nước quần đảo và
vùng trời ở trên cũng như đáy biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển đó
1. Chủ quyền của quốc gia quần đảo mở rộng ra vùng
nước ở phía trong đường cơ sở quần đảo được vạch ra theo đúng Điều 47, được gọi
là vùng nước quần đảo (eaux archipélagiques), bất kể chiều sâu và khoảng cách
xa bờ của chúng thế nào.
2. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên vùng
nước quần đảo, cũng như đến đáy vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các
tài nguyên ở đó.
3. Chủ quyền này được thực hiện theo các điều kiện nêu
trong phần này.
4. Chế độ đi qua vùng nước quần đảo do phần này quy
định không đụng chạm về bất kỳ một phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của
vùng nước quần đảo, kể cả các đường hàng hải, đến việc quốc gia quần đảo thực
hiện chủ quyền của mình ở vùng nước đó, ở vùng trời phía trên, đáy nước vùng đó
và lòng đất tương ứng cũng như đối với các tài nguyên ở đó.
ĐIỀU 50. Hoạch định ranh giới nội thủy
Ở phía trong vùng nước quần đảo, quốc gia quần đảo có
thể vạch những đường khép kín để hoạch định ranh giới nội thủy của mình theo
đúng các Điều 9, 10, và 11.
ĐIỀU 51. Các điều ước hiện hành, các quyền đánh bắt
hải sản truyền thống và các dây cáp ngầm đã được lắp đặt
1. Không phương hại đến Điều 49, các quốc gia quần đảo
tôn trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa
nhận các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt động chính đáng của
những quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo và quốc gia
quần đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và các hoạt động này,
kể cả tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện các quyền và các
hoạt động nói trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc gia nào trong các
quốc gia hữu quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa các quốc gia đó.
Các quyền này không được chuyển nhượng hay chia sẻ cho quốc gia thứ ba hay cho
các công dân của các quốc gia ấy.
2. Các quốc gia quần đảo tôn trọng các dây cáp ngầm
hiện có của những quốc gia khác đặt và đi quan vùng nước của quốc gia quần đảo
mà không đụng đến bờ biển của mình. Các quốc gia quần đảo cho phép bảo dưỡng và
thay thế các đường dây cáp này sau khi họ đã được thông báo trước về vị trí của
chúng và về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến hành.
ĐIỀU 52. Quyền đi qua không gây hại
1. Với điều kiện tuân thủ Điều 53 và không phương hại
đến Điều 50, tàu thuyền của tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền đi qua
không gây hại trong vùng nước quần đảo đã được quy định ở Mục 3 phần II.
2. Quốc gia quần đảo có thể tạm thời đình chỉ việc đi
qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong các khu vực nhất định thuộc
vùng nước quần đảo của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để đảm bảo an ninh
của nước mình, nhưng không có sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt
thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau
khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 53. Quyền đi qua vùng nước quần đảo
1. Trong các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền,
quốc gia quần đảo có thể ấn định các đường hàng hải và các đường hàng không ở
vùng trời phía trên các đường này để các tàu thuyền và phương tiện bay nước
ngoài được đi qua nhanh chóng và liên tục.
2. Tất cả các tàu thuyền và phương tiện bay được hưởng
quyền đi qua quần đảo theo các tuyến đường hàng hải và các đường hàng không đó.
3. “Đi qua vùng nước quần đảo” là việc các tàu thuyền
và phương tiện bay thực hiện không bị cản trở, theo phương thức hàng hải, hàng
không bình thường và theo đúng Công ước, các quyền hàng hải và hàng không của
mình, với mục đích duy nhất là quá cảnh liên tục và nhanh chóng giữa một điểm
của biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế.
4. Các đường hàng hải và các đường hàng không đi qua
các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền hoặc vùng trời phía trên phải bao
gồm tất cả các con đường thường dùng cho hàng hải quốc tế trong vùng nước quần
đảo và vùng trời phía trên; các đường hàng hải cần theo đúng tất cả các luồng
lạch thường dùng cho hàng hải, tất nhiên, không cần phải thiết lập nhiều con
đường thuận tiện như nhau giữa một điểm vào và một điểm ra nào đó.
5. Các đường hàng hải và hàng không này được xác định
qua hàng loạt các đường trục liên tục nối liền các điểm vào với các điểm ra của
chúng. Trong quá trình đi qua các tàu thuyền và phương tiện bay không được đi
chệch các đường trục này quá 25 hải lý, tất nhiên, các tàu thuyền và phương
tiện bay này không được đi cách bờ một khoảng cách dưới 1/10 khoảng cách giữa
những điểm gần nhất của các đảo nằm dọc theo một con đường.
6. Quốc gia quần đảo khi ấn định các đường hàng hải
theo đúng điều này cũng có thể quy định các cách phân chia luồng giao thông
nhằm bảo đảm an toàn cho các tàu thuyền sử dụng các luồng lạch hẹp ở bên trong
các con đường này.
7. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, quốc gia quần đảo, sau khi
đã công bố theo đúng thủ tục, có thể ấn định những đường hàng hải mới hay quy
định cách bố trí
phân chia luồng giao thông mới để thay thế cho mọi con đường hay mọi cách phân chia luồng giao thông do quốc gia đó đã thiết lập từ trước.
phân chia luồng giao thông mới để thay thế cho mọi con đường hay mọi cách phân chia luồng giao thông do quốc gia đó đã thiết lập từ trước.
8. Các đường hàng hải và cách phân chia luồng giao
thông đó phải phù hợp với quy định quốc tế được chấp nhận chung.
9. Khi ấn định hay thay thế các đường hàng hải hoặc
khi quy định hay khi thay thế các cách bố trí phân luồng giao thông, quốc gia
quần đảo gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền để được
chấp nhận. Tổ chức quốc tế này chỉ có thể được chấp thuận các đường hàng hải và
các cách bố trí phân chia luồng giao thông mà họ đã có thể thỏa thuận với quốc
gia quần đảo; khi đó, quốc gia quần đảo có thể ấn định, quy định hay thay thế
các đường hàng hải và các cách phân chia luồng giao thông đó.
10. Quốc gia quần đảo ghi rõ ràng lên các hải đồ được
công bố theo đúng thủ tục các đường trục của các đường hàng hải mà quốc gia đó
ấn định và các cách phân chia luồng giao thông mà quốc gia đó quy định.
11. Khi đi qua vùng quần đảo, các tàu thuyền tôn trọng
các đường hàng hải và các cách chia phân luồng giao thông được thiết lập theo
đúng điều này.
12. Nếu quốc gia quần đảo không ấn định các đường hàng
hải hay các đường hàng không thì quyền đi qua vùng nước quần đảo có thể thực
hiện bằng cách sử dụng các con đường thường dùng cho hàng hải và hàng không
quốc tế.
ĐIỀU 54. Các nghĩa vụ của tàu thuyền và phương tiện
bay trong khi đi qua, nghiên cứu và đo đạc thủy văn, các nghĩa vụ của quốc gia
quần đảo, các luật và quy định của quốc gia quần đảo liên quan đến việc đi qua
quần đảo
Các Điều 39, 40, 42, 44 được áp dụng Mutatis mutandis
(với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho việc đi qua vùng quần đảo.
PHẦN V - VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ
ĐIỀU 55. Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền về
kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài
lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định
trong phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và
các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công
ước điều chỉnh.
ĐIỀU 56. Các quyền, quyền tài phán và các nghĩa vụ của
các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển
có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai
thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh
vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển,
cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích
kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các
quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính
đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công
ước.
3. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển nêu trong điều này được thực hiện theo đúng phần VI.
ĐIỀU 57. Chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá
200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
ĐIỀU 58. Các quyền và các nghĩa vụ của các quốc gia
khác trong vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc
gia, dù có biển hay không có biển, trong những điều kiện trong những quy định
thích hợp của Công ước trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng
không, quyền tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng như quyền tự do sử dụng
biển vào những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực
hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước, nhất là
những khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống
dẫn ngầm.
2. Các Điều từ 88 đến 115, cũng như các quy tắc thích
hợp khác của pháp luật quốc tế, được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế trong
chừng mực mà chúng không mâu thuẫn với phần này.
3. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các
quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến
các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy
định mà quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và
trong chừng mực mà các luật và quy định đó không mâu thuẫn với phần này và với
các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
ĐIỀU 59. Cơ sở giải quyết các tranh chấp trong trường
hợp Công ước không quy định rõ các quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền
về kinh tế
Trong những trường hợp Công ước không quy định rõ các
quyền hay quyền tài phán trong các vùng đặc quyền về kinh tế cho quốc gia ven
biển hay cho các quốc gia khác và ở đó có xung đột giữa lợi ích của quốc gia
ven biển với lợi ích của một hay nhiều quốc khác thì sự xung đột này phải được
giải quyết trên cơ sở công bằng và có chú ý đến tất cả mọi hoàn cảnh thích
đáng, có tính đến tầm quan trọng của các lợi ích có liên quan đó đối với các
bên tranh chấp và đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế.
ĐIỀU 60. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình
trong vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển
có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác
và sử dụng:
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác;
c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng.
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các mục đích kinh tế khác;
c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng.
2. Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối
với các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật
và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
3. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công
trình đó phải được thông báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện
thường trực để báo hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên
cần được bảo đảm. Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần
được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã
được chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi
tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các quyền
và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí, kích
thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình chưa
được tháo dỡ hoàn toàn.
4. Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung
quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị hoặc công trình đó những khu vực an toàn
với kích thước hợp lý; trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng
các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các
đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đó.
5. Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu
vực an toàn có tính đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực
an toàn này được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức
năng của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng
ra một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các
công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết bị
và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận
chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu
vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục.
6. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an
toàn đó và tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến
hàng hải trong khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và
các khu vực an toàn.
7. Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị
hoặc công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo,
thiết bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng
các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
8. Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không
được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của
chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc
quyền về kinh tế hoặc thềm lục địa.
ĐIỀU 61. Bảo tồn các nguồn lợi sinh vật
1. Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có
thể chấp nhận được đối với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về
kinh tế của mình.
2. Quốc gia ven biển dựa vào các số liệu khoa học đáng
tin cậy nhất mà mình có, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý
nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế
của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Quốc gia ven biển và các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thế giới, hợp
tác với nhau một cách thích hợp để thực hiện mục đích này.\
3. Các biện pháp đó cũng nhằm để duy trì hay khôi phục
các đàn (stocks) hải sản được khai thác ở mức bảo đảm đạt năng suất ổn dịnh tối
đa, có tính đến các yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả các nhu cầu
kinh tế của tập thể ven bờ sống về nghề đánh bắt hải sản và các nhu cầu riêng
của các quốc gia đang phát triển, và có tính dến các phương thức đánh bắt, đến
quan hệ hỗ
tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả các quy phạm quốc tế tối thiểu thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu vực hay thế giới.
tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả các quy phạm quốc tế tối thiểu thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu vực hay thế giới.
4. Khi áp dụng các biện pháp đó, quốc gia ven biển chú
ý đến tác động của chúng đối với các loài quần hợp với các loài được khai thác
hoặc phụ thuộc vào các loài đó để duy trì hoặc khôi phục các đàn (stocks) của
những loài quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức độ làm việc sinh sản của chúng
khỏi nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
5. Các thông tin khoa học có thể sử dụng, các số liệu
thống kê liên quan đến việc đánh bắt và đến sức đánh bắt và các số liệu khác
liên quan đến việc bảo tồn các đàn (stocks) cá được phổ biến và trao đổi đều
đặn qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu
vực hoặc thế giới và khi có điều kiện thì tiến hành với sự tham gia của tất cả
các quốc gia hữu quan, nhất là các quốc gia có công dân được phép đánh bắt
trong vùng đặc quyền về kinh tế.
ĐIỀU 62. Khai thác tài nguyên sinh vật
1. Quốc gia ven biển xác định mục tiêu là tạo điều
kiện thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc
quyền về kinh tế mà không phương hại đến Điều 61.
2. Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong
việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả
năng khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc
gia ven biển cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác
và theo đúng các thể thức, điều kiên, các luật và quy định nói ở khoản 4, khai
thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt; khi làm như vậy, cần đặc biệt quan
tâm đến các Điều 69 và 70 nhất là quan tâm đến các quốc gia đang phát triển nói
trong các điều đó.
3. Khi đồng ý cho các quốc gia khác vào hoạt động
trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình theo điều này, quốc gia ven biển tính
đến tất cả các yếu tố thích đáng, trong đó có: tấm quan trọng của các tài
nguyên sinh vật thuộc khu vực đối với nền kinh tế và đối với các lợi ích quốc
gia khác của nước mình; các Điều 69 và 70, các nhu cầu của các quốc gia đang
phát triển trong khu vực hay phân khu vực về vấn đề khai thác một phần của số
dư, và sự cần thiết phải giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn kinh tế
trong các quốc gia nào có những công dân thường đánh bắt hải sản ở trong khu
vực hoặc đã đóng góp nhiều vào công tác tìm kiếm và thống kê các đàn (stocks)
hải sản.
4. Công dân của các quốc gia khác khi tiến hành đánh
bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế phải tuân thủ theo các biện pháp bảo tồn và
các thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc
gia ven biển. Các luật và quy định đó phải phù hợp với Công ước và đặc biệt có
thể đề cập các vấn đề sau đây:
a) Việc cấp giấy phép cho ngư dân hay tàu thuyền và phương tiện đánh bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi khoản phải trả khác, trong trường hợp đối với các quốc gia ven biển đang phát triển, có thể là một sự đóng góp thích đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và vào sự phát triển kỹ thuật của công nghiệp đánh bắt hải sản;
b) Chỉ rõ các chủng loại cho phép đánh bắt và ấn định tỉ lệ phần trăm, hoặc là đối với các đàn (stocks) hay các nhóm đàn hải sản riêng biệt hoặc đối với số lượng đánh bắt của từng chiếc tàu trong một khoảng thời gian nhất định, hoặc là đối với số lượng đánh bắt của các công dân của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định;
c) Quy định các mùa vụ và các khu vực đánh bắt, kiểu, cỡ và số lượng các phương tiện đánh bắt, cũng như kiểu, cỡ và số lượng tàu thuyền đánh bắt có thể được sử dụng;
d) Ấn định tuổi và cỡ cá và các sinh vật khác có thể được đánh bắt;
e) Các thông tin mà tàu thuyền đánh bắt phải báo cáo, đặc biệt là những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và sức đánh bắt và thông báo vị trí cho các tàu thuyền;
f) Nghĩa vụ tiến hành, với sự cho phép và dưới sự kiểm soát của quốc gia ven biển, các chương trình nghiên cứu này, kể cả việc lấy mẫu các thứ đánh bắt được, nơi nhận các mẫu và việc thông báo các số liệu khoa học có liên quan;
g) Việc quốc gia ven biển đặt các quan sát viên hay thực tập sinh trên các tàu thuyền đó;
h) Bốc dỡ toàn bộ hay một phần các sản phẩm đánh bắt được của các tàu thuyền đó ở các cảng của quốc gia ven biển;
i) Các thể thức và điều kiện liên quan đến các xí nghiệp liên doanh hoặc các hình thức hợp tác khác;
j) Các điều kiện cần thiết về mặt đào tạo nhân viên, về chuyển giao kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, kể cả việc đẩy mạnh khả năng nghiên cứu nghề cá của quốc gia ven biển;
k) Các biện pháp thi hành.
a) Việc cấp giấy phép cho ngư dân hay tàu thuyền và phương tiện đánh bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi khoản phải trả khác, trong trường hợp đối với các quốc gia ven biển đang phát triển, có thể là một sự đóng góp thích đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và vào sự phát triển kỹ thuật của công nghiệp đánh bắt hải sản;
b) Chỉ rõ các chủng loại cho phép đánh bắt và ấn định tỉ lệ phần trăm, hoặc là đối với các đàn (stocks) hay các nhóm đàn hải sản riêng biệt hoặc đối với số lượng đánh bắt của từng chiếc tàu trong một khoảng thời gian nhất định, hoặc là đối với số lượng đánh bắt của các công dân của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định;
c) Quy định các mùa vụ và các khu vực đánh bắt, kiểu, cỡ và số lượng các phương tiện đánh bắt, cũng như kiểu, cỡ và số lượng tàu thuyền đánh bắt có thể được sử dụng;
d) Ấn định tuổi và cỡ cá và các sinh vật khác có thể được đánh bắt;
e) Các thông tin mà tàu thuyền đánh bắt phải báo cáo, đặc biệt là những số liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và sức đánh bắt và thông báo vị trí cho các tàu thuyền;
f) Nghĩa vụ tiến hành, với sự cho phép và dưới sự kiểm soát của quốc gia ven biển, các chương trình nghiên cứu này, kể cả việc lấy mẫu các thứ đánh bắt được, nơi nhận các mẫu và việc thông báo các số liệu khoa học có liên quan;
g) Việc quốc gia ven biển đặt các quan sát viên hay thực tập sinh trên các tàu thuyền đó;
h) Bốc dỡ toàn bộ hay một phần các sản phẩm đánh bắt được của các tàu thuyền đó ở các cảng của quốc gia ven biển;
i) Các thể thức và điều kiện liên quan đến các xí nghiệp liên doanh hoặc các hình thức hợp tác khác;
j) Các điều kiện cần thiết về mặt đào tạo nhân viên, về chuyển giao kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, kể cả việc đẩy mạnh khả năng nghiên cứu nghề cá của quốc gia ven biển;
k) Các biện pháp thi hành.
5. Quốc gia ven biển phải thông báo theo đúng thủ tục
các luật và quy định mà mình ban hành về mặt bảo tồn quản lý.
ĐIỀU 63. Các đàn cá (stocks) ở trong vùng độc quyền về
kinh tế của nhiều quốc gia ven biển hoặc đồng thời ở trong vùng đặc quyền về
kinh tế và trong một khu vực tiếp liền với vùng đặc quyền về kinh tế
1. Khi cùng một đàn (stocks) cá hoặc những đàn
(stocks) các loài quần hợp ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia
ven biển, các quốc gia
này cố gắng, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết nhằm phối hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển các đàn cá đó mà không phương hại đến các quy định khác của phần này.
này cố gắng, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết nhằm phối hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển các đàn cá đó mà không phương hại đến các quy định khác của phần này.
2. Khi cùng một đàn cá hoặc những đàn các loài quần
hợp đồng thời ở trong vùng đặc quyền về kinh tế và ở trong một khu vực tiếp
liền với vùng đó, quốc gia ven biển và các quốc gia khác khai thác các đàn này
ở trong khu vực tiếp liền cố gắng trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức
phân khu vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần
thiết để bảo tồn các đàn cá này trong khu vực tiếp liền.
ĐIỀU 64. Các loài cá di cư xa (Grands migranteurs)
1. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân
chuyên đánh bắt trong khu vực những loài cá di cư xa ghi ở bảng danh mục của
Phụ lục I, cần trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế thích hợp,
hợp tác với nhau nhằm bảo đảm việc bảo tồn các loài cá nói trên và đẩy mạnh
việc khai thác tối ưu các loài cá đó trong toàn bộ khu vực, ở trong cũng như ở
ngoài vùng đặc quyền về kinh tế. Trong những khu vực không có tổ chức quốc tế
thích hợp, thì quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân khai thác các
loài cá đó trong khu vực, hợp tác với nhau để lập ra một tổ chức như thế và
tham gia vào khu vực của tổ chức này.
2. Khoản 1 được áp dụng thêm vào các quy định khác của
phần này.
ĐIỀU 65. Loài có vú ở biển (Mammiferes marins)
Không một quy định nào của phần này hạn chế quyền của
một quốc gia ven biển cấm, hạn chế hay quy định việc khai thác các loài có vú ở
biển chặt chẽ hơn những quy định của phần này, cũng như hạn chế thẩm quyền của
một tổ chức quốc tế về việc này nếu có. Các quốc gia hợp tác với nhau nhằm bảo
đảm việc bảo vệ các loài có vú ở biển và đặc biệt là qua trung gian của các tổ
chức quốc tế thích hợp, tìm mọi cách để bảo vệ, quản lý và nghiên cứu loài cá
voi.
ĐIỀU 66. Các đàn cá vào sông sinh sản (Stocks de
poissons anadromes)
1. Các quốc gia có các dòng sông mà ở đó các đàn cá
(Poissons anadromes) vào sinh sản là những nước đầu tiên phải quan tâm đến các
đàn cá này và phải chịu trách nhiệm trước hết về loại cá này.
2. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản
cần chăm lo đến việc bảo tồn các đàn cá đó bằng việc thi hành những biện pháp
thích hợp quy định việc đánh bắt trong tất cả các vùng nước nằm bên trong ranh
giới ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, cũng như việc đánh bắt nói ở khoản 3,
điểm b. Quốc gia nguồn gốc có thể xác định tổng số được phép đánh bắt các loài
cá được sinh sản ra từ các dòng sông của họ, sau khi đã tham khảo các quốc gia
nói trong các khoản 3 và 4 đang khai thác các đàn cá đó.
3. a) Chỉ có thể đánh bắt các đàn cá vào sông sinh sản
trong các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về
kinh tế, trừ các trường hợp mà việc áp dụng quy định này có thể dẫn đến những
rối loạn kinh tế cho một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc. Đối với
việc đánh bắt bên ngoài ranh giới phía ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế,
các quốc gia hữu quan cần tham khảo ý kiến của nhau để thỏa thuậ về các thể
thức và điều kiện của việc đánh bắt này, nhưng phải tính đến các đòi hỏi của
việc bảo tồn và các nhu cầu của quốc gia nguồn gốc về đàn (stoscks) cá đó.
b) Quốc gia nguồn gốc góp phần giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn về kinh tế trong các quốc gia khác đang tiến hành khai thác các loài cá này bằng cách tính đến việc đánh bắt bình thường của các quốc gia này và đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó, cũng như đến tất cả các khu vực mà các đàn cá đó được khai thác.
c) Các quốc gia nói ở điểm b tham gia qua sự thỏa thuận với các quốc gia nguồn gốc, vào những biện pháp bảo đảm khôi phục các đàn cá vào sông sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp tài chính cho các biện pháp này; các quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan tâm đặc biệt trong việc khai thác các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của mình.
d) Việc áp dụng quy định liên quan đến các đàn cá vào sông sinh sản ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế được bảo đảm qua sự thỏa thuận giữa quốc gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan khác.
b) Quốc gia nguồn gốc góp phần giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn về kinh tế trong các quốc gia khác đang tiến hành khai thác các loài cá này bằng cách tính đến việc đánh bắt bình thường của các quốc gia này và đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó, cũng như đến tất cả các khu vực mà các đàn cá đó được khai thác.
c) Các quốc gia nói ở điểm b tham gia qua sự thỏa thuận với các quốc gia nguồn gốc, vào những biện pháp bảo đảm khôi phục các đàn cá vào sông sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp tài chính cho các biện pháp này; các quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan tâm đặc biệt trong việc khai thác các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của mình.
d) Việc áp dụng quy định liên quan đến các đàn cá vào sông sinh sản ở ngoài vùng đặc quyền về kinh tế được bảo đảm qua sự thỏa thuận giữa quốc gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan khác.
4. Khi các đàn cá vào sông sinh sản di cư đến các vùng
nước hoặc đi qua các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền
về kinh tế của một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc, quốc gia này hợp
tác với quốc gia nguồn gốc nhằm bảo tồn và quản lý các đàn cá đó.
5. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản
và các quốc gia khác đánh bắt cá này ký kết các thỏa thuận nhằm áp dụng điều
này, nếu có thể được thì qua trung gian của các tổ chức khu vực.
ĐIỀU 67. Các loài cá ra biển sinh sản (espèces
catadromes)
1. Một quốc gia ven biển mà trong vùng nước của mình
loài cá ra biển sinh sản sống phần lớn cuộc đời của chúng chịu trách nhiệm quản
lý chúng và chăm lo đến việc các loài cá này vào hoặc ra khỏi vùng nước đó.
2. Chỉ được khai thác các loài cá ra biển sinh sản
trong những vùng nước bên trong các ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về
kinh tế. Trong các vùng
đặc quyền về kinh tế, việc khai thác được tiến hành theo điều này và các quy định khác của Công ước liên quan đến việc đánh bắt trong các vùng này.
đặc quyền về kinh tế, việc khai thác được tiến hành theo điều này và các quy định khác của Công ước liên quan đến việc đánh bắt trong các vùng này.
3. Trong những trường hợp mà các loài cá ra biển sinh
sản, dù đã đến hay chưa đến thời kỳ sinh sản, di cư qua vùng đặc quyền về kinh
tế của một quốc gia khác thì việc quản lý các loài cá này, kể cả việc khai
thác, được quy định qua thỏa thuận giữa quốc gia nói ở khoản 1 và quốc gia hữu
quan kia. Thỏa thuận này cần được bảo đảm việc quản lý hợp lý các loài cá được
xem xét và có tính đến trách nhiệm của quốc gia nói ở khoản 1 về việc bảo tồn
các loài này.
ĐIỀU 68. Các loài định cư (espèces sédentaires)
Phần này không áp dụng đối với các loài định cư, như
đã được quy định ở Điều 77, khoản 4.
ĐIỀU 69. Quyền của các quốc gia không có biển
1. Một quốc gia không có biển có quyền tham gia, theo
một thể thức công bằng, khai thác một phần thích hợp số dư các tài nguyên sinh
vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển trong cùng một
phân khu vực hoặc khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích
đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61 và
62.
2. Các điều kiện và các thể thức của việc tham gia này
được các quốc gia hữu quan ấn định thông qua thỏa thuận tay đôi, phân khu vực
hay khu vực, đặc biệt tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi động tác có hại cho cộng đồng những người đánh bắt hoặc cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia không có biển, theo đúng điều này, tham gia hoặc có quyền tham gia, theo các thỏa thuận tay đôi, phân phu vực hay khu vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia không có biển khác hoặc các quốc gia bất lợi về địa lý tham gia vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế cuả quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia này một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
a) Sự cần thiết phải tránh mọi động tác có hại cho cộng đồng những người đánh bắt hoặc cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia không có biển, theo đúng điều này, tham gia hoặc có quyền tham gia, theo các thỏa thuận tay đôi, phân phu vực hay khu vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia không có biển khác hoặc các quốc gia bất lợi về địa lý tham gia vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế cuả quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia này một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
3. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho
phép một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh
bắt có thể chấp nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật
trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình thì quốc gia đó và các quốc gia hữu
quan khác hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hoặc
khu
vực một cách công bằng cho phép các quốc gia đang phát triển không có biển trong cùng khu vực hay phân khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển thuộc phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 2.
vực một cách công bằng cho phép các quốc gia đang phát triển không có biển trong cùng khu vực hay phân khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển thuộc phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 2.
4. Các quốc gia phát triển không có biển chỉ có quyền
tham gia khai thác các tài nguyên sinh vật theo điều này, trong các vùng đặc
quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển phát triển ở trong cùng phân khu vực
hay khu vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, khi cho các quốc gia
khác vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình,
đã xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng
đồng những người đánh bắt cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia có
công dân vẫn thường tiến hành việc đánh bắt trong vùng.
5. Các quy định nói trên được áp dụng không phương hại
đến các thỏa thuận được ký kết nếu có trong các phân khu vực hay khu vực, mà ở
đó các quốc gia ven biển có thể dành cho các quốc gia không có biển ở cùng phân
khu vực hay khu vực đó những quyền ngang nhau, hoặc ưu tiên để khai thác các
tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 70. Quyền của các quốc gia bất lợi về địa lý
1. Các quốc gia bất lợi về địa lý có quyền tham gia,
theo một thể thức công bằng, vào việc khai thác một phần thích hợp số dư của
những tài nguyên sinh vật trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia
ven biển ở cùng phân khu vực hay khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và
địa lý thích đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các
Điều 61 và 62.
2. Trong phần này, thuật ngữ “quốc gia bất lợi về địa
lý” có nghĩa là các quốc gia ven biển, kể cả các quốc gia ở ven bờ một biển kín
hoặc nửa kín, mà vị trí địa lý của họ làm cho họ phải lệ thuộc vào việc khai
thác những tài nguyên sinh vật ở các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia
khác trong phân khu vực hoặc khu vực để có đủ cá dùng làm thực phẩm cung cấp
cho dân cư hay một bộ phận dân cư của họ, cũng như các quốc gia ven biển không
thể có một vùng đặc quyền kinh tế riêng.
3. Các điều kiện và thể thức của việc tham gia đó được
các quốc gia hữu quan ấn định thông qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu
vực hay khu vực, đặc biệt có tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi tác hại cho cộng đồng những người đánh bắt hay cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia bất lợi về địa lý, theo đúng điều này, tham gia hoặc có quyền tham gia theo các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực
hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia bất lợi về địa lý khác và các quốc gia không có biển tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia ấy phải chịu một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu về thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
a) Sự cần thiết phải tránh mọi tác hại cho cộng đồng những người đánh bắt hay cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia bất lợi về địa lý, theo đúng điều này, tham gia hoặc có quyền tham gia theo các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực
hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia bất lợi về địa lý khác và các quốc gia không có biển tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia ấy phải chịu một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu về thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
4. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho
phép một mình quốc gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh
bắt có thể chấp nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật
trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình, quốc gia đó và các quốc gia hữu quan
khác hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu
vực một cách công bằng, cho phép các quốc gia đang phát triển bất lợi về địa lý
trong cùng một phân khu vực hay khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc
khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của các
quốc gia ven biển trong phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn cảnh và
các điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy định này,
cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 3.
5. Các quốc gia phát triển bất lợi về địa lý chỉ có
quyền tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật, theo điều này, trong các
vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia phát triển ở cùng một phân khu vực
hay khu vực, có tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, trong khi cho các quốc
gia khác vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình, đã xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với
cộng đồng những người đánh bắt, cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc
gia có công dân vẫn thường tiến hành đánh bắt ở trong vùng.
6. Các quy định trên được áp dụng không phương hại đến
các thỏa thuận được ký kết nếu có trong các phân khu vực hoặc khu vực mà ở đó
các quốc gia ven biển có thể dành cho các quốc gia bất lợi về địa lý trong cùng
khân khu vực hay khu vực các quyền ngang nhau hoặc ưu tiên để khai thác các tài
nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 71. Trường hợp các Điều 69 và 70 không thể áp
dụng được
Các Điều 69 và 70 không áp dụng đối với các quốc gia
ven biển có nền kinh tế lệ thuộc rất nặng nề vào việc khai thác tài nguyên sinh
vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 72. Những hạn chế về chuyển giao các quyền.
1. Các quyền khai thác các tài nguyên sinh vật nêu ở
các Điều 69 và 70 không thể chuyển giao trực tiếp hay gián tiếp cho các quốc
gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia này, dù bằng con đường cho
thuê hay bằng giấy phép, hoặc bằng việc thành lập các xí nghiệp liên doanh hay
bằng bất cứ một thỏa thuận nào khác mà tác dụng là tạo ra một sự chuyển giao
như thế, trừ trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác.
2. Điều quy định trên không ngăn cấm các quốc gia hữu
quan nhận của quốc gia thứ ba hay các tổ chức quốc tế sự trợ giúp về kỹ thuật
hay tài chính nhằm làm dễ dàng cho việc thực hiện các quyền của họ theo đúng
Điều 69 và 70, với điều kiện là việc này không dẫn đến một tác dụng nói ở khoản
1.
ĐIỀU 73. Thi hành các luật và quy định của quốc gia
ven biển
1. Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về
thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc
quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể
cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn
trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước.
2. Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác
thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc
tàu này.
3. Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với
những vụ vi phạm các luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về
kinh tế không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan
có thỏa thuận khác, và không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác.
4. Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước
ngoài, quốc gia ven biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng
các con đường thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể
sẽ được tuyên bố sau đó.
ĐIỀU 74. Hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh
tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau
1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế
giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diên nhau được thực hiện bằng
con đường thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của
Quy chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới được một thỏa thuận trong một thời
gian hợp lý thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc
gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến
các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở
việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không
phương hại đến hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia
hữu quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về
kinh tế được giải quyết theo đúng điều ước đó.
ĐIỀU 75. Các hải đồ và các bản kê tọa độ địa lý
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới phía
ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế và các đường hoạch định ranh giới được vạch
theo đúng Điều 74 đều được ghi lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định
được vị trí của nó; có trường hợp việc vẽ các ranh giới ngoài hay các đường
hoạch định ranh giới đó có thể thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các
điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản
đồ hay bản kê các tọa độ đại lý gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để
lưu chiểu.
PHẦN VI - THỀM LỤC ĐỊA
ĐIỀU 76. Định nghĩa thềm lục địa
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ
phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài
của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200
hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn
nói ở các khoản từ 4 đến 6.
3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục
địa của quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và
bờ, cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của
đại dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao gồm
lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ
ngoài của rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải bằng:
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh
giới ngoài cùng của thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ
i) và ii), nằm cách điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách
không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là đường nối liền
các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới
ngoài của thềm lục địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa
hình nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như
các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục
địa của mình, khi thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ
tọa độ kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh
giới các thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được
thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban
gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc
ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven
biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc
các bản đồ và các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ
một cách thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký
công bố các tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định
ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện
nhau.
ĐIỀU 77. Các quyền của các quốc gia ven biển đối với
thềm lục địa
1. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ
quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên
của mình.
2. Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền,
nghĩa là các quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác
tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các
hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó.
3. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục
địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất
cứ tuyên bố rõ ràng nào.
4. Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này bao gồm các
tài nguyên thiên nhiên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật
khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại
định cư, nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc nằm
bất động ở đáy, hoặc lòng đất dưới đáy; hoặc là không có khả năng di chuyển nếu
không có khả năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.
ĐIỀU 78. Chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời ở
phía trên, và các quyền và các tự do của các quốc gia khác
1. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục
địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng
trời trên vùng nước này.
2. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình
đối với thềm lục địa không gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự
do khác của các nước khác đã được công ước thừa nhận, cũng không được cản trở
việc thực hiện các quyền này một cách không thể biện bạch được.
ĐIỀU 79. Các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa
1. Tất cả các quốc gia có quyền đặt các dây cáp và ống
dẫn ngầm ở thềm lục địa theo đúng điều này.
2. Trong điều kiện thi hành các biện pháp hợp lý nhằm
thăm dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa và ngăn
chặn, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia ven biển không được cản trở việc lắp đặt hay bảo quản các ống dẫn và dây cáp đó.
và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia ven biển không được cản trở việc lắp đặt hay bảo quản các ống dẫn và dây cáp đó.
3. Tuyến ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần được sự thỏa
thuận của quốc gia ven biển.
4. Không một quy định nào ở phần này đụng chạm đến
quyền của quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện đối với các đường dây cáp hay
các đường ống dẫn đi vào lãnh thổ hay lãnh hải của mình, cũng như, không đụng
chạm đến đường tài phán của quốc gia này đối với dây và ống dẫn được đặt, hoặc
sử dụng trong khuôn khổ của việc thăm dò thềm lục địa của mình hay việc khai
khác tài nguyên thiên nhiên của mình, hoặc của việc khai thác các đảo nhân tạo,
thiết bị hay công trình thuộc quyền tài phán của quốc gia này.
5. Khi đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, các quốc gia
phải tính đến các dây cáp và ống ngầm đã được đặt trước. Đặc biệt họ cần lưu ý
không làm hại đến khả năng sửa chữa các đường dây cáp và ống dẫn đó.
ĐIỀU 80. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở
thềm lục địa
Điều 60 áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi
cần thiết và chi tiết) đối với các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm
lục địa.
ĐIỀU 81. Việc khoan ở thềm lục địa
Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định
việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì.
ĐIỀU 82. Những khoản đóng góp bằng tiền hoặc hiện vật
vào việc khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý
1. Quốc gia ven biển nộp các khoản đóng góp bằng tiền
hay bằng hiện vật về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không sinh vật của
thềm lục địa nằm ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải.
2. Các khoản đóng góp được nộp hàng năm tính theo toàn
bộ sản phẩm thu hoạch được ở một điểm khai thác nào đó, sau năm năm đầu khai
thác điểm đó. Năm thứ 6 tỉ lệ đóng góp là 1% của giá trị hay của khối lượng sản
phẩm khai thác được ở điểm khai thác. Sau đó, mỗi năm tỷ lệ này tăng lên 1% cho
đến năm thứ 12 và bắt đầu từ năm thứ 12 trở đi tỷ lệ đó ở mức 7%. Sản phẩm
không bao gồm các tài nguyên được dùng trong khuôn khổ của việc khai thác.
3. Quốc gia đang phát triển nào là nước chuyên nhập
khẩu một khoáng sản được khai thác từ thềm lục địa của mình được miễn các khoản
đóng góp đối với loại khoáng sản đó.
4. Các khoản đóng góp này được thực hiện thông qua Cơ
quan quyền lực; cơ quan này phân chia các khoản đó cho các quốc gia thành viên,
theo tiêu chuẩn phân chia công bằng có tình đến lợi ích và nhu cầu của các quốc
gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia chậm phát triển nhất hay các quốc
gia không có biển.
ĐIỀU 83. Hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các
quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau
1. Việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các
quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường
thỏa thuận theo đúng luật pháp quốc tế như đã được nêu ở Điều 38 của Quy chế
tòa án quốc tế, để đi tới một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới một thỏa thuận trong một thời hạn
hợp lý thì các quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1,
các quốc gia hữu quan trên tinh thần hiều biết, và hợp tác, làm hết sức mình để
đi đến các giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và để không phương hại hay
cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các
dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia
hữu quan, các vấn đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới thềm lục địa được
thực hiện theo đúng điều ước đó.
ĐIỀU 84. Các hải đồ và bản kê các tọa độ địa lý
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới
ngoài của thềm lục địa và các đường hoạch định ranh giới được vạch ra theo đúng
Điều 83 được ghi rõ lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí
của nó, có trường hợp việc vẽ ranh giới ngoài hay các đường hoạch đinh ranh
giới này có thể được thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có
ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản
đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký liên hợp quốc một
bản để lưu chiểu, và đối với các bản đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý vị trí
của ranh giới ngoài của thềm lục địa, thì gửi đến Tổng thư ký của Cơ quan quyền
lực một bản để lưu chiểu.
ĐIỀU 85. Việc đào đường hầm
Phần này không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven
biển được khai thác lòng đất dưới đáy biển bằng cách đào hầm, bất kể độ sâu của
các vùng nước ở nơi ấy là bao nhiêu.
PHẦN VII - BIỂN CẢ
Mục 1 - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 86. Phạm vi áp dụng của phần này
Phần này áp dụng cho tất cả những vùng biển không nằm
trong vùng đặc quyền về kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng
như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Điều này
không hạn chế về bất cứ phương diện nào các quyền tự do mà tất cả các quốc gia
được hưởng trong vùng đặc quyền về kinh tế theo Điều 58.
ĐIỀU 87. Tự do trên biển cả
1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của Công ước hay và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm:
a) Tự do hàng hải;
b) Tự do hàng không;
c) Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ Phần VI;
d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI;
e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục 2;
f) Tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân thủ các Phần VI và VIII. 2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động trong Vùng.
ĐIỀU 88. Sử dụng biển cả vào mục đích hòa bình
ĐIỀU 87. Tự do trên biển cả
1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của Công ước hay và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm:
a) Tự do hàng hải;
b) Tự do hàng không;
c) Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ Phần VI;
d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI;
e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục 2;
f) Tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân thủ các Phần VI và VIII. 2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động trong Vùng.
ĐIỀU 88. Sử dụng biển cả vào mục đích hòa bình
Biển cả được sử dụng vào các mục đích hòa bình
ĐIỀU 89. Tính bất hợp pháp của những yêu sách về chủ quyền đối với biển cả
ĐIỀU 89. Tính bất hợp pháp của những yêu sách về chủ quyền đối với biển cả
Không một quốc gia nào có thể đòi đặt một cách hợp
pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc vào chủ quyền của mình
ĐIỀU 90. Quyền hàng hải
1. Mỗi quốc gia quy định các điều kiện cho phép tàu thuyền mang quốc tịch của nước mình, các điều kiện đăng ký các tàu thuyền trên lãnh thổ của mình và các điều kiện cần phải có để cho tàu thuyền được quyền treo cờ của nước mình. Các tàu thuyền mang quốc tính của quốc gia mà chúng được phép treo cờ. Cần phải có một mối quan hệ thực chất giữa quốc gia và các con tàu.
2. Quốc gia nào cho phép tàu thuyền treo cờ nước mình thì cấp cho tàu thuyền đó các tài liệu có liên quan đến mục đích đó.
ĐIỀU 92. Điều kiện pháp lý của tàu thuyền
1. Các tàu thuyền chỉ hoạt động dưới cờ của một quốc gia và, trừ những trường hợp ngoại lệ đã được quy định rõ ràng trong các hiệp ước quốc tế hay trong Công ước, chỉ thuộc quyền tài phán của quốc gia này khi ở biển cả. Không được thay đổi cờ trong một chuyến đi hay trong một dịp đậu lại, trừ trường hợp có sự chuyển giao thật sự quyền sở hữu hay có thay đổi đăng ký.
2. Một tàu thuyền hoạt động dưới cờ của nhiều quốc gia mà nó sử dụng theo sở thích của mình thì không thể sử dụng đối với mọi quốc gia thứ ba, bất cứ quốc tịch nào trong số đó và có thể được coi như là một tàu thuyền không có quốc tịch.
ĐIỀU 93. Các tàu thuyền treo cờ của Tổ chức Liên hợp quốc, của cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc hay của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế
ĐIỀU 90. Quyền hàng hải
1. Mỗi quốc gia quy định các điều kiện cho phép tàu thuyền mang quốc tịch của nước mình, các điều kiện đăng ký các tàu thuyền trên lãnh thổ của mình và các điều kiện cần phải có để cho tàu thuyền được quyền treo cờ của nước mình. Các tàu thuyền mang quốc tính của quốc gia mà chúng được phép treo cờ. Cần phải có một mối quan hệ thực chất giữa quốc gia và các con tàu.
2. Quốc gia nào cho phép tàu thuyền treo cờ nước mình thì cấp cho tàu thuyền đó các tài liệu có liên quan đến mục đích đó.
ĐIỀU 92. Điều kiện pháp lý của tàu thuyền
1. Các tàu thuyền chỉ hoạt động dưới cờ của một quốc gia và, trừ những trường hợp ngoại lệ đã được quy định rõ ràng trong các hiệp ước quốc tế hay trong Công ước, chỉ thuộc quyền tài phán của quốc gia này khi ở biển cả. Không được thay đổi cờ trong một chuyến đi hay trong một dịp đậu lại, trừ trường hợp có sự chuyển giao thật sự quyền sở hữu hay có thay đổi đăng ký.
2. Một tàu thuyền hoạt động dưới cờ của nhiều quốc gia mà nó sử dụng theo sở thích của mình thì không thể sử dụng đối với mọi quốc gia thứ ba, bất cứ quốc tịch nào trong số đó và có thể được coi như là một tàu thuyền không có quốc tịch.
ĐIỀU 93. Các tàu thuyền treo cờ của Tổ chức Liên hợp quốc, của cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc hay của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế
Các điều trên không đề cập vấn đề các tàu được dùng
vào dịch vụ chính thức của Liên hợp quốc, của các cơ quan chuyên môn của Liên
hợp quốc hay Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế.
ĐIỀU 94. Các nghĩa vụ của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ
1. Mọi quốc gia đều thực sự thi hành quyền tài phán và sự kiểm soát của mình trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật và xã hội đối với các tàu thuyền mang cờ của mình.
2. Đặc biệt mọi quốc gia:
a) Có một sổ đăng ký hàng hải có ghi tên và đặc điểm của các tàu thuyền mang cờ nước mình, trừ các tàu thuyền do kích thước nhỏ không nằm trong quy định quốc tế được chấp nhận chung;
ĐIỀU 94. Các nghĩa vụ của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ
1. Mọi quốc gia đều thực sự thi hành quyền tài phán và sự kiểm soát của mình trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật và xã hội đối với các tàu thuyền mang cờ của mình.
2. Đặc biệt mọi quốc gia:
a) Có một sổ đăng ký hàng hải có ghi tên và đặc điểm của các tàu thuyền mang cờ nước mình, trừ các tàu thuyền do kích thước nhỏ không nằm trong quy định quốc tế được chấp nhận chung;
b) Thi hành quyền tài phán theo đúng luật trong nước
mình đối với bất kỳ tàu thuyền nào mang cờ nước mình, cũng như đối với thuyền
trưởng, sĩ quan và đoàn thủy thủ về các vấn đề hành chính, kỹ thuật và xã hội
liên quan đến tàu thuyền.
3. Mọi quốc gia phải có các biện pháp cần thiết đối
với các tàu thuyền mang cờ của nước mình để đảm bảo an toàn trên biển, nhất là
về:
a) Cấu trúc, trang bị của tàu thuyền và khả năng đi biển của nó;
b) Thành phần, điều kiện làm việc và việc đào tạo các thủy thủ, có tính đến các văn bản quốc tế có thể áp dụng được;
c) Việc sử dụng các tín hiệu, tình trạng hoạt động tốt của hệ thống thông tin liên lạc và việc phòng ngừa đâm va.
a) Cấu trúc, trang bị của tàu thuyền và khả năng đi biển của nó;
b) Thành phần, điều kiện làm việc và việc đào tạo các thủy thủ, có tính đến các văn bản quốc tế có thể áp dụng được;
c) Việc sử dụng các tín hiệu, tình trạng hoạt động tốt của hệ thống thông tin liên lạc và việc phòng ngừa đâm va.
4. Các biện pháp này bao gồm các biện pháp cần thiết
để đảm bảo rằng:
a) Tàu thuyền nào cũng phải được một viên thanh tra hàng hải có trình độ kiểm tra trước khi đăng ký vào sổ và sau đó, trong những khoảng thời gian thích hợp và trên tàu thuyền cần có các hải đồ, các tài liệu về hàng hải, cũng như dụng cụ và máy móc hàng hải mà sự an toàn hàng hải đòi hỏi;
b) Tàu thuyền nào cũng phải được giao cho một thuyền trưởng và các sĩ quan có trình độ chuyên môn cần thiết, đặc biệt là việc điều động, hàng hải, thông tin liên lạc và điều khiển các máy, thủy thủ có trình độ chuyên môn cần thiết và đủ số so với loại tàu thuyền, kích thước, máy móc và trang bị của tàu thuyền;
c) Thuyền trưởng, các sỹ quan và ở mức độ cần thiết, đoàn thủy thủ hoàn toàn nắm vững và sẵn sàng tôn trọng các quy tắc quốc tế có thể áp dụng được về việc cứu sinh trên biển, việc phòng ngừa các tai nạn đâm va, việc ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển và việc duy trì thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện
a) Tàu thuyền nào cũng phải được một viên thanh tra hàng hải có trình độ kiểm tra trước khi đăng ký vào sổ và sau đó, trong những khoảng thời gian thích hợp và trên tàu thuyền cần có các hải đồ, các tài liệu về hàng hải, cũng như dụng cụ và máy móc hàng hải mà sự an toàn hàng hải đòi hỏi;
b) Tàu thuyền nào cũng phải được giao cho một thuyền trưởng và các sĩ quan có trình độ chuyên môn cần thiết, đặc biệt là việc điều động, hàng hải, thông tin liên lạc và điều khiển các máy, thủy thủ có trình độ chuyên môn cần thiết và đủ số so với loại tàu thuyền, kích thước, máy móc và trang bị của tàu thuyền;
c) Thuyền trưởng, các sỹ quan và ở mức độ cần thiết, đoàn thủy thủ hoàn toàn nắm vững và sẵn sàng tôn trọng các quy tắc quốc tế có thể áp dụng được về việc cứu sinh trên biển, việc phòng ngừa các tai nạn đâm va, việc ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển và việc duy trì thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện
5. Khi thi hành các biện pháp nói ở các khoản 3 và 4,
mỗi quốc gia buộc phải tuân thủ các quy tắc, thủ tục và tập quán quốc tế đã
được chấp nhận chung và thi hành mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo cho các quy
tắc, thủ tục và tập quán nói trên được tôn trọng.
6. Quốc gia nào có những lý do đúng đắn để nghĩ rằng quyền tài phán và quyền kiểm soát thích hợp đối với một tàu thuyền đã không được thi hành, thì có thề thông báo những sự kiện đó cho quốc gia mà tàu mang cờ. Khi được thông báo, quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành điều tra và nếu cần, có các biện pháp điều chỉnh cần thiết.
7. Mỗi quốc gia ra lệnh mở cuộc điều tra do một hay nhiều nhân vật có đầy đủ thẩm quyền tiến hành, hoặc là cuộc điều tra được tiến hành trước những nhân vật đó về bất cứ tai nạn nào trên biển hay sự cố hàng hải nào xảy ra trên biển cả có liên quan đến một chiếc tàu mang cờ của nước mình và đã
gây ra chết người hay gây trọng thương cho những công dân của một quốc gia khác, hoặc đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho tàu thuyền và công trình thiết bị của một quốc gia khác hay cho môi trường biển. Quốc gia mà tàu mang cờ và quốc gia hữu quan đó tổ chức về một tai nạn trên biển hay một sự cố hàng hải thuộc loại này.
ĐIỀU 95. Quyền miễn trừ của các tàu chiến trên biển cả
6. Quốc gia nào có những lý do đúng đắn để nghĩ rằng quyền tài phán và quyền kiểm soát thích hợp đối với một tàu thuyền đã không được thi hành, thì có thề thông báo những sự kiện đó cho quốc gia mà tàu mang cờ. Khi được thông báo, quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành điều tra và nếu cần, có các biện pháp điều chỉnh cần thiết.
7. Mỗi quốc gia ra lệnh mở cuộc điều tra do một hay nhiều nhân vật có đầy đủ thẩm quyền tiến hành, hoặc là cuộc điều tra được tiến hành trước những nhân vật đó về bất cứ tai nạn nào trên biển hay sự cố hàng hải nào xảy ra trên biển cả có liên quan đến một chiếc tàu mang cờ của nước mình và đã
gây ra chết người hay gây trọng thương cho những công dân của một quốc gia khác, hoặc đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho tàu thuyền và công trình thiết bị của một quốc gia khác hay cho môi trường biển. Quốc gia mà tàu mang cờ và quốc gia hữu quan đó tổ chức về một tai nạn trên biển hay một sự cố hàng hải thuộc loại này.
ĐIỀU 95. Quyền miễn trừ của các tàu chiến trên biển cả
Các tàu chiến trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ
hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang
cờ.
ĐIỀU 96. Quyền miễn trừ của các tàu thuyền chỉ dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại
ĐIỀU 96. Quyền miễn trừ của các tàu thuyền chỉ dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại
Các tàu thuyền của Nhà nước hay do Nhà nước khai thác
và chỉ dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại trên biển cả
được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác
ngoài quốc gia mà tàu mang cờ.
ĐIỀU 97. Quyền tài phán hình sự về tai nạn đâm va hoặc bất cứ sự cố hàng hải nào
1. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va hay bất kỳ sự cố hàng hải nào trên biển cả mà trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm kỷ luật thuộc về thuyền trưởng hoặc thuộc về bất kỳ thành viên nào trong đoàn thủy thủ của con tàu, chỉ có thể yêu cầu truy tố hình sự hay thi hành kỷ luật họ trước các nhà đương cục tư pháp hay hành chính của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc là của quốc gia mà đương sự mang quốc tịch.
2. Về mặt kỷ luật, quốc gia nào đã cấp bằng chỉ huy hay giấy chứng nhận khả năng hoặc giấy phép, là quốc gia duy nhất có thẩm quyền công bố, với việc tôn trọng các thủ tục họp pháp, thu hồi các bằng hay chứng chỉ đó không thuộc quốc tịch của quốc gia đó.
3. Không thể ra lệnh bắt hay giữ chiếc tàu, ngay cả trong khi tiến hành công việc dự thẩm, nếu không phải là nhà đương cục của quốc gia mà tàu mang cờ.
ĐIỀU 98. Nghĩa vụ giúp đỡ
1. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mang cờ của nước mình, trong chừng mực có thể làm được mà không gây nguy hiểm nghiêm trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành khách trên tàu, phải:
a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn trên biển;
b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những người đang bị nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần được giúp đỡ, trong chừng mực mà
người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử lý như thế;
c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va, giúp đỡ chiếc tàu kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi có thể, cho chiếc tàu đó biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần nhất mà tàu mình sẽ cập bến. 2. Tất cả các quốc gia ven biển tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và hoạt động của một cơ quan thường trực về tìm kiếm và cứu trợ thích hợp và hiệu quả, để đảm bảo an toàn hàng hải và hàng không, và nếu có thể, thì hợp tác với những nước láng giềng của mình trong khuôn khổ của những dàn xếp có tính chất khu vực, để thực hiện mục đích nói trên.
ĐIỀU 99. Cấm chuyên chở nô lệ
ĐIỀU 97. Quyền tài phán hình sự về tai nạn đâm va hoặc bất cứ sự cố hàng hải nào
1. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va hay bất kỳ sự cố hàng hải nào trên biển cả mà trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm kỷ luật thuộc về thuyền trưởng hoặc thuộc về bất kỳ thành viên nào trong đoàn thủy thủ của con tàu, chỉ có thể yêu cầu truy tố hình sự hay thi hành kỷ luật họ trước các nhà đương cục tư pháp hay hành chính của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc là của quốc gia mà đương sự mang quốc tịch.
2. Về mặt kỷ luật, quốc gia nào đã cấp bằng chỉ huy hay giấy chứng nhận khả năng hoặc giấy phép, là quốc gia duy nhất có thẩm quyền công bố, với việc tôn trọng các thủ tục họp pháp, thu hồi các bằng hay chứng chỉ đó không thuộc quốc tịch của quốc gia đó.
3. Không thể ra lệnh bắt hay giữ chiếc tàu, ngay cả trong khi tiến hành công việc dự thẩm, nếu không phải là nhà đương cục của quốc gia mà tàu mang cờ.
ĐIỀU 98. Nghĩa vụ giúp đỡ
1. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mang cờ của nước mình, trong chừng mực có thể làm được mà không gây nguy hiểm nghiêm trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành khách trên tàu, phải:
a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn trên biển;
b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những người đang bị nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần được giúp đỡ, trong chừng mực mà
người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử lý như thế;
c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va, giúp đỡ chiếc tàu kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi có thể, cho chiếc tàu đó biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần nhất mà tàu mình sẽ cập bến. 2. Tất cả các quốc gia ven biển tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và hoạt động của một cơ quan thường trực về tìm kiếm và cứu trợ thích hợp và hiệu quả, để đảm bảo an toàn hàng hải và hàng không, và nếu có thể, thì hợp tác với những nước láng giềng của mình trong khuôn khổ của những dàn xếp có tính chất khu vực, để thực hiện mục đích nói trên.
ĐIỀU 99. Cấm chuyên chở nô lệ
Mọi quốc gia đều thi hành các biện pháp có hiệu quả để
ngăn ngừa và trừng trị việc chuyên chở nô lệ trên các tàu được phép mang cờ của
nước mình, và để ngăn ngừa việc lạm dụng sắc cờ của mình vào mục đích nói trên.
Mọi người nô lệ ẩn náu ở trên một chiếc tàu, dù con tàu này mang cờ của bất kỳ
quốc gia nào, cũng được tự do ipso-facto (ngay tức khắc).
ĐIỀU 100. Nghĩa vụ hợp tác để trấn áp nạn cưới biển
ĐIỀU 100. Nghĩa vụ hợp tác để trấn áp nạn cưới biển
Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau, bằng mọi khả
năng của mình, để trấn áp cướp biển trên biển cả hay ở bất kỳ nơi nào khác
không thuộc quyền tài phán của quốc gia nào.
ĐIỀU 101. Định nghĩa cướp biển
ĐIỀU 101. Định nghĩa cướp biển
Một trong những hành động sau đây là hành động cướp
biển:
a) Mọi hành động trái phép dùng hành động hay bắt giữ hoặc bất kỳ sự cướp phá nào do thủy thủ hoặc hành khách trên một chiếc tàu hay một phương tiện bay tư nhân gây nên, vì những mục đích riêng tư, và nhằm:
i. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay khác, hay chống lại những người hay của cải ở trên con tàu hoặc phương tiện bay đỗ ở biển cả;
ii. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay, người hay của cải, ở một nơi không thuộc quyền tài phán của một quốc gia nào;
b) Mọi hành động tham gia có tính chất tự nguyện vào việc sử dụng một chiếc tàu hay một phương tiện bay, khi người tham gia biết từ những sự việc rằng chiếc tàu hay phương tiện bay đó là một tàu hay phương tiện bay cướp biển;
c) Mọi hành động nhằm xúi giục người khác phạm những hành động được xác định ở điểm a hoặc b hay phạm phải với chủ định làm dễ dàng cho các hành động đó.
a) Mọi hành động trái phép dùng hành động hay bắt giữ hoặc bất kỳ sự cướp phá nào do thủy thủ hoặc hành khách trên một chiếc tàu hay một phương tiện bay tư nhân gây nên, vì những mục đích riêng tư, và nhằm:
i. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay khác, hay chống lại những người hay của cải ở trên con tàu hoặc phương tiện bay đỗ ở biển cả;
ii. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay, người hay của cải, ở một nơi không thuộc quyền tài phán của một quốc gia nào;
b) Mọi hành động tham gia có tính chất tự nguyện vào việc sử dụng một chiếc tàu hay một phương tiện bay, khi người tham gia biết từ những sự việc rằng chiếc tàu hay phương tiện bay đó là một tàu hay phương tiện bay cướp biển;
c) Mọi hành động nhằm xúi giục người khác phạm những hành động được xác định ở điểm a hoặc b hay phạm phải với chủ định làm dễ dàng cho các hành động đó.
ĐIỀU 102. Hành động cướp biển của một tàu chiến, một
tàu Nhà nước hay một phương tiện bay của Nhà nước mà đoàn thủy thủ hay đội bay
đã nổi loạn gây ra
Những hành động cướp biển, như đã được xác định ở Điều
101, của một tàu chiến hay một tàu Nhà nước hay một phương tiện bay của Nhà
nước bị đoàn thủy thủ hay đội bay nổi loạn làm chủ, được coi là hành động của
các tàu hay phương tiện bay tư nhân.
ĐIỀU 103. Định nghĩa một tàu hay một phương tiện bay cướp biển
ĐIỀU 103. Định nghĩa một tàu hay một phương tiện bay cướp biển
Những tàu hay phương tiện bay mà kể kiểm soát nó thực
sự, chủ trương sử dụng để phạm một trong những hành động được nêu ở Điều 101,
được coi là những tàu hay phương tiện bay cướp biển. Những chiếc tàu hay phương
tiện bay đã được dùng để phạm những hành động nói trên cũng được coi là tàu hay
phương tiện bay cướp biển chừng nào nó còn ở dưới quyền kiểm soát của những
người gây ra những hành động đó.
ĐIỀU 104. Giữ hay mất quốc tịch của một con tàu hay một phương tiện bay cướp biển
ĐIỀU 104. Giữ hay mất quốc tịch của một con tàu hay một phương tiện bay cướp biển
Một con tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp
biển có thể giữ quốc tịch của mình. Việc giữ hay mất quốc tịch do luật trong
nước của quốc gia đã trao quốc tịch đó điều chỉnh.
ĐIỀU 105. Bắt giữ một chiếc tàu hay phương tiện bay cướp biển
ĐIỀU 105. Bắt giữ một chiếc tàu hay phương tiện bay cướp biển
Mọi quốc gia ở biển cả, hay ở bất cứ nơi nào khác
không thuộc quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào, đều có thể bất giữ một
chiếc tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp biển, hoặc một chiếc tàu
hay một phương tiện bay bị chiếm đoạt sau một hành động cướp biển và đang nằm
trong tay bọn cướp biển, và đều có thể bắt giữ người và của cải ở trên con tàu
hay phương tiện bay đó. Các tòa án của quốc gia đã tiến hành việc bắt đó có thể
công bố các hình phạt cũng như các biện pháp áp dụng đối với chiếc tàu, phương
tiện bay hay của cải, trừ những người lương thiện trong cuộc.
ĐIỀU 106. Trách nhiệm trong trường hợp bắt giữ một cách độc đoán
ĐIỀU 106. Trách nhiệm trong trường hợp bắt giữ một cách độc đoán
Khi bắt giữ một chiếc tàu hay một phương tiện bay bị
tình nghi là cướp biển mà không có lý do đầy đủ, quốc gia nào đã tiến hành việc
bắt giữ đó phải chịu trách nhiệm về bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào do hành
động đó gây ra đối với quốc gia mà tàu mà phương tiện bay đó mang quốc tịch.
ĐIỀU 107. Các tàu và phương tiện bay có đủ tư cách để thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển
ĐIỀU 107. Các tàu và phương tiện bay có đủ tư cách để thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển
Chỉ có các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự, hoặc
các tàu thuyền hay phương tiện bay khác mang các dấu hiện bên ngoài chứng tỏ rõ
ràng là của một cơ quan Nhà nước và được tiến hành nhiệm vụ này, mới có thể
thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển.
ĐIỀU 108. Buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp việc buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích do các tàu đi lại ở biển cả tiến hành, vi phạm các công ước quốc tế.
2. Mọi quốc gia khi đã có lý do chính đáng để cho rằng một tàu mang cờ của nước mình đang buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích đều có thể yêu cầu các quốc gia khác hợp tác để chấm dứt việc buôn bán đó.
ĐIỀU 109. Phát sóng không được phép từ biển cả
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp phát sóng không được phép từ biển cả.
2. Trong Công ước “phát sóng không được phép” là các cuộc phát thanh và vô tuyến truyền hình nhằm vào quảng đại quần chúng từ một chiếc tàu hay một thiết bị ở biển cả vi phạm các quy chế quốc tế, trừ việc phát các tín hiệu cấp cứu.
3. Người nào tiến hành truyền các cuộc phát sóng không được phép đều có thể bị truy tố trước tòa án của:
a) Quốc gia mà chiếc tàu phát sóng mang cờ;
b) Quốc gia đăng ký của thiết bị;
c) Quốc gia mà người nói trên là công dân;
d) Mọi quốc gia mà ở đó các cuộc phát sóng có thể thu được;
e) Mọi quốc gia có các đài thông tin vô tuyến được phép đã bị nhiễu do các cuộc phát sóng đó. 4. Ở biển cả, một quốc gia có quyền tài phán ở theo đúng khoản 3, có thể theo đúng Điều 110, bắt bất kỳ người nào hay giữ bất kỳ chiếc tàu nào truyền các cuộc phát sóng không được phép và tịch thu phương tiện phát sóng.
ĐIỀU 110. Quyền khám xét
1. Trừ những trường hợp mà việc can thiệp là căn cứ vào những quyền do hiệp ước mang lại, một tàu chiến khi gặp một tàu nước ngoài ở trên biển cả
không phải là một tàu được hưởng quyền miễn trừ như đã nêu ở các Điều 95 và 96, chỉ có thể khám xét chiếc tàu đó nếu có những lý do đúng đắn để nghi ngờ chiếc tàu đó:
a) Tiến hành cướp biển;
b) Chuyên chở nô lệ;
c) Dùng vào các cuộc phát sóng không được phép, quốc gia mà chiếc tàu mang cờ có quyền tài phán theo Điều 109;
d) Không có quốc tịch; hay
e) Thật ra là cùng quốc tịch với chiếc tàu chiến, mặc dù chiếc tàu này treo cờ nước ngoài hay từ chối treo cờ của mình.
ĐIỀU 108. Buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp việc buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích do các tàu đi lại ở biển cả tiến hành, vi phạm các công ước quốc tế.
2. Mọi quốc gia khi đã có lý do chính đáng để cho rằng một tàu mang cờ của nước mình đang buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích đều có thể yêu cầu các quốc gia khác hợp tác để chấm dứt việc buôn bán đó.
ĐIỀU 109. Phát sóng không được phép từ biển cả
1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp phát sóng không được phép từ biển cả.
2. Trong Công ước “phát sóng không được phép” là các cuộc phát thanh và vô tuyến truyền hình nhằm vào quảng đại quần chúng từ một chiếc tàu hay một thiết bị ở biển cả vi phạm các quy chế quốc tế, trừ việc phát các tín hiệu cấp cứu.
3. Người nào tiến hành truyền các cuộc phát sóng không được phép đều có thể bị truy tố trước tòa án của:
a) Quốc gia mà chiếc tàu phát sóng mang cờ;
b) Quốc gia đăng ký của thiết bị;
c) Quốc gia mà người nói trên là công dân;
d) Mọi quốc gia mà ở đó các cuộc phát sóng có thể thu được;
e) Mọi quốc gia có các đài thông tin vô tuyến được phép đã bị nhiễu do các cuộc phát sóng đó. 4. Ở biển cả, một quốc gia có quyền tài phán ở theo đúng khoản 3, có thể theo đúng Điều 110, bắt bất kỳ người nào hay giữ bất kỳ chiếc tàu nào truyền các cuộc phát sóng không được phép và tịch thu phương tiện phát sóng.
ĐIỀU 110. Quyền khám xét
1. Trừ những trường hợp mà việc can thiệp là căn cứ vào những quyền do hiệp ước mang lại, một tàu chiến khi gặp một tàu nước ngoài ở trên biển cả
không phải là một tàu được hưởng quyền miễn trừ như đã nêu ở các Điều 95 và 96, chỉ có thể khám xét chiếc tàu đó nếu có những lý do đúng đắn để nghi ngờ chiếc tàu đó:
a) Tiến hành cướp biển;
b) Chuyên chở nô lệ;
c) Dùng vào các cuộc phát sóng không được phép, quốc gia mà chiếc tàu mang cờ có quyền tài phán theo Điều 109;
d) Không có quốc tịch; hay
e) Thật ra là cùng quốc tịch với chiếc tàu chiến, mặc dù chiếc tàu này treo cờ nước ngoài hay từ chối treo cờ của mình.
2. Trong những trường hợp nêu ở khoản 1, tàu chiến có
thể kiểm tra các giấy tờ cho phép mang cờ. Vì mục đích này, tàu chiến có thể
phái một chiếc xuồng, dưới sự chỉ huy của một sĩ quan, đến gần chiếc tàu bị
tình nghi. Sau khi kiểm tra các tài liệu, nếu vẫn còn nghi vấn thì có thể tiếp
tục điều tra trên tàu với một thái độ hết sức đúng mực.
3. Nếu việc nghi ngờ xét ra không có cơ sở thì chiếc tàu bị khám xét được bồi thường về mọi tổn thất hay thiệt hại xảy ra, với điều kiện là chiếc tàu này không phạm một hành động nào làm cho nó bị tình nghi.
4. Các điều quy định này được áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với các phương tiện bay quân sự.
5. Các điều quy định này cũng được áp dụng đối với tất cả các tàu thuyền hay phương tiện bay khác đã được phép một cách hợp lệ và mang những dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ rằng chúng được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước.
ĐIỀU 111. Quyền truy đuổi
1. Việc truy đuổi một tàu nước ngoài có thể được tiến hành nếu những nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia ven biển có những lý do đúng đắn để cho rằng chiếc tàu này đã vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó. Việc truy đuổi phải bắt đầu khi chiếc tàu nước ngoài hay một trong những chiếc xuồng của nó đang ở trong nội thủy, trong vùng nước quần đảo, trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp của quốc gia truy đuổi, và chỉ có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp với điều kiện là việc truy đuổi này không bị gián đoạn. Không nhất thiết là chiếc tàu ra lệnh cho tàu nước ngoài đang đi trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp dừng lại cũng phải có mặt tại các vùng biển ấy khi mà chiếc tàu nước ngoài này nhận được lệnh. Nếu chiếc tàu nước ngoài ở trong vùng tiếp giáp, được quy định ở Điều 33, việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu nếu tàu đó đã vi phạm các quyền, mà việc thiết lập vùng tiếp giáp có nhiệm vụ bảo vệ.
2. Quyền truy đuổi được áp dụng matatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với những hành động vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có thể áp dụng, theo đúng Công ước, cho vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, kể cả các vùng an toàn bao quanh các thiết bị ở thềm lục địa, nếu các vi phạm này đã xảy ra trong các vùng nói trên.
3. Quyền truy đuổi chấm dứt khi chiếc tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền hay của một quốc gia khác.
4. Việc truy đuổi chi được coi như bắt đầu, nếu chiếc tàu truy đuổi bằng các phương tiện có thể sử dụng được mà mình có, biết một cách chắc chắn là chiếc tàu bị đuổi, hay một những trong chiếc xuồng của nó hoặc các phương tiện đi biển khác hoạt động thành tốp và dùng chiếc tàu bị truy đuổi làm chiếc tàu mẹ, đang ở bên trong ranh giới của lãnh hải, hay tùy theo trường hợp đang ở trong vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế hay ở trên thềm lục địa. Việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu sau khi đã phát tín hiệu nhìn hoặc nghe bắt nó dừng lại, ở một cự ly cần thiết để chiếc tàu nói trên nhận biết được.
5. Quyền truy đuổi chỉ có thể được thực hiện bởi các tàu chiến hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu hay phương tiện bay khác có mang các dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ rang rằng, các tàu hay phương tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép làm nhiệm vụ này.
6. Trong trường hợp mà chiếc tàu bị một phương tiện bay truy đuổi:
a) Các khoản 1 đến 4 được áp dụng mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết và chi tiết);
b) Phương tiện bay nào phát lệnh dừng lại phải tự mình truy đuổi chiếc tàu cho đến lúc một chiếc tàu hay phương tiện bay khác của quốc gia ven biển; sau khi được phương tiện bay nói trên thông báo, đã đến những vị trí để tiếp tục cuộc truy đuổi nếu như phương tiện đầu tiên không thể tự mình giữ được chiếc tàu. Để chứng minh cho việc bắt một chiếc tàu dừng lại ở ngoài lãnh hải là đúng, thì riêng việc phát hiện chiếc tàu này đã vi phạm hay bị nghi ngờ là vị phạm là chưa đủ, mà còn phải xác định đồng thời xem nó có bị phương tiện bay hay tàu khác yêu cầu dừng lại và việc truy đuổi này phải không hề bị gián đoạn.
3. Nếu việc nghi ngờ xét ra không có cơ sở thì chiếc tàu bị khám xét được bồi thường về mọi tổn thất hay thiệt hại xảy ra, với điều kiện là chiếc tàu này không phạm một hành động nào làm cho nó bị tình nghi.
4. Các điều quy định này được áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với các phương tiện bay quân sự.
5. Các điều quy định này cũng được áp dụng đối với tất cả các tàu thuyền hay phương tiện bay khác đã được phép một cách hợp lệ và mang những dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ rằng chúng được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước.
ĐIỀU 111. Quyền truy đuổi
1. Việc truy đuổi một tàu nước ngoài có thể được tiến hành nếu những nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia ven biển có những lý do đúng đắn để cho rằng chiếc tàu này đã vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó. Việc truy đuổi phải bắt đầu khi chiếc tàu nước ngoài hay một trong những chiếc xuồng của nó đang ở trong nội thủy, trong vùng nước quần đảo, trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp của quốc gia truy đuổi, và chỉ có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp với điều kiện là việc truy đuổi này không bị gián đoạn. Không nhất thiết là chiếc tàu ra lệnh cho tàu nước ngoài đang đi trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp dừng lại cũng phải có mặt tại các vùng biển ấy khi mà chiếc tàu nước ngoài này nhận được lệnh. Nếu chiếc tàu nước ngoài ở trong vùng tiếp giáp, được quy định ở Điều 33, việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu nếu tàu đó đã vi phạm các quyền, mà việc thiết lập vùng tiếp giáp có nhiệm vụ bảo vệ.
2. Quyền truy đuổi được áp dụng matatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với những hành động vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có thể áp dụng, theo đúng Công ước, cho vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, kể cả các vùng an toàn bao quanh các thiết bị ở thềm lục địa, nếu các vi phạm này đã xảy ra trong các vùng nói trên.
3. Quyền truy đuổi chấm dứt khi chiếc tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền hay của một quốc gia khác.
4. Việc truy đuổi chi được coi như bắt đầu, nếu chiếc tàu truy đuổi bằng các phương tiện có thể sử dụng được mà mình có, biết một cách chắc chắn là chiếc tàu bị đuổi, hay một những trong chiếc xuồng của nó hoặc các phương tiện đi biển khác hoạt động thành tốp và dùng chiếc tàu bị truy đuổi làm chiếc tàu mẹ, đang ở bên trong ranh giới của lãnh hải, hay tùy theo trường hợp đang ở trong vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế hay ở trên thềm lục địa. Việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu sau khi đã phát tín hiệu nhìn hoặc nghe bắt nó dừng lại, ở một cự ly cần thiết để chiếc tàu nói trên nhận biết được.
5. Quyền truy đuổi chỉ có thể được thực hiện bởi các tàu chiến hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu hay phương tiện bay khác có mang các dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ rang rằng, các tàu hay phương tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép làm nhiệm vụ này.
6. Trong trường hợp mà chiếc tàu bị một phương tiện bay truy đuổi:
a) Các khoản 1 đến 4 được áp dụng mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết và chi tiết);
b) Phương tiện bay nào phát lệnh dừng lại phải tự mình truy đuổi chiếc tàu cho đến lúc một chiếc tàu hay phương tiện bay khác của quốc gia ven biển; sau khi được phương tiện bay nói trên thông báo, đã đến những vị trí để tiếp tục cuộc truy đuổi nếu như phương tiện đầu tiên không thể tự mình giữ được chiếc tàu. Để chứng minh cho việc bắt một chiếc tàu dừng lại ở ngoài lãnh hải là đúng, thì riêng việc phát hiện chiếc tàu này đã vi phạm hay bị nghi ngờ là vị phạm là chưa đủ, mà còn phải xác định đồng thời xem nó có bị phương tiện bay hay tàu khác yêu cầu dừng lại và việc truy đuổi này phải không hề bị gián đoạn.
7. Không thể đòi hủy lệnh giữ một chiếc tàu bị bắt ở
địa điểm thuộc quyền tài phán của một quốc gia và bị dẫn độ về một cảng của
quốc gia này để cho các nhà đương cục có thẩm quền tiến hành điều tra với lý do
duy nhất là vì hoàn cảnh bắt buộc chiếc tàu đó đã đi có hộ tống qua một phần
của vùng đặc quyền về kinh tế hay của biển cả.
8. Một chiếc tàu đã bị bắt dừng lại hay bị bắt ở ngoài
lãnh hải trong những hoàn cảnh không chứng minh được cho việc sử dụng quyền
truy đuổi thì được bồi thường về mọi tổn thất hay tổn hại nếu có.
ĐIỀU 112. Quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm
1. Mọi quốc gia có quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm ở đáy biển cả bên ngoài thềm lục địa.
2. Điều 79, khoản 5, được áp dụng đối với đường dây cáp và ống dẫn ngầm này.
ĐIỀU 113. Về việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị đứt đoạn hay bị hư hỏng
ĐIỀU 112. Quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm
1. Mọi quốc gia có quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm ở đáy biển cả bên ngoài thềm lục địa.
2. Điều 79, khoản 5, được áp dụng đối với đường dây cáp và ống dẫn ngầm này.
ĐIỀU 113. Về việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị đứt đoạn hay bị hư hỏng
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết
để coi là hành động vi phạm có thể bị trừng phạt: một chiếc tàu mang cờ của
quốc gia đó hay một người thuộc quyền tài phán của quốc gia đó đã cố ý hay do
cẩu thả mà làm cho một đường dây cáp cao thế hay một đường ống dẫn ngầm ngoài
biển cả bị đứt đoạn hay hư hỏng một đường dây cáp điện báo hay điện thoại ngầm
trong chừng mực có nguy cơ làm rối loạn hay làm gián đoạn thông tin điện báo
hay điện thoại. Điều quy định này cũng áp dụng cho bất kỳ hành động nào có thể
gây nên tình trạng các đường dây cáp hay ống dẫn ngầm nói trên bị cắt đứt hoặc
hư hỏng hay cố ý nhằm gây nên tình trạng đó. Tuy nhiên, điều quy định này không
áp dụng khi việc làm đứt đoạn hay hư hỏng đường dây cáp và ống dẫn là hành động
của những người, sau khi đã thi hành tất cả các biện pháp phòng ngừa cần thiết
để tránh gây ra tình trạng đó, chỉ hành động nhằm mục đích chính đáng cứu lấy
sinh mạng hay con tàu của họ.
ĐIỀU 114. Về việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị đứt đoạn hay hư hỏng do người chủ của một dây cáp hay một ống dẫn khác gây ra
ĐIỀU 114. Về việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị đứt đoạn hay hư hỏng do người chủ của một dây cáp hay một ống dẫn khác gây ra
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết
để trong trường hợp một dây cáp hay một ống dẫn ngầm ở biển cả bị đứt đoạn hay
hư hỏng do việc đặt một dây cáp hay một ống dẫn ngầm khác của một người có
quyền tài phán của mình, người này phải chịu những phí tổn để sửa chữa những
thiệt hại mà mình gây ra.
ĐIỀU 115. Bồi thường những thiệt hại gây ra do việc tránh làm hư hỏng một dây cáp hay ống dẫn ngầm
ĐIỀU 115. Bồi thường những thiệt hại gây ra do việc tránh làm hư hỏng một dây cáp hay ống dẫn ngầm
Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết
để người chủ của con tàu nào đưa ra được chứng cứ chứng minh rằng đã chịu mất
một chiếc neo, một tấm lưới hay một phương tiện đánh bắt khác nhằm trành làm hư
hỏng một dây cáp hay một ống dẫn ngầm, thì được người người sở hữu của dây cáp
hay một ống dẫn ngầm bồi thường, với điều kiện là người chủ của con tàu đó đã
dùng mọi biện pháp đề phòng hợp lý.
Mục 2 - BẢO TỒN VÀ QUẢN LÝ CÁC TÀI NGUYÊN SINH VẬT CỦA
BIỂN CẢ
ĐIỀU 116. Quyền đánh bắt ở biển cả
Tất cả các quốc gia đều có quyền cho công dân của mình
đánh bắt ở biển cả, với điều kiện:
a) Tuân theo các nghĩa vụ ghi trong công ước;
b) Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích của các quốc gia ven biển như đã được trù định, đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2 và trong các Điều từ 64 đến 67; và
c) Tuân theo mục này
a) Tuân theo các nghĩa vụ ghi trong công ước;
b) Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích của các quốc gia ven biển như đã được trù định, đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2 và trong các Điều từ 64 đến 67; và
c) Tuân theo mục này
ĐIỀU 117. Nghĩa vụ của các quốc gia có các biện pháp
bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả đối với các công dân của mình
Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ định ra các biện pháp
có thể cần thiết để áp dụng đối với các công dân của mình nhảm bảo tồn tài
nguyên sinh vật của biển cả hoặc hợp tác với các quốc gia khác trong việc định
ra các biện pháp như vậy.
ĐIỀU 118. Sự hợp tác của các quốc gia trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển
ĐIỀU 118. Sự hợp tác của các quốc gia trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển
Các quốc gia hợp tác với nhau trong việc bảo tồn và
quản lý tài nguyên sinh vật ở biển cả. Các quốc gia có công dân khai thác tài
nguyên sinh vật khác nhau ở trong cùng một khu vực hoặc các tài nguyên sinh vật
giống nhau, thương lượng với nhau để có những biện pháp cần thiết trong việc
bảo tồn các tài nguyên đó. Nhằm mục đích đó, nếu cần, các nước này hợp tác để
lập ra các tổ chức đánh bắt phân khu vực hoặc khu vực.
ĐIỀU 119. Việc bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả
1. Khi quy định khối lượng cho phép đánh bắt và thi hành các biện pháp khác để bảo tồn các tài nguyên sinh vật ở biển cả, các quốc gia phải:
a) Dựa trên những số liệu đáng tin cậy nhất của mình, quan tâm đến việc khôi phục hay duy trì các đàn (stocks), những loài khai thách ở những mức độ đảm bảo năng suất ổn định tối đa, có chú ý tới những yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả những nhu cầu đặc biệt của những quốc gia đang phát triển và có tính đến những phương pháp đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả mọi quy phạm quốc tế tối thiểu thường được kiến nghị chung trong phạm vi phân khu vực, khu vực hay thế giới;
b) Quan tâm đến những tác động của các biện pháp này đối với những loài quần vợt với các loài bị khai thác hay phụ thuộc vào chúng, để duy trì và khôi phục các đàn (stocks) của các loài quần hợp hay phụ thuộc này ở mức độ mà việc sinh sản của chúng không có nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
ĐIỀU 119. Việc bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả
1. Khi quy định khối lượng cho phép đánh bắt và thi hành các biện pháp khác để bảo tồn các tài nguyên sinh vật ở biển cả, các quốc gia phải:
a) Dựa trên những số liệu đáng tin cậy nhất của mình, quan tâm đến việc khôi phục hay duy trì các đàn (stocks), những loài khai thách ở những mức độ đảm bảo năng suất ổn định tối đa, có chú ý tới những yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả những nhu cầu đặc biệt của những quốc gia đang phát triển và có tính đến những phương pháp đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả mọi quy phạm quốc tế tối thiểu thường được kiến nghị chung trong phạm vi phân khu vực, khu vực hay thế giới;
b) Quan tâm đến những tác động của các biện pháp này đối với những loài quần vợt với các loài bị khai thác hay phụ thuộc vào chúng, để duy trì và khôi phục các đàn (stocks) của các loài quần hợp hay phụ thuộc này ở mức độ mà việc sinh sản của chúng không có nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
2. Các thông tin khoa học sẵn có, những số liệu thống
kê liên quan đến việc đánh bắt và đến khả năng của nghề cá và các dữ kiện khác
liên quan đến việc bảo tồn và các đàn cá được phổ biến và trao đổi đều đặn qua
trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền phân khu vực, khu vực hay thế
giới, và nếu được, với sự tham gia của tất cả các quốc gia hữu quan.
3. Các quốc gia hữu quan chăm lo sao cho những biện pháp bảo tồn và việc áp dụng những biện pháp đó không dẫn đến một sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với bất cứ ngư dân nào, bất kể họ là công dân của quốc gia nào.
ĐIỀU 120. Các loài có vú ở biển
3. Các quốc gia hữu quan chăm lo sao cho những biện pháp bảo tồn và việc áp dụng những biện pháp đó không dẫn đến một sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với bất cứ ngư dân nào, bất kể họ là công dân của quốc gia nào.
ĐIỀU 120. Các loài có vú ở biển
Điều 65 cũng áp dụng cho việc bảo tồn và quản lý các
loài có vú ở biển cả.
PHẦN VIII - CHẾ ĐỘ CÁC ĐẢO
ĐIỀU 121. Chế độ các đảo
1. Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc,
khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
2. Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng
tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch
định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền
khác.
3. Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người
đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh
tế và thềm lục địa.
PHẦN IX - BIỂN KÍN HAY NỬA KÍN
ĐIỀU 122. Định nghĩa
Trong Công ước, “biển kín hay nửa kín” là một vịnh, một
vũng hay một vùng biển do nhiều quốc gia bao bọc xung quanh và thông với một
biển khác hay với đại dương qua một cửa hẹp, hoặc là hoàn toàn do chủ yếu hay
các lãnh hải và các vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia tạo thành.
ĐIỀU 123. Sự hợp tác giữa các quốc gia ven biển kín
hay nửa kín
Các quốc gia ở ven bở một biển kín hay nửa kín cần hợp
tác với nhau trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ theo
Công ước. Vì mục đích này, trực tiếp hoặc qua trung gian của một tổ chức khu
vực thích hợp, các quốc gia này cố gắng:
a) Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và
khai thác các tài nguyên sinh vật của biển;
b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;
c) Phối hợp các chính sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét;
d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp dụng điều này.
b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;
c) Phối hợp các chính sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét;
d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp dụng điều này.
PHẦN X - QUYỀN CỦA CÁC QUỐC GIA KHÔNG CÓ BIỂN ĐI RA
BIỂN VÀ TỪ BIỂN VÀO, VÀ TỰ DO QUÁ CẢNH
ĐIỀU 124. Sử dụng các thuật ngữ
1. Trong Công ước:
a) “Quốc gia không có biển” (Etat sans littoral) có
nghĩa là mọi quốc gia không có bờ biển;
b) “Quốc gia quá cảnh” (Etat de transit) là mọi quốc gia có hay không có bờ biển, ở giữa một quốc gia không có bờ biển và biển, việc vận chuyển quá cảnh phải đi qua quốc gia đó;
c) “Vận chuyển quá cảnh” (trafic en transit) là việc quá cảnh người, hàng hóa, của cải và các phương tiện vận tải qua lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia quá cảnh, khi quãng đường ở trên lãnh thổ này, dù có hoặc không có việc chuyển tải, việc lưu kho, việc chở hàng bị ngắt quãng hay việc thay đổi phương thức vận chuyển, chỉ là một phần của một chuyến đi hoàn chỉnh hay bắt đầu kết thúc trên lãnh thổ của quốc gia không có bờ biển;
d) “Phương tiện vận chuyển” (moyens de transport) là:
i. Phương tiện chạy trên đường sắt, tàu đi biển, tàu chạy trên hồ, trên sông và các xe cộ trên đường bộ;
ii. Khi các điều kiện địa phương bắt buộc, là những người khuân vác hoặc súc vật kéo.
b) “Quốc gia quá cảnh” (Etat de transit) là mọi quốc gia có hay không có bờ biển, ở giữa một quốc gia không có bờ biển và biển, việc vận chuyển quá cảnh phải đi qua quốc gia đó;
c) “Vận chuyển quá cảnh” (trafic en transit) là việc quá cảnh người, hàng hóa, của cải và các phương tiện vận tải qua lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia quá cảnh, khi quãng đường ở trên lãnh thổ này, dù có hoặc không có việc chuyển tải, việc lưu kho, việc chở hàng bị ngắt quãng hay việc thay đổi phương thức vận chuyển, chỉ là một phần của một chuyến đi hoàn chỉnh hay bắt đầu kết thúc trên lãnh thổ của quốc gia không có bờ biển;
d) “Phương tiện vận chuyển” (moyens de transport) là:
i. Phương tiện chạy trên đường sắt, tàu đi biển, tàu chạy trên hồ, trên sông và các xe cộ trên đường bộ;
ii. Khi các điều kiện địa phương bắt buộc, là những người khuân vác hoặc súc vật kéo.
2. Các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh
có thể thỏa thuận xếp vào các phương tiện vận chuyển các ống dẫn và ống dẫn khí
đốt và các phương tiện khác ngoài các phương tiện đã nêu ở khoản 1.
ĐIỀU 125. Quyền đi ra biển và từ biển vào, và tự do
quá cảnh
1. Các quốc gia không có biển có quyền đi ra biển và
từ biển vào để sử dụng các quyền được trù định trong Công ước, kể cả các quyền
liên quan đến tự do trên biển cả và liên quan đến di sản chung của loài người.
Vì mục đích ấy, các quốc gia đó được hưởng tự do quá cảnh qua lãnh thổ của các
quốc gia quá cảnh bằng mọi phương tiện vận chuyển.
2. Các điều kiện và thể thức sử dụng quyền tự do quá
cảnh được thỏa thuận giữa các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh
hữu quan qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực.
3. Trong việc sử dụng chủ quyền toàn vẹn trên lãnh thổ
của mình, các quốc gia quá cảnh có quyền ra tất cả mọi biện pháp cần thiết để
đảm bảo rằng, các quyền và các điều kiện thuận lợi được quy định trong phần này
vì lợi ích của quốc gia không có biển, không hề đụng chạm đến lợi ích chính
đáng của quốc gia quá cảnh.
ĐIỀU 126. Loại trừ việc áp dụng điều khoản tối huệ
quốc
Các quy định của Công ước cũng như các điều ước đặc
biệt liên quan đến việc sử dụng quyền ra biển và đi từ biển vào trù định các
quyền và các điều kiện thuận lợi cho các quốc gia không có biển do vị trí địa
lý đặc biệt của quốc gia đó, bị loại trừ khỏi việc áp dụng điều khoản tối huệ quốc.
ĐIỀU 127. Các thuế quan, thuế và các khoản lệ phí khác
1. Việc vận chuyển quá cảnh không phải nộp thuế quan,
thuế hay mọi khoản lệ phí khác, ngoài các khoản thuế trả cho các dịch vụ đặc
biệt liên quan đến việc vận chuyển đó.
2. Các phương tiện vận chuyển quá cảnh và các điều
kiện thuận lợi khác cho việc quá cảnh dành cho quốc gia không có biển và được
quốc gia này sử dụng, không phải chịu các thứ thuế hay các khoản lệ phí cao hơn
các khoản phải trả cho việc sử dụng các phương tiện vận chuyển của quốc gia quá
cảnh.
ĐIỀU 128. Vùng miễn thuế và các điều kiện thuận lợi
khác về hải quan
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quá cảnh, vùng
miễn thuế hay các điều kiện hải quan thuận lợi khác có thể trù định ở cảng vào
và cảng ra của các quốc gia quá cảnh, qua con đường thỏa thuận giữa quốc gia
này và các quốc gia không có biển.
ĐIỀU 129. Sự hợp tác trong việc đóng và cải tiến các
phương tiện vận chuyển
Khi trong các quốc gia quá cảnh không có các phương
tiện vận chuyển cho phép sử dụng thật sự quyền tự do quá cảnh, hoặc khi các
phương tiện hiện có, kể cả các trang thiết bị cảng, không thích đáng về bất cứ
một phương diện nào, quốc gia quá cảnh và quốc gia không có biển hữu quan có
thể hợp tác để đóng hay cải tiến các phương tiện hiện có.
ĐIỀU 130. Các biện pháp nhằm tránh tình trạng chậm trễ
hay những khó khăn có tính chất kỹ thuật trong việc vận chuyển quá cảnh, hay
nhằm để loại trừ các nguyên nhân gây ra tình trạng đó
1. Quốc gia quá cảnh thi hành mọi biện pháp thích hợp
để tránh mọi tình trạng chậm trễ hay những khó khăn có tính chất kỹ thuật trong
việc vận chuyển quá cảnh.
2. Các nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia quá
cảnh không có biển, trong trường hợp có tình trạng chậm trễ hay khó khăn, hợp
tác để nhanh chóng loại trừ các nguyên nhân của tình trạng đó.
ĐIỀU 131. Việc đối xử bình đẳng ở trong các cảng biển
Các tàu mang cờ của một quốc gia không có biển được
hưởng trong các cảng biển sự đối xử bình đẳng như các tàu nước ngoài khác.
ĐIỀU 132. Việc dành những điều kiện thuận lợi rộng rãi
hơn cho việc quá cảnh
Công ước không có hàm ý rút bớt những điều kiện thuận
lợi rộng rãi hơn những điều mà Công ước đã trù định và đã được sự thỏa thuận
giữa các quốc gia thành viên hay đã được một quốc gia thành viên chấp nhận.
Công ước cũng tuyệt đối không cấm các quốc gia thành viên trong tương lai dành
những điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn.
PHẦN XI - VÙNG
Mục 1 - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 133. Sử dụng các thuật ngữ
Trong phần này:
a) “Tài nguyên” (ressources) là tất
cả các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí in situ (ở ngay tại chỗ)
trong Vùng, nằm ở đáy biển hay lòng đất dưới đáy biển này, kể cả các khối đá
kim (nodules polymétalliques);
b) Các tài nguyên, một khi đã được khai thác từ Vùng, được gọi là “các khoáng sản” (minéraux)
b) Các tài nguyên, một khi đã được khai thác từ Vùng, được gọi là “các khoáng sản” (minéraux)
ĐIỀU 134. Phạm vi áp dụng của phần
này
1. Phần này được áp dụng đối với
Vùng
2. Các hoạt động tiến hành trong
Vùng do phần này điều chỉnh.
3. Việc gửi lưu chiểu các bản đồ hay
bản kê các tọa độ địa lý xác định vị trí các ranh giới nêu ở Điều 1, khoản 1,
cũng như việc công bố các bản đồ hay bản kê tọa độ đó, do phần VI điều chỉnh.
4. Không một điều nào của quy định
này đụng chạm đến việc xác đinh ranh giới ngoài của thềm lục địa theo đúng phần
VI hay đến hiệu lực của các điều ước liên quan đến việc hoạch định ranh giới
giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau.
ĐIỀU 135. Chế độ pháp lý của vùng
nước và vùng trời nói trên
Phần này cũng như các quyền được
hưởng hay được thực hiện theo phần này không ảnh hưởng đến chế độ pháp lý của
vùng nước ở phía trên Vùng hay đến chế độ pháp lý của vùng trời ở phía trên
vùng nước này.
Mục 2 - CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ VÙNG
ĐIỀU 136. Di sản chung của loài
người
Vùng và tài nguyên của nó là di sản
chung của loài người.
ĐIỀU 137. Chế độ pháp lý của Vùng và các tài nguyên của nó
ĐIỀU 137. Chế độ pháp lý của Vùng và các tài nguyên của nó
1. Không một quốc gia nào có thể đòi
hỏi thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của
Vùng hoặc đối với tài nguyên của Vùng; không một quốc gia nào và không một tự
nhiên nhân hay pháp nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng
hoặc tài nguyên của Vùng. Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay
các quyền thuộc quyền chủ quyền này cũng như một hành động chiếm đoạt nào được
thừa nhận.
2. Toàn thể loài người, mà Cơ quan
quyền lực là người thay mặt có tất cả các quyền đối với các tài nguyên của
Vùng. Những tài nguyên này không thể chuyển nhượng được. Còn các khoáng sản đã
được khai thác từ Vùng thì chỉ có thể chuyển nhượng theo đúng phần này và phù
hợp với các nguyên tắc, quy định và các thủ tục của Cơ quan quyền lực.
3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, giành lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các khoáng sản đã được khai thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền đã đòi hỏi, giành được hay được thực hiện bằng cách khác đều không được thừa nhận.
3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, giành lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các khoáng sản đã được khai thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền đã đòi hỏi, giành được hay được thực hiện bằng cách khác đều không được thừa nhận.
ĐIỀU 138. Cách xử sự chung của các
quốc gia liên quan đến Vùng
Trong cách xử sự chung liên quan đến
Vùng, các quốc gia tuân theo phần này, các nguyên tắc được nêu trong Hiến
chương Liên Hợp quốc và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, với sự quan tâm
giữ gìn hòa bình và an ninh, đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau.
ĐIỀU 139. Nghĩa vụ chăm lo đến việc
tôn trọng Công ước và trách nhiệm trong trường hợp có thiệt hại
1. Các quốc gia thành viên có nghĩa
vụ quan tâm đến việc bảo đảm cho các hoạt động trong Vùng, dù do bản thân các
quốc gia đó, do các xí nghiệp Nhà nước của họ hoặc do các tự nhiên nhân hay
pháp nhân mang quốc tịch của họ hoặc chịu sự kiểm soát thật sự của họ hay các
công dân của họ, được
tiến hành theo đúng với phần này. Các tổ chức quốc tế cũng có nghĩa vụ như vậy với các hoạt động trong vùng.
tiến hành theo đúng với phần này. Các tổ chức quốc tế cũng có nghĩa vụ như vậy với các hoạt động trong vùng.
2. Không phương hại đến các quy tắc
của pháp luật quốc tế và đến Điều 22 của Phụ lục III, một quốc gia thành viên
hay một tổ chức quốc tế phải chịu những trách nhiệm về các thiệt hại do một
thiếu sót của mình đối với những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo phần này;
các quốc gia thành viên hay các tổ chức quốc tế khi cùng hành động thì phải
liên đới chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, quốc gia thành viên không chịu trách
nhiệm về các thiệt hại do một thiếu sót như vậy của một người do quốc gia này
bảo trợ theo Điều 153; khoản 2, điểm b, nếu quốc gia này đã thi hành tất cả các
biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo đảm việc tôn trọng thật sự phần này của
các phụ lục có liên quan, như đã trù định trong Điều 153, khoản 4 và Điều 4
khoản 4 của Phụ lục III.
3. Các quốc gia thành viên là hội
viên của các tổ chức quốc tế cần thi hành những biện pháp thích hợp để bảo đảm
việc áp dụng điều này đối với các tổ chức đó.
ĐIỀU 140. Lợi ích của loài người
1. Các hoạt động trong vùng được
tiến hành, như đã được ghi nhận rõ ràng trong phần này, là vì lợi ích của toàn
thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí của các quốc gia, dù là quốc gia có
biển hay không có biển, và có lưu ý đặc biệt đến các lợi ích và nhu cầu của
quốc gia đang phát triển và của các dân tộc chưa giành được nền độc lập đầy đủ
hay một chế độ tự trị khác được Liên hợp quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết
1514 (XV) và các nghị quyết tương ứng khác của Đại hội đồng. \
2. Cơ quan quyền lực bảo đảm việc
phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính
và các lợi ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng qua một bộ
máy thích hợp theo đúng Điều 160 khoản 2, điểm f, điểm nhỏ i, đem lại.
ĐIỀU 141. Sử dụng vùng vào những mục
đích hoàn toàn hòa bình
Vùng để ngỏ cho tất cả các quốc gia,
dù quốc gia có biển hay không có biển, sử dụng vào những mục đích hoàn toàn hòa
bình, không phân biệt đối xử và không phương hại đến các điều quy định khác của
phần này.
ĐIỀU 142. Các quyền và lợi ích chính
đáng của các quốc gia ven biển
1. Trong trường hợp các vỉa tài
nguyên của Vùng trải rộng ra ngoài ranh giới của Vùng, thì những hoạt động tiến
hành trong Vùng cũng được mở rộng như thế, nhưng phải tính đến các quyền và lợi
ích chính đáng của quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với các vỉa tài
nguyên nói trên.
2. Một phương thức tham khảo ý kiến
với quốc gia hữu quan, và nhất là phương thức thông báo trước, đặt ra để tránh
bất kỳ sự xâm phạm nào đến các quyền và lợi ích đó. Trong những trường hợp mà
các hoạt động tiến hành trong Vùng có thể dẫn đến việc khai thác các tài nguyên
ở phía trong các ranh giới thuộc quyền tài phán quốc gia của một quốc gia ven
biển thì cần phải có sự đồng ý trước của quốc gia này.
3. Phần này cũng như các quyền được
thừa nhận hay được sử dụng theo phần này, không xâm phạm đến quyền của quốc gia
ven biển được thi hành những biện pháp phù hợp với các quy định tương ứng của
phần XII có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế hay loại bỏ một mối nguy hiểm
nghiêm trọng và sắp xảy ra đối với vùng duyên hải của họ hoặc đối với các lợi
ích có liên quan do một tình trạng ô nhiễm hay một sự đe dọa ô nhiễm nảy sinh
từ tất cả các hoạt động tiến hành trong Vùng hay do tất cả các tai nạn khác gây
ra bởi các hoạt động đó.
ĐIỀU 143. Việc nghiên cứu khoa học
biển
1. Việc nghiên cứu khoa học biển
trong Vùng được tiến hành nhằm những mục đích hoàn toàn hòa bình và vì lợi ích
của toàn thể loài người theo đúng phần XIII.
2. Cơ quan quyền lực có thể thực
hiện các công trình nghiên cứu khoa học biển đối với Vùng và các tài nguyên của
Vùng và có thể ký các hợp đồng nhằm mục đích này. Cơ quan quyền lực tạo điều
kiện thuận lợi, khuyến khích việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng; phối
hợp, phổ biến các kết quả của các công trình nghiên cứu và phân tích đó khi
chúng sẵn sàng sử dụng được.
3. Các quốc gia thành viên có thể
tiến hành các công trình nghiên cứu khoa học biển trong Vùng. Các quốc gia này
tạo điều kiện dễ dàng cho việc hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học biển
trong vùng, bằng cách:
a) Tham gia các chương trình quốc tế
và khuyến khích việc hợp tác về nghiên cứu khoa học biển do nhân viên của các
nước và nhân viên của Cơ quan quyền lực thực hiện;
b) Quan tâm đến việc các chương trình, được soạn thảo qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay tùy theo tình hình, qua trung gian của các tổ chức quốc tế khác, vì lợi ích của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia kém phát triển về mặt kỹ thuật, nhằm:
i. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu của họ;
ii. Đào tạo nhân viên của quốc gia đó và nhân viên của Cơ quan quyền lực về kỹ thuật và về ứng dụng công trình nghiên cứu tiến hành trong Vùng;
c) Phổ biến một cách có hiệu quả các kết quả nghiên cứu và phân tích, khi các kết quả này có thể sử dụng được, qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay nếu có thể, qua các bộ máy quốc tế khác.
b) Quan tâm đến việc các chương trình, được soạn thảo qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay tùy theo tình hình, qua trung gian của các tổ chức quốc tế khác, vì lợi ích của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia kém phát triển về mặt kỹ thuật, nhằm:
i. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu của họ;
ii. Đào tạo nhân viên của quốc gia đó và nhân viên của Cơ quan quyền lực về kỹ thuật và về ứng dụng công trình nghiên cứu tiến hành trong Vùng;
c) Phổ biến một cách có hiệu quả các kết quả nghiên cứu và phân tích, khi các kết quả này có thể sử dụng được, qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay nếu có thể, qua các bộ máy quốc tế khác.
ĐIỀU 144. Chuyển giao kỹ thuật.
1. Theo đúng Công ước, Cơ quan quyền
lực thi hành các biện pháp để:
a) Nắm được những kỹ thuật và kiến thức khoa học liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng; và
b) Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích việc chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển các kỹ thuật và kiến thức khoa học nói trên, sao cho mọi quốc gia thành viên đều được hưởng.
a) Nắm được những kỹ thuật và kiến thức khoa học liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng; và
b) Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích việc chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển các kỹ thuật và kiến thức khoa học nói trên, sao cho mọi quốc gia thành viên đều được hưởng.
2. Vì mục đích này, Cơ quan quyền
lực và các quốc gia thành viên hợp tác để thúc đẩy việc chuyển giao kỹ thuật và
các kiến thức khoa học liên quan đến những hoạt động tiến hành trong Vùng sao
cho Xí nghiệp và tất cả các quốc gia thành viên đều có thể được hưởng. Đặc
biệt, Cơ quan quyền lực và các quốc gia thành viên đề xuất hoặc khuyến khích:
a) Các chương trình để chuyển giao
cho Xí nghiệp và cho các quốc gia đang phát triển các kỹ thuật liên quan đến
các hoạt động tiến hành trong Vùng, nhất là trù định cho Xí nghiệp và các quốc
gia đang phát triển, những điều kiện thuận lợi để nắm được các kỹ thuật thích
hợp theo những thể thức và các điều kiện công bằng hợp lý;
b) Những biện pháp nhằm bảo đảm sự tiến bộ về kỹ thuật của Xí nghiệp và những kỹ thuật trong nước của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là tạo điều kiện cho nhân viên của Xí nghiệp và của các quốc gia này được đào tạo về khoa học và kỹ thuật biển, cũng như được tham gia đầy đủ vào các hoạt động tiến hành trong vùng.
b) Những biện pháp nhằm bảo đảm sự tiến bộ về kỹ thuật của Xí nghiệp và những kỹ thuật trong nước của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là tạo điều kiện cho nhân viên của Xí nghiệp và của các quốc gia này được đào tạo về khoa học và kỹ thuật biển, cũng như được tham gia đầy đủ vào các hoạt động tiến hành trong vùng.
ĐIỀU 145. Bảo vệ môi trường biển
Đối với các hoạt động tiến hành
trong Vùng, các biện pháp cần thiết phải được thi hành theo đúng Công ước để
bảo vệ có hiệu quả môi trường biển chống lại những tác hại có thể do các hoạt
động đó gây ra. Vì mục đích đó, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định
và thủ tục thích hợp, đặc biệt nhằm để:
a) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn
ô nhiễm môi trường biển, kể cả vùng duyên hải và đối phó với những nguy cơ khác
đe dọa môi trường đó,
cũng như với bất kỳ sự biến động nào về tình trạng cân bằng sinh thái của môi trường biển, bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự cần thiết phải bảo vệ môi trường chống lại những tác hại của những hoạt động như khoan, nạo vét, đào, loại bỏ các chất thải, xây dựng và khai thác hay bảo dưỡng các thiết bị, ống dẫn và các phương tiện khác được sử dụng vào các hoạt động này;
b) Bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng và phòng ngừa thiệt hại đối với hệ thực vật và động vật ở biển.
cũng như với bất kỳ sự biến động nào về tình trạng cân bằng sinh thái của môi trường biển, bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự cần thiết phải bảo vệ môi trường chống lại những tác hại của những hoạt động như khoan, nạo vét, đào, loại bỏ các chất thải, xây dựng và khai thác hay bảo dưỡng các thiết bị, ống dẫn và các phương tiện khác được sử dụng vào các hoạt động này;
b) Bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng và phòng ngừa thiệt hại đối với hệ thực vật và động vật ở biển.
ĐIỀU 146. Bảo vệ sự sống của con
người
Đối với các hoạt động tiến hành
trong Vùng, những biện pháp cần thiết phải được thi hành để bảo đảm việc bảo vệ
có hiệu quả sự sống của con người. Vì mục đích ấy, Cơ quan quyền lực định ra
các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp để bổ sung cho pháp luật quốc tế
hiện tại như đã ghi trong các hiệp ước về vấn đề này.
ĐIỀU 147. Sự phù hợp của các biện
pháp được tiến hành ở trong Vùng và các hoạt động khác đang thực hiện trong môi
trường biển
1. Các hoạt động được tiến hành
trong Vùng cần phải được quan tâm một cách hợp lý đến các hoạt động khác đang
được thực hiện trong môi trường biển.
2. Các điều kiện sau đây được áp
dụng cho các thiết bị được sử dụng cho các hoạt động tiến hành trong Vùng:
a) Các thiết bị này chỉ được xây
lắp, bố trí và tháo gỡ theo đúng với phần này và trong các điều kiện do các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực đề ra. Việc xây lắp, bố trí và
tháo gỡ chúng phải được thông báo đúng thủ tục và cần phải duy trì các phương
tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của các thiết bị đó;
b) Các thiết bị này không được đặt ở các vị trí có thể gây trở ngại cho việc sử dụng các đường giao thông được thừa nhận là thiết yếu đối với hàng hải quốc tế, cũng không được đặt trong các vùng mật độ đánh cá tập trung;
c) Các thiết bị này được các vùng an toàn bao quanh; các vùng an toàn này được đánh dấu một cách thích hợp để bảo đảm an toàn cho bản thân và các thiết bị đó và cho hàng hải. Hình thể và vị trí của các Vùng an toàn này được xác định sao cho chúng không tạo thành một vành đai cản trở các tàu thuyền đi đến một số Vùng biển nào đó một cách hợp pháp, hay cản trở giao thông trên các đường hàng hải quốc tế;
d) Các thiết bị này được dùng vào những mục đích hoàn hòa bình;
e) Các thiết bị này không có quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng; sự có mặt của chúng không ảnh hưởng đến việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
3. Các hoạt động khác diễn ra trong môi trường biển được tiến hành với sự chú ý đúng mức đến các hoạt động được tiến hành trong Vùng.
b) Các thiết bị này không được đặt ở các vị trí có thể gây trở ngại cho việc sử dụng các đường giao thông được thừa nhận là thiết yếu đối với hàng hải quốc tế, cũng không được đặt trong các vùng mật độ đánh cá tập trung;
c) Các thiết bị này được các vùng an toàn bao quanh; các vùng an toàn này được đánh dấu một cách thích hợp để bảo đảm an toàn cho bản thân và các thiết bị đó và cho hàng hải. Hình thể và vị trí của các Vùng an toàn này được xác định sao cho chúng không tạo thành một vành đai cản trở các tàu thuyền đi đến một số Vùng biển nào đó một cách hợp pháp, hay cản trở giao thông trên các đường hàng hải quốc tế;
d) Các thiết bị này được dùng vào những mục đích hoàn hòa bình;
e) Các thiết bị này không có quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng; sự có mặt của chúng không ảnh hưởng đến việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa.
3. Các hoạt động khác diễn ra trong môi trường biển được tiến hành với sự chú ý đúng mức đến các hoạt động được tiến hành trong Vùng.
ĐIỀU 148. Sự tham gia của các quốc
gia đang phát triển vào các hoạt động tiến hành trong Vùng
Việc tham gia của các quốc gia đang
phát triển vào các hoạt động tiến hành trong Vùng được khuyến khích, như đã
được trù định rõ ràng trong phần này, với sự chú ý thích đáng đến các nhu cầu
và lợi ích đặc biệt của các quốc gia này, và nhất là nhu cầu đặc biệt của các
quốc gia đang phát triển không có biển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, cần
vượt qua những trở ngại do vị trí bất lợi của họ gây ra, đặc biệt là vì họ ở xa
Vùng và việc họ đến Vùng và rời khỏi Vùng đều khó khăn.
ĐIỀU 149. Các di vật khảo cổ và lịch
sử
Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch
sử tìm thấy ở trong Vùng, đều được bảo tồn hay nhượng lại, vì lợi ích của toàn
thể loài người, đặc biệt quan tâm đến các quyền ưu tiên của quốc gia hay của
nơi xuất xứ hoặc của quốc gia xuất xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ
về lịch sử hay khảo cổ.
Mục 3 - KHAI THÁC CÁC TÀI NGUYÊN CỦA
VÙNG
ĐIỀU 150. Chính sách chung liên quan
đến các hoạt động tiến hành trong Vùng
Các hoạt động tiến hành trong Vùng,
như đã được trù định rõ ràng trong phần này, phải làm sao tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển hài hòa nền kinh tế thế giới và sự mở rộng một cách cân
đối nền thương mại quốc tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế vì sự phát triển toàn diện
của tất cả các quốc gia, và đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và nhằm:
a) Khai thác các tài nguyên của
Vùng;
b) Quản lý một cách có phương pháp, chắc chắn và hợp lý các tài nguyên của Vùng, đặc biệt quan tâm làm sao cho các hoạt động tiến hành
trong Vùng có hiệu quả, tránh bất kỳ sự lãng phí nào, theo đúng những nguyên tắc đúng đắn về bảo tồn.
c) Tăng cường các khả năng tham gia vào các hoạt động này, đặc biệt là phù hợp với Điều 144 và Điều 148;
d) Bảo đảm cho Cơ quan quyền lực được dự phần vào các thu nhập và việc chuyển giao kỹ thuật cho Xí nghiệp và cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Công ước;
e) Tùy theo nhu cầu, tăng thêm số lượng khoáng sản khai thác từ Vùng để cùng với các khoáng sản khai thác từ nguồn khác, bảo đảm cung cấp cho người tiêu thụ các khoáng sản này;
f) Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành giá cả đúng và ổn định đối với các khoáng sản được khai thác từ Vùng, cũng như các khoáng sản từ các nguồn khác, có lợi cho người sản xuất và đúng mức cho người tiêu thụ, bảo đảm sự cân bằng lâu dài giữa cung và cầu;
g) Tạo cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể chế độ xã hội và kinh tế hay địa lý của họ như thế nào, có những khả năng to lớn hơn trong việc tham gia khai thác các tài nguyên của Vùng, và ngăn cản việc độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng;
h) Bảo vệ các quốc gia đang phát triển, theo đúng Điều 151, khỏi những ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hay thu nhập về xuất khẩu của họ do việc hạ giá của một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác trong Vùng hay do sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này, trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm bớt đó do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra;
i) Khai thác di sản chung vì lợi ích của toàn thể loài người;
j) Làm sao cho những điều kiện tiếp xúc với các thị trường để nhập khẩu các khoáng sản khai thác từ Vùng và nhập khẩu những sản phẩm đầu tiên được rút ra từ những khoáng sản này, không thuận lợi hơn những điều kiện thuận lợi nhất áp dụng cho việc nhập khẩu các khoáng sản và các sản phẩm đầu tiên khai thác được từ các nguồn khác.
b) Quản lý một cách có phương pháp, chắc chắn và hợp lý các tài nguyên của Vùng, đặc biệt quan tâm làm sao cho các hoạt động tiến hành
trong Vùng có hiệu quả, tránh bất kỳ sự lãng phí nào, theo đúng những nguyên tắc đúng đắn về bảo tồn.
c) Tăng cường các khả năng tham gia vào các hoạt động này, đặc biệt là phù hợp với Điều 144 và Điều 148;
d) Bảo đảm cho Cơ quan quyền lực được dự phần vào các thu nhập và việc chuyển giao kỹ thuật cho Xí nghiệp và cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Công ước;
e) Tùy theo nhu cầu, tăng thêm số lượng khoáng sản khai thác từ Vùng để cùng với các khoáng sản khai thác từ nguồn khác, bảo đảm cung cấp cho người tiêu thụ các khoáng sản này;
f) Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành giá cả đúng và ổn định đối với các khoáng sản được khai thác từ Vùng, cũng như các khoáng sản từ các nguồn khác, có lợi cho người sản xuất và đúng mức cho người tiêu thụ, bảo đảm sự cân bằng lâu dài giữa cung và cầu;
g) Tạo cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể chế độ xã hội và kinh tế hay địa lý của họ như thế nào, có những khả năng to lớn hơn trong việc tham gia khai thác các tài nguyên của Vùng, và ngăn cản việc độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng;
h) Bảo vệ các quốc gia đang phát triển, theo đúng Điều 151, khỏi những ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hay thu nhập về xuất khẩu của họ do việc hạ giá của một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác trong Vùng hay do sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này, trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm bớt đó do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra;
i) Khai thác di sản chung vì lợi ích của toàn thể loài người;
j) Làm sao cho những điều kiện tiếp xúc với các thị trường để nhập khẩu các khoáng sản khai thác từ Vùng và nhập khẩu những sản phẩm đầu tiên được rút ra từ những khoáng sản này, không thuận lợi hơn những điều kiện thuận lợi nhất áp dụng cho việc nhập khẩu các khoáng sản và các sản phẩm đầu tiên khai thác được từ các nguồn khác.
ĐIỀU 151. Chính sách về sản xuất
1. a) Không phương hại đến những mục
tiêu đã được nêu ở Điều 150 và nhằm áp dụng điểm h) của điều đó, qua trung gian
của các cấp thẩm quyền hiện có, hay nếu cần thì, trong khuôn khổ của những dàn
xếp hay hiệp định mới với sự tham gia của tất cả các bên hữu quan, kể cả người
sản xuất và người tiêu thụ, Cơ quan quyền lực thi hành các biện pháp cần thiết
để tạo thuận lợi cho sự gia tăng, sự hoạt động có hiệu quả và sự ổn định của
các thị trường đối với những sản phẩm đầu tiên rút ra từ các khoáng sản khai
thác trong Vùng, với giá cả có lợi cho người sản xuất và đúng mức đối với người
tiêu thụ. Tất cả các quốc gia thành viên hợp tác vì mục đích này.
b) Cơ quan quyền lực có quyền tham gia vào bất kỳ hội nghị sản phẩm nào bàn về những sản phẩm đầu tiên này, và ở đó, tất cả các bên hữu quan, kể cả người sản xuất và người tiêu thụ, đều tham dự. Cơ quan quyền lực có quyền trở thành thành viên của bất kỳ sự dàn xếp hay hiệp định nào đạt được khi kết thúc những hội nghị như vậy. Đối với những vấn đề có liên quan đến việc sản xuất trong Vùng, Cơ quan quyền lực tham gia vào bất kỳ cơ quan nào được lập ra theo dàn xếp hay hiệp định đã nêu trên theo đúng các quy tắc có liên quan đến cơ quan đó.
c) Cơ quan quyền lực làm tròn các nghĩa vụ được giao phó theo các dàn xếp hay hiệp định nói ở khoản này, bảo đảm cho các dàn xếp hay hiệp định đó được áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với toàn bộ việc sản xuất các khoáng sản có liên quan trong vùng. Làm như thế, Cơ quan quyền lực hành động một cách phù hợp với các điều khoản của các hợp đồng hiện hành và các quy định của những kế hoạch làm việc của Xí nghiệp đã được chuẩn y.
b) Cơ quan quyền lực có quyền tham gia vào bất kỳ hội nghị sản phẩm nào bàn về những sản phẩm đầu tiên này, và ở đó, tất cả các bên hữu quan, kể cả người sản xuất và người tiêu thụ, đều tham dự. Cơ quan quyền lực có quyền trở thành thành viên của bất kỳ sự dàn xếp hay hiệp định nào đạt được khi kết thúc những hội nghị như vậy. Đối với những vấn đề có liên quan đến việc sản xuất trong Vùng, Cơ quan quyền lực tham gia vào bất kỳ cơ quan nào được lập ra theo dàn xếp hay hiệp định đã nêu trên theo đúng các quy tắc có liên quan đến cơ quan đó.
c) Cơ quan quyền lực làm tròn các nghĩa vụ được giao phó theo các dàn xếp hay hiệp định nói ở khoản này, bảo đảm cho các dàn xếp hay hiệp định đó được áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với toàn bộ việc sản xuất các khoáng sản có liên quan trong vùng. Làm như thế, Cơ quan quyền lực hành động một cách phù hợp với các điều khoản của các hợp đồng hiện hành và các quy định của những kế hoạch làm việc của Xí nghiệp đã được chuẩn y.
2. a) Trong giai đoạn quá độ được
định rõ ở khoản 3, việc sản xuất hàng hóa chỉ có thể bắt đầu dưới danh nghĩa
một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y, nếu người khai thác đã xin phép Cơ quan
quyền lực và đã được Cơ quan quyền lực cho phép sản xuất; Việc cho phép này
không thể xin hay cấp trước thời hạn dự kiến bắt đầu sản xuất hàng hóa theo kế
oạch làm việc quá 5 năm, trừ khi Cơ quan quyền lực quy định một thời hạn khác trong
các quy tắc, quy định và thủ tục của mình, căn cứ vào tính chất và tiến trình
thực hiện các dự án;
b) Trong đơn xin phép của mình, người khai thác ghi rõ số lượng kền hàng năm dự kiến khai thác theo kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Đơn này gồm có 1 bảng chi phí mà, sau khi nhận được giấy phép, sẽ được người khai thác thực hiện và đã được tính toán một cách hợp lý để cho phép người khai thác bắt đầu việc sản xuất hàng hóa vào thời điểm đã được dự định.
c) Để áp dụng các điểm a và b, Cơ quan quyền lực định ra các quy phạm về hiệu quả, theo đúng Điều 17 của Phụ lục III.
d) Cơ quan quyền lực cấp một giấy phép sản xuất theo số lượng được ghi rõ trong đơn yêu cầu, trừ khi tổng số lượng này và những số lượng được phép trước đây vượt quá, đối với bất cứ một năm sản xuất nào trong giai đoạn quá độ, mức cao nhất về sản lượng kền được tính toán theo đúng khoản 4 cho năm mà giấy phép được cấp;
e) Đơn xin và cấp giấy phép sản xuất trở thành bộ phận hữu cơ của kế hoạch làm việc được chuẩn y;
f) Nếu đơn xin phép của người khai thác bị từ chối theo điểm d, người này bất cứ lúc nào cũng có thể nộp đơn mới cho Cơ quan quyền lực.
b) Trong đơn xin phép của mình, người khai thác ghi rõ số lượng kền hàng năm dự kiến khai thác theo kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Đơn này gồm có 1 bảng chi phí mà, sau khi nhận được giấy phép, sẽ được người khai thác thực hiện và đã được tính toán một cách hợp lý để cho phép người khai thác bắt đầu việc sản xuất hàng hóa vào thời điểm đã được dự định.
c) Để áp dụng các điểm a và b, Cơ quan quyền lực định ra các quy phạm về hiệu quả, theo đúng Điều 17 của Phụ lục III.
d) Cơ quan quyền lực cấp một giấy phép sản xuất theo số lượng được ghi rõ trong đơn yêu cầu, trừ khi tổng số lượng này và những số lượng được phép trước đây vượt quá, đối với bất cứ một năm sản xuất nào trong giai đoạn quá độ, mức cao nhất về sản lượng kền được tính toán theo đúng khoản 4 cho năm mà giấy phép được cấp;
e) Đơn xin và cấp giấy phép sản xuất trở thành bộ phận hữu cơ của kế hoạch làm việc được chuẩn y;
f) Nếu đơn xin phép của người khai thác bị từ chối theo điểm d, người này bất cứ lúc nào cũng có thể nộp đơn mới cho Cơ quan quyền lực.
3. Giai đoạn quá độ bắt đầu 5 năm
trước ngày mùng 1 tháng Giêng của năm dự tính bắt đầu việc sản xuất hàng hóa
đầu tiên với danh nghĩa của một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Trong trường
hợp việc bắt đầu sản xuất hàng hóa bị hoãn đến một năm nào đó sau năm đã dự
kiến thì thời điểm bắt đầu của giai đoạn quá độ và mức tối đa của sản lượng
tính toán ban đầu được điều chỉnh lại cho phù hợp. Giai đoạn quá độ kết thúc
sau 25 năm, hoặc cho đến khi kết thúc Hội nghị xét duyệt lại được nêu ở Điều
155, hay cho đến ngày mà các thỏa thuận hay hiệp định mới đề cập ở khoản 1 có
hiệu lực, thời hạn nào gần nhất thì được sử dụng, nếu các thỏa thuận hay hiệp
định đó đã trở nên hết hiệu lực hay không còn tác dụng vì một lý do nào đó, thì
những quyền được trù định trong điều này đối với phần còn lại của giai đoạn quá
độ được trao lại cho Cơ quan quyền lực.
4. a) Mức sản xuất tối đa có hiệu
lực cho bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ có được do tổng của:
i. Số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên và giá trị của đường biểu diễn đó cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ, các giá trị đó được tính theo đúng điểm b; và
ii. 60% số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho năm xin cấp giấy phép sản xuất và giá trị của đường biểu diễn này cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên; những giá trị này được tính toán theo đúng điểm h.
b) Trong điểm a này:
i. Những giá trị của đường biểu diễn xu hướng được sử dụng để tính toán mức sản lượng kền tối đa là những giá trị tiêu thụ kền hàng năm thể hiện trên một đường biểu diễn xu hướng độc lập nên trong năm cấp giấy phép sản xuất. Đường biểu diễn đó được lập ra theo phép hồi quy tuyến tính lô-ga-rít các số liệu vầ mức tiêu thụ kền thực sự hàng năm tương ứng với giai đoạn 15 năm gần nhất mà người ta có các số liệu, thời gian được coi là biến số thiên độc lập. Đường biểu diễn xu hướng này được gọi là đường biểu diễn xu hướng ban đầu;
ii. Nếu tỷ suất tăng hàng năm được thể hiện trên đường biểu diễn xu hướng dưới 30% để xác định các số lượng đã nói ở điểm a, người ta thay đường biểu diễn này bằng một đường biểu diễn xu hướng lập ra sao cho nó cắt đường biểu diễn xu hướng ban đầu ở điểm biểu thị giá trị tiêu thụ cho năm đầu của thời kỳ 15 năm được xem xét, và để cho độ dốc của nó phù hợp với một sự gia tăng hàng năm là 3%. Tuy nhiên, sản lượng tối đa được quy định cho một năm nào đó của giai đoạn quá độ trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể vượt quá số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng ban đầu cho năm xem xét đó và giá trị của đường biểu diễn này cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ.
i. Số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên và giá trị của đường biểu diễn đó cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ, các giá trị đó được tính theo đúng điểm b; và
ii. 60% số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền cho năm xin cấp giấy phép sản xuất và giá trị của đường biểu diễn này cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên; những giá trị này được tính toán theo đúng điểm h.
b) Trong điểm a này:
i. Những giá trị của đường biểu diễn xu hướng được sử dụng để tính toán mức sản lượng kền tối đa là những giá trị tiêu thụ kền hàng năm thể hiện trên một đường biểu diễn xu hướng độc lập nên trong năm cấp giấy phép sản xuất. Đường biểu diễn đó được lập ra theo phép hồi quy tuyến tính lô-ga-rít các số liệu vầ mức tiêu thụ kền thực sự hàng năm tương ứng với giai đoạn 15 năm gần nhất mà người ta có các số liệu, thời gian được coi là biến số thiên độc lập. Đường biểu diễn xu hướng này được gọi là đường biểu diễn xu hướng ban đầu;
ii. Nếu tỷ suất tăng hàng năm được thể hiện trên đường biểu diễn xu hướng dưới 30% để xác định các số lượng đã nói ở điểm a, người ta thay đường biểu diễn này bằng một đường biểu diễn xu hướng lập ra sao cho nó cắt đường biểu diễn xu hướng ban đầu ở điểm biểu thị giá trị tiêu thụ cho năm đầu của thời kỳ 15 năm được xem xét, và để cho độ dốc của nó phù hợp với một sự gia tăng hàng năm là 3%. Tuy nhiên, sản lượng tối đa được quy định cho một năm nào đó của giai đoạn quá độ trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể vượt quá số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng ban đầu cho năm xem xét đó và giá trị của đường biểu diễn này cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ.
5. Đối với mức sản xuất ban đầu của
Xí nghiệp, Cơ quan quyền lực dành cho Xí nghiệp một số lượng 38.000 tấn kền
trên số lượng được ấn định là sản lượng tối đa theo đúng khoản 4;
6. a) Trong một năm nào đó, một
người khai thác có thể sản xuất dưới mức sản xuất hàng năm các khoáng sản lấy
từ các khối đa kim đã ghi trong giấy phép sản xuất của mình hoặc vượt qua mức
đó, tối đa là 8%, miễn là tổng sản lượng không vượt quá sản lượng ghi trong
giấy phép. Bất kỳ sự vượt quá nào trong khoảng từ 8% đến 20% đối với một năm
nào đó hay bất kỳ sự vượt quá nào đối với một năm tiếp theo 2 năm liên tiếp
trong đó mức sản xuất ấn định bị vượt, đều phải thương lượng với Cơ quan quyền
lực; Cơ quan quyền lực có thể đòi người khai thác phải xin một giấy phép sản
xuất bổ sung.
b) Cơ quan quyền lực chỉ xét các đơn yêu cầu sản lượng bổ sung, khi mà cơ quan đó đã xét xong tất cả các đơn xin sản xuất đang chờ giải quyết và đã xem xét đúng mức đến các khả năng còn có những đơn vị khác nữa. Về vấn đề này nguyên tắc chỉ đạo của Cơ quan quyền lực là trong bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ không được vượt quá tổng sản lượng được phép sản xuất theo công thức hạn chế sản lượng. Cơ quan quyền lực không cho phép bất cứ một kế hoạch làm việc nào sản xuất một khối lượng vượt quá 46.500 tấn kền trong một năm.
b) Cơ quan quyền lực chỉ xét các đơn yêu cầu sản lượng bổ sung, khi mà cơ quan đó đã xét xong tất cả các đơn xin sản xuất đang chờ giải quyết và đã xem xét đúng mức đến các khả năng còn có những đơn vị khác nữa. Về vấn đề này nguyên tắc chỉ đạo của Cơ quan quyền lực là trong bất cứ một năm nào của giai đoạn quá độ không được vượt quá tổng sản lượng được phép sản xuất theo công thức hạn chế sản lượng. Cơ quan quyền lực không cho phép bất cứ một kế hoạch làm việc nào sản xuất một khối lượng vượt quá 46.500 tấn kền trong một năm.
7. Sản lượng các kim loại khác như
đồng, cô-ban và măng-gan rút ra từ các khối đa kim được khai thác theo một giấy
phép sản xuất, không được vượt quá mức có thể đạt được, nếu như những người
khai thác đã lấy ra từ các khối đa kim này số lượng kền tối đa tính đúng theo
điều này. Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục theo đúng
Điều 17 của Phụ lục III, trong đó có trù định các thể thức thi hành những khoản
này.
8. Các quyền và nghĩa vụ liên quan
đến các tập quán kinh tế không chính đáng được trù định trong khuôn khổ và các
hiệp định thương mại nhiều bên tương ứng, được áp dụng vào công việc thăm dò và
khai thác khoáng sản trong Vùng. Để giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi
điều quy định này, các quốc gia thành viên tham gia vào các hiệp định thương
mại nhiều bên nói trên dựa vào các thủ tục giải quyết các tranh chấp được trù
định trong các hiệp định đó.
9. Cơ quan có quyền hạn chế mức sản
xuất các khoáng sản trong Vùng, ngoài các khoáng sản rút ra từ các khối đa kim,
theo các điều kiện và phương pháp mà Cơ quan quyền lực cho là thích hợp, bằng
cách thông qua các quy tắc theo đúng Điều 161, khoản 8.
10. Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa
trên ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, Đại hội đồng định ra một chế độ bù
trừ hoặc thi hành các biện pháp trợ giúp khác, có tác dụng tạo điều kiện dễ
dàng cho việc điều chỉnh kinh tế, kể cả việc hợp tác với các cơ quan chuyên
trách hay các tổ chức quốc tế khác, đề giúp đỡ các nước đang phát triển mà nền
kinh tế và thu nhập xuất khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng trước những tác động
bất lợi do một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác từ Vùng bị hạ
giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản đuộc khai thác từ Vùng bị hạ
giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này của họ giảm sút, trong
chừng mực mà việc hạ giá hay giảm sút khối lượng này do các hoạt động trong
Vùng gây nên. Cơ quan quyền lực tiến hành nghiên cứu về những vấn đề của các
quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất, nhằm giảm đến mức tối thiểu những
khó khăn của họ, và để giúp đỡ họ tiến hành điều chỉnh kinh tế theo yêu cầu của
họ.
ĐIỀU 152. Việc thi hành các quyền
hạn và chức năng
1. Cơ quan quyền lực tránh mọi sự
phân biệt đối xử trong khi thi hành quyền hạn và chức năng của mình, nhất là
khi Cơ quan quyền lực cho phép tiến hành các hoạt động trong Vùng.
2. Tuy nhiên, theo các điều được quy
định rõ ràng của phần này, Cơ quan quyền lực có thể dành sự qua tâm đặc biệt
đối với các quốc gia đang phát triển, và đặc biệt là những quốc gia không có
biển hay bất lợi về địa lý trong số các quốc gia phát triển này.
ĐIỀU 153. Hệ thống thăm dò và khai
thác
1. Các hợp đồng tiến hành trong Vùng
được Cơ quan quyền lực thay mặt cho toàn thể loài người tổ chức, thực hiện và
kiểm soát theo đúng điều này, và theo đúng các quy định tương ứng khác của phần
này và phụ lục liên quan đến các hoạt động đó, cũng như, các quy tắc, quy định
và thủ tục của Cơ quan quyền lực. 2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng theo
đúng khoản 3 do các thành phần sau đây tiến hành:
a) Xí nghiệp và,
b) Kết hợp với Cơ quan quyền lực, các quốc gia thành viên hay các xí nghiệp Nhà nước, hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của
các quốc gia thành viên hay do quốc gia đó hoặc các công dân của các quốc gia đó kiểm soát thực sự, khi họ được sự bảo trợ của các quốc gia này hoặc của bất kỳ một nhóm nào thuộc những loại kể trên đáp ứng các điều kiện được quy định trong phần này và ở Phụ lục III;
a) Xí nghiệp và,
b) Kết hợp với Cơ quan quyền lực, các quốc gia thành viên hay các xí nghiệp Nhà nước, hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của
các quốc gia thành viên hay do quốc gia đó hoặc các công dân của các quốc gia đó kiểm soát thực sự, khi họ được sự bảo trợ của các quốc gia này hoặc của bất kỳ một nhóm nào thuộc những loại kể trên đáp ứng các điều kiện được quy định trong phần này và ở Phụ lục III;
3. Các hoạt động tiến hành trong
Vùng phải theo một kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản, được lập ra
theo đúng phụ lục III và được Hội đồng chuẩn y, sau khi được Ủy ban pháp lý và
kỹ thuật xem xét. Trong trường hợp các hoạt động tiến hành trong vùng theo giấy
phép của Cơ quan quyền lực do các thể hay cá nhân nói ở khoản 2, điểm b thực
hiện, kế hoạch làm việc mang hình thức của một hợp đồng, theo đúng Điều 3 của
Phụ lục III. Hợp đồng có thể trù định các thỏa thuận về liên doanh theo đúng
Điều 11 của Phụ lục III.
4. Cơ quan quyền lực thực hiện kiểm
soát cần thiết đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, để bảo đảm tôn trọng
các quy định tương ứng của phần này và của các phụ lục có liên quan, các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như, các kế hoạch làm việc
được chuẩn y theo đúng khoản 3. Các quốc gia thành viên giúp đỡ Cơ quan quyền
lực bằng cách thi hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm tôn trọng các
văn bản này theo đúng Điều 139.
5. Bất kỳ lúc nào, Cơ quan quyền lực
cũng có quyền thi hành mọi biện pháp được trù định trong phần này để bảo đảm
tôn trọng phần này và để có thể thi hành các chức năng kiểm soát và ra quy định
của mình theo phần này hay theo một hợp đồng. Cơ quan quyền lực có quyền kiểm
tra tất cả các thiết bị được sử dụng để tiến hành các hoạt động trong Vùng và
được đặt ở trong Vùng.
6. Mọi hợp đồng được ký kết theo
đúng khoản 3 đều trù định việc bảo đảm danh nghĩa.
Do vậy, chỉ có thể xét lại, tạm hoãn hay hủy bỏ hợp đồng theo các điều 18 và 19 của Phụ lục III.
Do vậy, chỉ có thể xét lại, tạm hoãn hay hủy bỏ hợp đồng theo các điều 18 và 19 của Phụ lục III.
ĐIỀU 154. Xem xét định kỳ
Cứ 5 năm một lần kể từ khi Công ước
có hiệu lực, Đại hội đồng lại tiến hành một cuộc xem xét chung và có hệ thống
xem chế độ quốc tế của Vùng do Công ước lập ra đã hoạt động trong thực tiễn như
thế nào. Dựa vào kết quả của cuộc xem xét này, Đại hội đồng có thể thi hành hay
khuyến nghị cho các cơ quan khác thi hành các biện pháp phù hợp với các quy
định, thủ tục được trù định trong phần này và các phụ lục có liên quan và cho
phép cải tiến sự hoạt động của chế độ.
ĐIỀU 155. Hội nghị xét duyệt lại
1. 15 năm sau ngày mùng 1 tháng
Giêng của năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên theo một kế hoạch làm việc đã
được chuẩn y, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị để xét duyệt lại các quy
định của phần này và các phụ lục có liên quan, điều chỉnh hệ thống thăm dò và
khai thác tài nguyên của Vùng. Dưới ánh sáng của kinh nghiệm thu được trong
giai đoạn qua, hội nghị sẽ xem xét cụ thể:
a) Các quy định trong phần này điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng có đạt được những mục tiêu của chúng về mọi mặt không, và nhất là xem toàn thể loài người có được hưởng lợi do các quy định đó đem lại không;
b) Xem trong thời hạn 15 năm này, các khu vực dành riêng có được khai thác một cách có hiệu quả và cân đối so với các khu vực không được dành riêng không;
c) Xem việc khai thác và sử dụng Vùng và các tài nguyên của Vùng có được tiến hành theo cách tạo thuận lợi cho việc phát triển hài hòa của nền kinh tế thế giới và việc mở rộng cân đối nền thương mại quốc tế không;
d) Xem sự độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng được ngăn ngừa hay không;
e) Xem xét các chính sách đã nêu ở các Điều 150 và 151 có được tuân thủ không; và
f) Hệ thống có cho phép phân chia một cách công bằng những mối lợi thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, với sự quan tâm đặc biệt đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển không.
a) Các quy định trong phần này điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng có đạt được những mục tiêu của chúng về mọi mặt không, và nhất là xem toàn thể loài người có được hưởng lợi do các quy định đó đem lại không;
b) Xem trong thời hạn 15 năm này, các khu vực dành riêng có được khai thác một cách có hiệu quả và cân đối so với các khu vực không được dành riêng không;
c) Xem việc khai thác và sử dụng Vùng và các tài nguyên của Vùng có được tiến hành theo cách tạo thuận lợi cho việc phát triển hài hòa của nền kinh tế thế giới và việc mở rộng cân đối nền thương mại quốc tế không;
d) Xem sự độc quyền hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng được ngăn ngừa hay không;
e) Xem xét các chính sách đã nêu ở các Điều 150 và 151 có được tuân thủ không; và
f) Hệ thống có cho phép phân chia một cách công bằng những mối lợi thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, với sự quan tâm đặc biệt đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển không.
2. Hội nghị xét duyệt quan tâm đến
việc giữ vững nguyên tắc di sản chung của loài người, chế độ quốc tế nhằm khai
thác công bằng di sản đó vì lợi ích của tất cả các quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia đang phát triển, và sự tồn tại của một Cơ quan quyền lực có trách
nhiệm tổ chức tiến hành và kiểm soát các hoạt động trong vùng. Hội nghị cũng
quan tâm đến việc duy trì các nguyên tắc đã được nêu trong phần này có liên
quan đến việc loại trừ mọi yêu sách và mọi sự thực hiện chủ quyền ở một khu vực
nào đó của Vùng, đến các quyền của các quốc gia và thái độ chung của họ có quan
hệ đến Vùng, cũng như việc tham gia của họ vào các hoạt động được tiến hành
trong Vùng theo đúng Công ước, đến việc độc quyền hóa các hoạt động tiến hành
trong Vùng, việc chỉ sử dụng Vùng vào những mục đích hòa bình, những phương
diện kinh tế của các hoạt động tiến hành trong Vùng, việc nghiên cứu khoa học
biển, việc chuyển giao kỹ thuật, việc bảo vệ môi trường biển, và bảo vệ sự sống
của con người, các quyền của các quốc gia ven biển, chế độ pháp lý của vùng
nước và vùng trời phía trên Vùng và sự phù hợp giữa các hoạt động tiến hành
trong Vùng và các hoạt động khác trong môi trường biển.
3. Thủ tục ra quyết định áp dụng
trong Hội nghị cũng là thủ tục đã áp dụng ở Hội nghị về luật biển lần thứ ba
của Liên hợp quốc. Hội nghị sẽ cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận về tất cả
các điểm sửa đổi nếu có, bằng consensus (thỏa thuận), và chỉ biểu quyết các vấn
đề đó, sau khi đã cố gắng hết sức mà không đi đến consensus (thỏa thuận).
4. Năm năm sau khi bắt đầu hội nghị
xét duyệt lại, nếu không đi đến được thỏa thuận về hệ thống thăm dò và khai
thác tài nguyên của Vùng thì trong vòng 12 tháng sau đó, Hội nghị có thể quyết
định theo đa số ba phần tư các quốc gia thành viên thông qua và đưa ra cho các
quốc gia thành viên phê chuẩn hay tham gia đối với những điều sửa đổi dẫn đến
sự thay đổi hay sửa đổi hệ thống, mà Hội nghị xét thấy cần thiết và thích hợp.
Những điều sửa đổi này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia thành viên 12
tháng sau ngày gửi lưu chiểu những văn kiện phê chuẩn hay tham gia ba phần tư
quốc gia thành viên.
5. Những điểm sửa đổi được hội nghị
xét duyệt lại thông qua điều này, sẽ không đụng chạm đến các quyền đã có được
theo các hợp đồng hiện hành
Mục 4 - CƠ QUAN QUYỀN LỰC
TIỂU MỤC A - NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 156. Thành lập Cơ quan quyền
lực
1. Một Cơ quan quyền lực quốc tế về
đáy biển được lập ra, hoạt động theo sự điều chỉnh của phần này.
2. Tất cả các quốc gia thành viên là
những thành viên ipso facto (tất nhiên) của Cơ quan quyền lực.
3. Các quan sát viên ở Hội nghị lần
thứ 3 của Liên hợp quốc về luật biển đã ký vào Định ước cuối cùng và không nằm
trong phạm vi Điều 305, khoản 1, điểm c, d, e hay f có quyền tham dự vào các
công việc của Cơ quan quyền lực với tư cách quan sát viên theo đúng các quy
tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
4. Cơ quan quyền lực đặt trụ sở ở
Gia-mai-ca.
5. Cơ quan quyền lực có thể lập ra
các trung tâm hay các cơ quan chỉ đạo khu vực xét thấy cần thiết để thi hành
chức năng của mình.
ĐIỀU 157. Tính chất của Cơ quan
quyền lực và các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hoạt động của cơ quan này
1. Cơ quan quyền lực là tổ chức mà
qua đó, các quốc gia thành viên tổ chức và kiểm soát các hoạt động tiến hành
trong Vùng, đặc biệt là nhằm mục đích quản lý các tài nguyên của Vùng theo đúng
phần này.
2. Cơ quan quyền lực nắm các quyền
hạn và chức năng Công ước giao phó một cách rõ ràng. Cơ quan quyền lực có những
quyền hạn và chức năng nói trên đối với những hoạt động tiến hành trong Vùng.
3. Cơ quan quyền lực được thành lập
trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của tất cả các thành viên.
4. Để bảo đảm cho mỗi thành viên các
quyền và lợi ích do tư cách thành viên mà có, tất cả các thành viên của Cơ quan
quyền lực phải làm tròn một cách trung thực những nghĩa vụ của họ theo phần
này.
ĐIỀU 158. Các cơ quan của Cơ quan
quyền lực
1. Một đại hội đồng, một Hội đồng và
một Ban thư ký được lập ra là những cơ quan chính của Cơ quan quyền lực.
2. Một Xí nghiệp được lập ra là cơ
quan mà thông qua đó, cơ quan quyền lực thi hành các chức năng được nêu ở Điều
170, khoản 1.
3. Các cơ quan phụ trợ được coi là
cần thiết có thể được thành lập theo đúng phần này.
4. Mỗi cơ quan chính của Cơ quan
quyền lực và Xí nghiệp có nhiệm vụ thi hành những quyền hạn và chức năng đã
được giao phó. Trong khi thi hành các quyền hạn và chức năng này, mỗi cơ quan
tránh những hành động có thể đụng cham hoặc làm hại cho việc thi hành các quyền
hạn và chức năng riêng đã được giao phó cho một cơ quan khác.
TIỂU MỤC B - ĐẠI HỘI ĐỒNG
ĐIỀU 159. Cơ cấu, thủ tục và biểu
quyết
1. Đại hội đồng bao gồm tất cả các
thành viên của Cơ quan quyền lực. Mỗi thành viên có một đại diện ở Đại hội
đồng, người này có thể có những người thay thế và cố vấn đi theo.
2. Đại hội đồng họp thường kỳ hàng
năm, và họp bất thường theo quyết định của Đại hội đồng hay do Tổng thư ký
triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng hay của đa số các thành viên của Cơ quan
quyền lực.
3. Các khóa họp của Đại hội đồng
được tiến hành tại trụ sở của Cơ quan quyền lực, trừ khi Đại hội đồng có quyết
định khác.
4. Đại hội đồng thông qua quy chế
nội bộ của mình. Mỗi khi khai mạc khóa họp thường kỳ, Đại hội đồng bầu ra chủ
tịch và số ủy viên cần thiết khác của cơ quan chỉ đạo. Những người này lãnh
trách nhiệm cho đến khi bầu cử một cơ quan chỉ đạo mối ở khóa họp thường kỳ
tiếp theo.
5. Số đại biểu cần thiết (quorum) là
đa số thành viên của Đại hội đồng.
6. Mỗi thành viên của Đại hội đồng
có một phiếu.
7. Các quyết định về những vấn đề
thủ tục kể cả việc triệu tập một khóa họp bất thường của Đại hội đồng được
thông qua theo đa số thành viên có mặt và bỏ phiếu.
8. Các quyết định về các vấn đề nội
dung phải được hai phần ba thành viên có mặt và bỏ phiếu thông qua, với điều
kiện là đa số này phải gồm đa số các thành viên tham dự khóa họp. Trong trường
hợp còn nghi ngờ không rõ có phải là một vấn đề nội dung hay không, thì vấn đề
bàn cãi đó được coi như là một vấn đề nội dung, trừ trường hợp Cơ quan quyền
lực có quyết định khác theo đa số cần thiết đối với những quyết định về các vấn
đề nội dung.
9. Khi một vấn đề nội dung sắp được
đem ra biểu quyết lần đầu thì Chủ tịch có thể hoãn và nếu có ít nhất một phần
năm số thành viên của Đại hội đồng yêu cầu, thì cần phải hoãn việc biểu quyết
về điểm này trong một thời hạn không được quá 5 ngày. Quy tắc này chỉ có thể
được áp dụng một lần đối
với cùng một vấn đề, và việc áp dụng quy tắc này không được làm cho vấn đề bị hoãn đến quá ngày kết thúc khóa họp.
với cùng một vấn đề, và việc áp dụng quy tắc này không được làm cho vấn đề bị hoãn đến quá ngày kết thúc khóa họp.
10. Khi có ít nhất một phần tư số
thành viên của Đại hội đồng thỉnh cầu bằng một văn bản gửi lên Chủ tịch Đại hội
đồng, yêu cầu các Đại hội đồng lấy ý kiến tư vấn xem một đề nghị đưa ra Đại hội
đồng yêu cầu Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển của Tòa án
quốc tế về luật biển có ý kiến tư vấn. Cuộc biểu quyết được hoãn đến khi Viện
phát biểu ý kiến. Nếu trước khi khóa họp kết thúc một tuần mà chưa nhận được ý
kiến tư vấn thì Đại hội đồng quyết định thời gian sẽ họp lại để biểu quyết về
đề nghị đã bị hoãn lại đó.
ĐIỀU 160. Các quyền hạn và chức năng
1. Đại hội đồng, cơ quan duy nhất
bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực, được coi là cơ quan tối
cao của Cơ quan quyền lực; Các cơ quan chính khác chịu trách nhiệm trước nó,
như đã được quy định rõ ràng trong Công ước; Đại hội đồng có quyền, căn cứ vào
các quy định tương ứng của Công ước quyết định chính sách chung của Cơ quan
quyền lực về bất kỳ vấn đề gì hay về bất kỳ việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ
quan quyền lực.
2. Ngoài ra, Đại hội đồng còn có các
quyền hạn và chức năng sau đây:
a) Bầu ra các ủy viên của Hội đồng theo đúng Điều 161;
b) Bầu ra Tổng thư ký trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị;
c) Dựa vào giới thiệu của Hội đồng, bầu ra các ủy viên của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Xí nghiệp;
a) Bầu ra các ủy viên của Hội đồng theo đúng Điều 161;
b) Bầu ra Tổng thư ký trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị;
c) Dựa vào giới thiệu của Hội đồng, bầu ra các ủy viên của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Xí nghiệp;
d) Nếu cần, thì thành lập các cơ quan phụ trợ để có thể làm tròn các chức năng của mình theo đúng phần này. Về cơ cấu của các cơ quan phụ trợ này cần phải chú ý thích đáng đến nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý về các thành viên, đến các lợi ích riêng biệt và đến sự cần thiết bảo đảm cho các cơ quan này tuyển chọn được các thành viên có trình độ và thông thạo trong những lĩnh vực mà họ đảm nhiệm;
e) Quy định phần đóng góp của các thành viên vào ngân sách hành chính của Cơ quan quyền lực theo một ba-rem đã được sử dụng cho ngân sách thông thường của Liên hợp quốc, cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu nhập lấy từ các nguồn khác đủ để trang trải các chi phí hành chính của mình;
f) i. Dựa vào kiến nghị của Hội đồng, xem xét và phê chuẩn các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc phân chia công bằng từ các mối
lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác thu được từ những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng như những đóng góp được trù định ở Điều 82, có quan tâm đặc biệt đến các quyền lợi và nhu cầu của các nước đang phát triển và các dân tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác. Nếu đại hội đồng không tán thành các kiến nghị của Hội đồng, thì gửi trả lại các kiến nghị đó cho Hội đồng đề Hội đồng xem xét lại dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng đã nêu ra;
ii. Xem xét và phê chuẩn các quy tắc, qui định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như tất cả những điều sửa đổi đối với văn bản này, mà Hội đồng đã tạm thời chấp nhận theo Điều 162, khoản 2, điểm c, ii. Các quy tắc, quy định và thủ tục này nhằm vào việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong Vùng, vào vấn đề quản lý tài chính và vấn đề hành chính nội bộ của Cơ quan quyền lực và, trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng quản trị của Xí nghiệp, vào vấn đề chuyển khoản của Xí nghiệp sang cho Cơ quan quyền lực;
g) Quyết định việc phân chia công bằng các mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác có được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, một cách phù hợp với Công ước và các quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
h) Xem xét và phê chuẩn dự trù ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực mà Hội đồng đã đệ trình lên;
i) Xem xét và báo cáo định kỳ của Hội đồng và của Xí nghiệp, cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng yêu cầu Hội đồng và bất kỳ cơ quan nào của Cơ quan quyền lực trình lên;
j) Cho tiến hành các cuộc nghiên cứu và soạn thảo các kiến nghị nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc tế liên quan đến các hoạt động tiến hành trong vùng, và khuyến khích sự phát triển pháp luật quốc tế theo hướng tiến bọ và pháp điển hóa bước phát triển đó;
k) Xem xét những vấn đề có tính chất chung có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là những vấn đề nảy sinh đối với các quốc gia đang phát triển, cũng như đối với những vấn đề mà các hoạt động này đặt ra đối với một số quốc gia, do vị trí địa lý của họ, nhất là các quốc gia không có biển và các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi;
l) Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, lập ra một chế độ bù trừ hay thi hành các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế như đã trù định trong Điều 151, khoản 10;
m) Tuyên bố đình chỉ các quyền và các đặc quyền gắn liền với tư cách thành viên theo Điều 185;
n) Thảo luận bất kỳ vấn đề gì hay việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực và quyết định một cách phù hợp với việc phân chia các quyền và chức năng giữa các cơ quan quyền lực xem cơ quan nào sẽ giải quyết một vấn đề gì hay một việc gì chưa được giao dứt khoát cho các cơ quan đó.
TIỂU MỤC C - HỘI ĐỒNG
ĐIỀU 161. Cơ cấu, thủ tục và bỏ
phiếu
1. Hội đồng gồm 36 ủy viên của Cơ
quan quyền lực do Đại hội đồng bầu ra theo thứ tự như sau:
a) Bốn ủy viên được lựa chọn trong
số các quốc gia thành viên mà việc tiêu thụ hay nhập khẩu thuần túy các sản
phẩm cơ bản thuộc các loại khoáng sản được khai thác trong vùng vượt quá 2% mức
tiêu thụ hay mức nhập khẩu của thế giới về các sản phẩm đó trong khoảng thời
gian 5 năm lại đây có số liệu thống kê; trong số 4 ủy viên này, ít nhất phải có
một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa) cũng như quốc gia tiêu
thụ lớn nhất;
b) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước mình, đã được thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có một số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa);
c) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước mình, đã thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có hai quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế bị lệ thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu các khoáng sản này;
d) Sáu ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên đang phát triển và đại diện cho những lợi ích đặc biệt. Những lợi ích đặc biệt phải được đại diện bao gồm những lợi ích của các quốc gia có dân số đông,
của các quốc gia không có viển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, của các quốc gia trong số các quốc gia nhập khẩu chủ yếu các loại khoáng sản sẽ được khai thác trong Vùng, của các quốc gia có tiềm năng sản xuất các khoáng sản đó và của các quốc gia kém phát triển nhất;
e) Mười tám ủy viên được bầu theo nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý đối với toàn bộ số thành viên của Hội đồng; tất nhiên là theo quy định này, cứ mỗi vùng địa lý có ít nhất là một quốc gia được bầu làm ủy viên. Các khu vực địa lý nói ở đây là Châu Phi, châu Mỹ la – tinh, châu Á, Đông Âu (xã hội chủ nghĩa), cũng như Tây Âu và các quốc gia khác.
b) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước mình, đã được thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có một số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa);
c) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành viên; những quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước mình, đã thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất phải có hai quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế bị lệ thuộc nặng nề vào việc xuất khẩu các khoáng sản này;
d) Sáu ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên đang phát triển và đại diện cho những lợi ích đặc biệt. Những lợi ích đặc biệt phải được đại diện bao gồm những lợi ích của các quốc gia có dân số đông,
của các quốc gia không có viển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, của các quốc gia trong số các quốc gia nhập khẩu chủ yếu các loại khoáng sản sẽ được khai thác trong Vùng, của các quốc gia có tiềm năng sản xuất các khoáng sản đó và của các quốc gia kém phát triển nhất;
e) Mười tám ủy viên được bầu theo nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý đối với toàn bộ số thành viên của Hội đồng; tất nhiên là theo quy định này, cứ mỗi vùng địa lý có ít nhất là một quốc gia được bầu làm ủy viên. Các khu vực địa lý nói ở đây là Châu Phi, châu Mỹ la – tinh, châu Á, Đông Âu (xã hội chủ nghĩa), cũng như Tây Âu và các quốc gia khác.
2. Khi bầu các ủy viên của Hội đồng
theo đúng khoản 1, Đại hội đồng phải chú ý đến:
a) Đại diện của các quốc gia không có biển và của các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ tại Đại hội đồng;
b) Đại diện của các quốc gia ven biển, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, không có đầy đủ các điều kiện đã nêu ở khoản 1, điểm a, b, c hay d, tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ ở Đại hội đồng;
c) Mỗi nhóm quốc gia thành viên được có đại diện ở Hội đồng sẽ do các ủy viên được nhóm đó chỉ định, tùy theo tình hình làm đại diện.
a) Đại diện của các quốc gia không có biển và của các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ tại Đại hội đồng;
b) Đại diện của các quốc gia ven biển, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, không có đầy đủ các điều kiện đã nêu ở khoản 1, điểm a, b, c hay d, tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ ở Đại hội đồng;
c) Mỗi nhóm quốc gia thành viên được có đại diện ở Hội đồng sẽ do các ủy viên được nhóm đó chỉ định, tùy theo tình hình làm đại diện.
3. Các cuộc bầu cử được tiến hành
trong một khóa họp thường lệ của Đại hội đồng. Mỗi một ủy viên của Hội đồng
được bầu với nhiệm kỳ là bốn năm. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử các ủy viên của
Hội đồng lần đầu, một nữa số ủy viên đại diện cho mỗi nhóm nước nói ở khoản 1
có nhiệm kỳ là 2 năm.
4. Các ủy viên của Hội đồng có thể
được tái cử, nhưng cần phải chú ý thích đang đến việc bảo đảm sự luân phiên của
các ủy viên.
5. Hội đồng thi hành chức trách của
mình ở trụ sở của Cơ quan quyền lực; Hội đồng nhóm họp theo yêu cầu hoạt động
của Cơ quan quyền lực và, trong bất kỳ trường hợp nào, cũng bảo đảm mỗi năm họp
ba lần.
6. Số đại biểu cần thiết (quorum) là
đa số ủy viên của Hội đồng.
7. Mỗi ủy viên của Hội đồng có một
phiếu.
8. a) Các quyết định về các vấn đề
thủ tục được thực hiện theo đa số các ủy viên có mặt và bỏ phiếu.
b) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đề ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm f, g, h, I, n, p, v và Điều 191, được thông qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có mặt và bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng;
c) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến các điều quy định liệt kê sau đây phải được đa số ba phần tư các ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng: Điều 162, khoản 1; Điều 162, khoản 2, điểm a, b, c, d, e, l, q, r, s, t; Điều 162, khoản 2, điểm u, trong những trường hợp một người ký hợp đồng hay quốc gia bảo trợ người đó không thực hiện hợp đồng; Điều 162, khoản 2, điểm w, với điều kiện các lệnh được đưa ra theo điểm này chỉ có thể là bắt buộc quá 30 ngày, nếu nó được một quyết định phù hợp với điểm d, xác nhận; Điều 162 khoản 2 điểm x, y, z; Điều 163, khoản 2; Điều 174, khoản 3; Điều 11 của phụ lục IV;
d) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm m và o, cũng như về việc thông qua các điều sửa đổi đối với phần XI phải được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
e) Theo điểm d, f và g, thuật ngữ “consensus” (thỏa thuận) có nghĩa là không có bất kỳ ý kiến phản đối chính thức nào. Trong 14 ngày tiếp sau một kiến nghị được trình lên Hội đồng, Chủ tịch phải xem xét xem có ý kiến phản đối chính thức nào không. Nếu Chủ tịch của Hội đồng nhận thấy rằng có một ý kiến có một ý kiến phản đối, thì trong vòng ba ngày, Chủ tịch lập và triệu tập một ủy ban hòa giải, gồm nhiều nhất là chín ủy viên của Hội đồng, dưới sự chủ tọa của bản thân Chủ tịch nhằm loại bỏ những ý kiến bất đồng và dự thảo một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận). Ủy ban hòa giải nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ của mình và báo cáo lên Hội đồng trong vòng 14 ngày sau khi thành lập. Nếu ủy ban không có khả năng đề xuất một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận) thì phải trình bày trong báo cáo của mình những lý do của ý kiến đối lập với để nghị;
f) Các quyết định về những vấn đề không được liệt kê ở trên mà Hội đồng có quyền hạn giải quyết theo các quy tắc, quy định và thủ tục của đó, nếu không thì theo quy định của khoản này, được ghi trong các quy tắc, quy định và thủ tục đó, nếu không thì theo quy định được xác định bởi một quyết định của Hội đồng được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
g) Trong trường hợp còn chưa thật rõ một vấn đề có thuộc phạm vi của các điểm a, b, c hay d không, thì vấn đề được coi như thuộc quy định đòi hỏi, tùy trường hợp, theo quy định đòi hỏi, tùy từng trường hợp, theo đa số cao nhất hay bằng consensus (thỏa thuận).
b) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đề ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm f, g, h, I, n, p, v và Điều 191, được thông qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có mặt và bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng;
c) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến các điều quy định liệt kê sau đây phải được đa số ba phần tư các ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng: Điều 162, khoản 1; Điều 162, khoản 2, điểm a, b, c, d, e, l, q, r, s, t; Điều 162, khoản 2, điểm u, trong những trường hợp một người ký hợp đồng hay quốc gia bảo trợ người đó không thực hiện hợp đồng; Điều 162, khoản 2, điểm w, với điều kiện các lệnh được đưa ra theo điểm này chỉ có thể là bắt buộc quá 30 ngày, nếu nó được một quyết định phù hợp với điểm d, xác nhận; Điều 162 khoản 2 điểm x, y, z; Điều 163, khoản 2; Điều 174, khoản 3; Điều 11 của phụ lục IV;
d) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến Điều 162, khoản 2, điểm m và o, cũng như về việc thông qua các điều sửa đổi đối với phần XI phải được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
e) Theo điểm d, f và g, thuật ngữ “consensus” (thỏa thuận) có nghĩa là không có bất kỳ ý kiến phản đối chính thức nào. Trong 14 ngày tiếp sau một kiến nghị được trình lên Hội đồng, Chủ tịch phải xem xét xem có ý kiến phản đối chính thức nào không. Nếu Chủ tịch của Hội đồng nhận thấy rằng có một ý kiến có một ý kiến phản đối, thì trong vòng ba ngày, Chủ tịch lập và triệu tập một ủy ban hòa giải, gồm nhiều nhất là chín ủy viên của Hội đồng, dưới sự chủ tọa của bản thân Chủ tịch nhằm loại bỏ những ý kiến bất đồng và dự thảo một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận). Ủy ban hòa giải nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ của mình và báo cáo lên Hội đồng trong vòng 14 ngày sau khi thành lập. Nếu ủy ban không có khả năng đề xuất một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa thuận) thì phải trình bày trong báo cáo của mình những lý do của ý kiến đối lập với để nghị;
f) Các quyết định về những vấn đề không được liệt kê ở trên mà Hội đồng có quyền hạn giải quyết theo các quy tắc, quy định và thủ tục của đó, nếu không thì theo quy định của khoản này, được ghi trong các quy tắc, quy định và thủ tục đó, nếu không thì theo quy định được xác định bởi một quyết định của Hội đồng được thông qua bằng consensus (thỏa thuận).
g) Trong trường hợp còn chưa thật rõ một vấn đề có thuộc phạm vi của các điểm a, b, c hay d không, thì vấn đề được coi như thuộc quy định đòi hỏi, tùy trường hợp, theo quy định đòi hỏi, tùy từng trường hợp, theo đa số cao nhất hay bằng consensus (thỏa thuận).
9. Hội đồng định ra một thử tục cho
phép một thành viên của Cơ quan quyền lực không có đại diện ở Hội đồng được
tham dự vào một cuộc họp
của Hội đồng khi thành viên này có yêu cầu được tham dự, hoặc khi Hội đồng xét một vấn đề có liên quan đặc biệt đến thành viên này. Đại diện của thành viên này có thể tham gia vào các cuộc tranh luận nhưng không được quyền bỏ phiếu.
của Hội đồng khi thành viên này có yêu cầu được tham dự, hoặc khi Hội đồng xét một vấn đề có liên quan đặc biệt đến thành viên này. Đại diện của thành viên này có thể tham gia vào các cuộc tranh luận nhưng không được quyền bỏ phiếu.
ĐIỀU 162. Các quyền hạn và chức năng
1. Hội đồng là cơ quan chấp hành của
Cơ quan quyền lực có quyền căn cứ vào Công ước và chính sách chung do Đại hội
đồng xác định, định ra các chính sách riêng mà Cơ quan quyền lực phải theo đối
với mọi vấn đề hay mọi việc thuộc thẩm quyền của mình. 2. Ngoài ra, Hội đồng
còn:
a) Giám sát và tổ chức phối hợp việc
áp dụng phần này đối với tất cả các vấn đề và các việc thuộc thẩm quyền của Cơ
quyền lực và lưu ý Đại hội đồng về những trường hợp không tuân thủ;
b) Đề nghị lên Đại hội đồng danh sách các ứng cử viên vào chức vụ Tổng thư ký;
c) Giới thiệu lên Đại hội đồng các ứng cử viên vào các chức vụ ủy viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc xí nghiệp;
d) Tùy theo điều kiện thích hợp, và có lưu ý đúng mức đến các đòi hỏi về tiết kiệm và kém hiệu quả, lập ra các cơ quan phụ trợ xét thấy cần thiết để thi hành các chức năng của mình theo đúng phần này. Đối với thành phần của các cơ quan này, cần nhấn mạnh đến sự cần thiết là các ủy viên phải có trình độ và tinh thông trong những lĩnh cực kỹ thuật mà các cơ quan đó phụ trách, nhưng phải tính đến các nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý và đến các lợi ích đặc biệt;
e) Thông qua quy chế nội bộ của mình, đặc biệt là xác định cách thức chỉ định chủ tịch của Hội đồng;
f) Thay mặt Cơ quan quyền lực, ký kết các hiệp định với Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, trong phạm vi thẩm quyền của mình và với điều kiện được Đại hội đồng phê chuẩn.
g) Xem xét các báo cáo của xí nghiệp và chuyển các báo cáo đó lên Đại hội đồng có kèm theo các kiến nghị của mình;
h) Trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng đòi hỏi;
i) Chỉ đạo xí nghiệp theo đúng Điều 170;
j) Chuẩn y các kế hoạch làm việc theo đúng Điều 6 của Phụ lục III. Hội đồng quyết định về từng kế hoạch làm việc trong thời hạn 60 ngày sau ngày kế hoạch làm việc được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật trình lên trong một phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ tục sau đây:
- Khi Ủy ban đề nghị chuẩn y một kế hoạch làm việc, thì kế hoạch này xem như được Hội đồng chấp nhận, nếu không có ủy viên nào của Hội đồng gửi lên cho Chủ tịch, trong thời hạn 14 ngày, một kháng nghị bằng văn bản rõ ràng viện dẫn việc không tuân thủ các điều kiện ghi ở Điều 6 của Phụ lục III. Nếu một kháng như vậy được đưa ra, thì thủ tục hòa giải được trù định ở Điều 161, khoản 8, điểm e, được áp dụng. Nếu vào lúc kết thúc thủ tục đó mà vẫn còn tiếp thủ tục kháng nghị, thì kế hoạch làm việc coi như được Hội đồng chuẩn y, trừ khi được Hội đồng bác bỏ kế hoạch này bằng consensus (thỏa thuận), không kể quốc gia hay các quốc gia đưa ra kế làm việc hay bảo trợ người đưa ra kế hoạch đó;
- Khi Ủy ban kiến nghị bác bỏ một kế hoạch làm việc hay không đưa ra kiến nghị, Hội đồng có thể chuẩn y kế hoạch làm việc theo đa số ba phần tư số ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này bao gồm đa số các ủy viên tham gia khóa họp;
- Chuẩn y các kế hoạch làm việc do Xí nghiệp đưa lên theo đúng Điều 12 Phụ lục IV, áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) các thủ tục nói ở điểm j;
l) Thi hành việc kiểm soát đối với những hoạt động tiến hành trong vùng theo đúng Điều 153, khoản 4 và các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
m) Dựa vào kiến nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, theo đúng Điều 150, điểm h, định ra các biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo vệ các quốc gia đang phát triển khỏi bị những tác động kinh tế bất lợi nói trong quy định đó;
n) Dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, làm các kiến nghị gửi lên Đại hội đồng về việc lập chế độ bù trừ hay định ra các biện pháp giúp đỡ người khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế đã được trù định ở Điều 151, khoản 10;
o) i. Kiến nghị lên Đại hội đồng những quy tắc, quy định và thủ tục về việc phân chia công bằng những mối lợi về tài chính và những mối lợi kinh tế khác, thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, cũng như về các khoản đóng góp được trù định ở Điều 82, đặc biệt lưu ý đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển và của các dân tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác;
ii. Thông qua và áp dụng tạm thời, trong khi chờ đợi Đại hội đồng chuẩn y, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và mọi điều sửa đổi đối với những văn bản này, có lưu ý đến những kiến nghị của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ quan cấp dưới có liên quan khác. Những quy tắc, quy định và thủ tục này đề cập việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong Vùng, cũng như việc quản lý tài chính và hành chính nội bộ của quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc thăm dò và khai thác các khối đa kim. Các quy tắc, quy định, thủ tục thăm dò và khai thác mọi tài nguyên ngoài các khối đa kim được thông qua trong một thời hạn 3 năm kể từ ngày Cơ quan quyền lực nhận được đơn của một trong các ủy viên của mình về vấn đề này. Các quy tắc, quy định và thủ tục đó có hiệu lực tạm thời đến khi được Đại hội đồng chuẩn y hoặc đến khi được Hội đồng sửa đổi dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng phát biểu;
p) Quan tâm đến việc thanh toán tất cả các khoản tiền do Cơ quan quyền lực nợ hay phải trả cho Cơ quan quyền lực, về các hoạt động được thực hiện theo đúng phần này;
q) Tiến hành lựa chọn giữa những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo Điều 7 của Phụ lục III, trong những trường hợp được trù định trong điều đó;
r) Đệ trình dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực lên Đại hội đồng để được phê chuẩn;
s) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về chính sách phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi viện thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực;
t) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về việc đình chỉ thi hành các quyền và đặc quyền gắn liền với tư cách ủy viên theo Điều 185;
u) Nhân danh Cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển xét xử trong những trường hợp không tuân thủ;
v) Thông báo cho Đại hội đồng quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển đã được giao cho xét xử theo điểm u, và có những kiến nghị về các biện pháp mà Hội đồng thấy cần thiết phải thi hành;
w) Trong trường hợp khẩn cấp thì ra lệnh và tùy theo tình hình, kể cả lệnh đình chỉ hay thay đổi các hoạt động, để đề phòng mọi thiệt hại nghiêm trọng có thể gây ra cho môi trường biển vì các hoạt động tiến hành trong Vùng;
x) Không cho các người ký kết hợp đồng hay xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển;
y) Thành lập một cơ quan phụ trợ chuyên trách việc dự thảo những quy tắc, thủ tục và quy định tài chính có liên quan đến:
i. Việc quản lý tài chính theo đúng các Điều 171 đến 175; và
ii. Các thể thức tài chính được trù định trong Điều 134 và Điều 17, khoản 1, điểm c, của phụ lục III;
z) Bố trí các bộ máy thích hợp để điều khiển và giám sát một đoàn thanh tra làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng để xác định xem phầm này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều kiện của các hợp đồng được ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không.
b) Đề nghị lên Đại hội đồng danh sách các ứng cử viên vào chức vụ Tổng thư ký;
c) Giới thiệu lên Đại hội đồng các ứng cử viên vào các chức vụ ủy viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc xí nghiệp;
d) Tùy theo điều kiện thích hợp, và có lưu ý đúng mức đến các đòi hỏi về tiết kiệm và kém hiệu quả, lập ra các cơ quan phụ trợ xét thấy cần thiết để thi hành các chức năng của mình theo đúng phần này. Đối với thành phần của các cơ quan này, cần nhấn mạnh đến sự cần thiết là các ủy viên phải có trình độ và tinh thông trong những lĩnh cực kỹ thuật mà các cơ quan đó phụ trách, nhưng phải tính đến các nguyên tắc phân bổ công bằng theo địa lý và đến các lợi ích đặc biệt;
e) Thông qua quy chế nội bộ của mình, đặc biệt là xác định cách thức chỉ định chủ tịch của Hội đồng;
f) Thay mặt Cơ quan quyền lực, ký kết các hiệp định với Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, trong phạm vi thẩm quyền của mình và với điều kiện được Đại hội đồng phê chuẩn.
g) Xem xét các báo cáo của xí nghiệp và chuyển các báo cáo đó lên Đại hội đồng có kèm theo các kiến nghị của mình;
h) Trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm cũng như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng đòi hỏi;
i) Chỉ đạo xí nghiệp theo đúng Điều 170;
j) Chuẩn y các kế hoạch làm việc theo đúng Điều 6 của Phụ lục III. Hội đồng quyết định về từng kế hoạch làm việc trong thời hạn 60 ngày sau ngày kế hoạch làm việc được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật trình lên trong một phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ tục sau đây:
- Khi Ủy ban đề nghị chuẩn y một kế hoạch làm việc, thì kế hoạch này xem như được Hội đồng chấp nhận, nếu không có ủy viên nào của Hội đồng gửi lên cho Chủ tịch, trong thời hạn 14 ngày, một kháng nghị bằng văn bản rõ ràng viện dẫn việc không tuân thủ các điều kiện ghi ở Điều 6 của Phụ lục III. Nếu một kháng như vậy được đưa ra, thì thủ tục hòa giải được trù định ở Điều 161, khoản 8, điểm e, được áp dụng. Nếu vào lúc kết thúc thủ tục đó mà vẫn còn tiếp thủ tục kháng nghị, thì kế hoạch làm việc coi như được Hội đồng chuẩn y, trừ khi được Hội đồng bác bỏ kế hoạch này bằng consensus (thỏa thuận), không kể quốc gia hay các quốc gia đưa ra kế làm việc hay bảo trợ người đưa ra kế hoạch đó;
- Khi Ủy ban kiến nghị bác bỏ một kế hoạch làm việc hay không đưa ra kiến nghị, Hội đồng có thể chuẩn y kế hoạch làm việc theo đa số ba phần tư số ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này bao gồm đa số các ủy viên tham gia khóa họp;
- Chuẩn y các kế hoạch làm việc do Xí nghiệp đưa lên theo đúng Điều 12 Phụ lục IV, áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) các thủ tục nói ở điểm j;
l) Thi hành việc kiểm soát đối với những hoạt động tiến hành trong vùng theo đúng Điều 153, khoản 4 và các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực;
m) Dựa vào kiến nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, theo đúng Điều 150, điểm h, định ra các biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo vệ các quốc gia đang phát triển khỏi bị những tác động kinh tế bất lợi nói trong quy định đó;
n) Dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, làm các kiến nghị gửi lên Đại hội đồng về việc lập chế độ bù trừ hay định ra các biện pháp giúp đỡ người khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế đã được trù định ở Điều 151, khoản 10;
o) i. Kiến nghị lên Đại hội đồng những quy tắc, quy định và thủ tục về việc phân chia công bằng những mối lợi về tài chính và những mối lợi kinh tế khác, thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, cũng như về các khoản đóng góp được trù định ở Điều 82, đặc biệt lưu ý đến các lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển và của các dân tộc chưa giành được độc lập hoàn toàn hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác;
ii. Thông qua và áp dụng tạm thời, trong khi chờ đợi Đại hội đồng chuẩn y, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và mọi điều sửa đổi đối với những văn bản này, có lưu ý đến những kiến nghị của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ quan cấp dưới có liên quan khác. Những quy tắc, quy định và thủ tục này đề cập việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong Vùng, cũng như việc quản lý tài chính và hành chính nội bộ của quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc thăm dò và khai thác các khối đa kim. Các quy tắc, quy định, thủ tục thăm dò và khai thác mọi tài nguyên ngoài các khối đa kim được thông qua trong một thời hạn 3 năm kể từ ngày Cơ quan quyền lực nhận được đơn của một trong các ủy viên của mình về vấn đề này. Các quy tắc, quy định và thủ tục đó có hiệu lực tạm thời đến khi được Đại hội đồng chuẩn y hoặc đến khi được Hội đồng sửa đổi dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng phát biểu;
p) Quan tâm đến việc thanh toán tất cả các khoản tiền do Cơ quan quyền lực nợ hay phải trả cho Cơ quan quyền lực, về các hoạt động được thực hiện theo đúng phần này;
q) Tiến hành lựa chọn giữa những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo Điều 7 của Phụ lục III, trong những trường hợp được trù định trong điều đó;
r) Đệ trình dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực lên Đại hội đồng để được phê chuẩn;
s) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về chính sách phải theo đối với mọi vấn đề hay mọi viện thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực;
t) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về việc đình chỉ thi hành các quyền và đặc quyền gắn liền với tư cách ủy viên theo Điều 185;
u) Nhân danh Cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển xét xử trong những trường hợp không tuân thủ;
v) Thông báo cho Đại hội đồng quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển đã được giao cho xét xử theo điểm u, và có những kiến nghị về các biện pháp mà Hội đồng thấy cần thiết phải thi hành;
w) Trong trường hợp khẩn cấp thì ra lệnh và tùy theo tình hình, kể cả lệnh đình chỉ hay thay đổi các hoạt động, để đề phòng mọi thiệt hại nghiêm trọng có thể gây ra cho môi trường biển vì các hoạt động tiến hành trong Vùng;
x) Không cho các người ký kết hợp đồng hay xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển;
y) Thành lập một cơ quan phụ trợ chuyên trách việc dự thảo những quy tắc, thủ tục và quy định tài chính có liên quan đến:
i. Việc quản lý tài chính theo đúng các Điều 171 đến 175; và
ii. Các thể thức tài chính được trù định trong Điều 134 và Điều 17, khoản 1, điểm c, của phụ lục III;
z) Bố trí các bộ máy thích hợp để điều khiển và giám sát một đoàn thanh tra làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng để xác định xem phầm này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều kiện của các hợp đồng được ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không.
ĐIỀU 163. Các cơ quan của Hội đồng
1. Các cơ quan của Hội đồng thành
lập gồm có:
a) Một Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế;
b) Một Ủy ban pháp lý và kỹ thuật.
b) Một Ủy ban pháp lý và kỹ thuật.
2. Mỗi ủy ban gồm 15 ủy viên do Hội
đồng bầu ra trong số các ứng cử viên do các quốc gia thành viên giới thiệu. Tuy
nhiên, nếu cần thiết, Hội đồng có thể quyết định mở rộng các thành phần của Ủy
ban này hay ủy ban kia, nhưng phải tính đến yêu cầu về tiết kiệm và về hiệu
quả.
3. Các ủy viên của mỗi ủy ban phải
có trình độ chuyên môn cần thiết trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của ủy
ban. Để bảo đảm cho các ủy ban thực hiện chức năng có hiệu quả, các quốc gia
thành viên cử các ứng cử viên tinh thông nghiệp vụ nhất, có trình độ chuyên môn
cần thiết trong các lĩnh vực tương ứng.
4. Khi lựa chọn, cần phải tính đến
sự cần thiết phải phân bổ các thành viên công bằng theo địa lý và đại diện được
cho các lợi ích đặc biệt.
5. Không một quốc gia thành viên nào
có thể giới thiệu quá một ứng cử viên vào cùng một ủy ban. Không ai có thể được
bầu vào quá một ủy ban.
6. Các ủy viên của ủy ban được bầu
với nhiệm kỳ là 5 năm. Họ có thể được bầu lại một nhiệm kỳ mới.
7. Trong trường hợp một ủy viên của
một ủy ban bị chết, bất lực hay từ chức trước khi hết nhiệm kỳ, thì Hội đồng
bầu một ủy viên của cùng khu vực địa lý hay đại diện cho cùng loại lợi ích để
tiêp tục hoàn thành nhiệm kỳ của ủy viên trước.
8. Các ủy viên của các ủy ban không
được có lợi ích tài chính trong bất kỳ hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò
và khai thác ở Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với ủy ban mà họ là ủy
viên, họ không được phép tiết lộ một bí mật công nghiệp nào hay số liệu nào
thuộc sở hữu công nghiệp đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14
của Phụ lục III, cũng không được tiết lộ các tin tức bí mật mà họ biết được do
chức trách của họ ngay cả sau khi họ đã thôi việc cũng vậy.
9. Mỗi ủy ban phải làm tròn chức
năng của mình theo đúng các nguyên tắc và các chỉ thị do Hội đồng quyết định.
10. Mỗi ủy ban soạn thảo và trình
lên Hội đồng thông qua các quy tắc và quy định cần thiết để ủy ban hoạt động
được tốt.
11. Các thủ tục ra quyết định của
các ủy ban do các quy tắc, quy định và các thủ tục của cơ quan quyền lực quy
định. Nếu có thể được thì những kiến nghị gửi lên Hội đồng phải kèm theo một
bản trình bày tóm tắt những ý kiến khác nhau trong ủy ban.
12. Bình thường, các ủy ban làm việc
ở trụ sở của Cơ quan quyền lực và phải nhóm họp theo sự cần thiết để hoàn thành
chức năng của mình một cách có hiệu quả.
13. Trong việc thi hành chức năng
của mình, nếu có thể được thì mỗi ủy ban tham khảo ý kiến của ủy ban khác hay
mọi cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc và của các cơ quan chuyên môn của
Liên hợp quốc hoặc mọi tổ chức quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực xem xét.
ĐIỀU 164. Ủy ban kế hoạch hóa kinh
tế
1. Các ủy viên của ủy ban kế hoạch
hóa kinh tế cần có trình độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt khai thác mỏ,
quản lý các tài nguyên khoáng sản, thương mại quốc tế và về kinh tế quốc tế.
Hội đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy ban, qua thành phần của mình, có trình độ nghiệp
vụ cần thiết một cách đồng bộ. Trong số ủy viên của Ủy ban phải có ít nhất hai
công dân của quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào việc
xuất khẩu các loại khoáng sản trong Vùng.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, đề
xuất các biện pháp thực hiện các quyết định được thông qua theo đúng Công ước
có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng;
b) Nghiên cứu các xu hướng của cung, cầu và giá cả của các khoáng sản có thể lấy từ Vùng, cũng như các nhân tố có tác động đến các dữ kiện này, có lưu ý đến các lợi ích của các nước nhập khẩu, cũng như của các nước xuất khẩu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong số các nước đó;
c) Xem xét mọi tình huống có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi đã đề cập ở Điều 150, điểm h, do quốc gia thành viên hay các quốc gia thành viên hữu quan đã lưu ý Ủy ban và gửi các kiến nghị thích hợp lên Hội đồng;
d) Đề xuất với Hội đồng để đệ trình lên Đại hội đồng, như được trù định trong Điều 151, khoản 10, một chế độ bù trừ có lợi cho các nước đang phát triển mà các hoạt động tiến hành trong Vùng đã gây nên những ảnh hưởng bất lợi hoặc là các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế, và gửi lên Hội đồng những kiến nghị cần thiết để thực hiện, trong những trường hợp cụ thể, chế độ bù trừ hay các biện pháp giúp đỡ đã được Đại hội đồng chấp nhận.
b) Nghiên cứu các xu hướng của cung, cầu và giá cả của các khoáng sản có thể lấy từ Vùng, cũng như các nhân tố có tác động đến các dữ kiện này, có lưu ý đến các lợi ích của các nước nhập khẩu, cũng như của các nước xuất khẩu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong số các nước đó;
c) Xem xét mọi tình huống có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi đã đề cập ở Điều 150, điểm h, do quốc gia thành viên hay các quốc gia thành viên hữu quan đã lưu ý Ủy ban và gửi các kiến nghị thích hợp lên Hội đồng;
d) Đề xuất với Hội đồng để đệ trình lên Đại hội đồng, như được trù định trong Điều 151, khoản 10, một chế độ bù trừ có lợi cho các nước đang phát triển mà các hoạt động tiến hành trong Vùng đã gây nên những ảnh hưởng bất lợi hoặc là các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế, và gửi lên Hội đồng những kiến nghị cần thiết để thực hiện, trong những trường hợp cụ thể, chế độ bù trừ hay các biện pháp giúp đỡ đã được Đại hội đồng chấp nhận.
ĐIỀU 165. Ủy ban pháp lý và kỹ thuật
1. Các ủy viên của Ủy ban pháp lý và
kỹ thuật phải có trình độ nghiệp vụ cần thiết, nhất là về mặt thăm dò, khai
thác và chế biến tài nguyên khoáng sản, về hải dương học và về việc bảo vệ môi
trường biển hoặc về những vấn đề kinh tế hay pháp lý liên quan đến các hoạt
động khai thác quặng ở biển hay trong những lĩnh vực có liên quan khác. Hội
đồng cố gắng bảo đảm cho Ủy ban qua thành phần của mình có trình độ nghiệp vụ
cần thiết một cách đồng bộ.
2. Ủy ban có nhiệm vụ:
a) Theo yêu cầu của Hội đồng, soạn
thảo các kiến nghị lên Hội đồng về việc thi hành các chức năng của Cơ quan
quyền lực;
b) Xem xét các kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng theo đúng Điều 153, khoản 3 và trình lên Hội đồng các kiến nghị thích hợp. Ủy ban chỉ dựa vào những quy định trong Phụ lục III, để chuẩn bị các kiến nghị và trình lên Hội đồng một báo cáo đầy đủ về các kiến nghị đó;
c) Theo yêu cầu của Hội đồng, giám sát các hoạt động tiến hành trong Vùng, nếu có thể được, thì hỏi ý kiến và hợp tác với mọi thực thể hay cá nhân tiến hành các hoạt động này hay với quốc gia hay các quốc gia hữu quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng;
d) Đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động đã tiến hành hoặc đang tiến hành trong Vùng;
e) Làm các kiến nghị gửi lên Hội đồng về việc bảo vệ môi trường biển, có chú ý đến các ý kiến của các chuyên gia được thừa nhận;
f) Soạn thảo và đệ trình lên Hội đồng các quy tắc, quy định và thủ tục nêu ở Điều 162, khoản 2, điểm o, có tính đến tất cả các yếu tố thích hợp, kể các việc đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động tiến hành trong Vùng;
g) Qua từng thời kỳ, xem xét lại những quy tắc, quy định và thủ tục này và kiến nghị lên Hội đồng những điều sửa đổi mà mình xét thấy cần thiết hay nên làm;
h) Gửi các kiến nghị lên Hội đồng liên quan đến việc bố trí một chương trình giám sát bao gồm việc quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích định kỳ bằng những phương pháp khoa học được thừa nhận đối với những nguy cơ hay ảnh hưởng của các hoạt động tiến hành trong Vùng về mặt ô nhiễm môi trường biển, bảo đảm cho các quy định hiện có được thích hợp và được tôn trọng, và việc phối hợp thực hiện chương trình giám sát, một khi chương trình này được Hội đồng chuẩn y;
i) Kiến nghị lên Hội đồng để Hội đồng nhân danh cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển xét xử, đặc biệt lưu ý đến Điều 187, theo đúng phần này và các phụ lục có liên quan đến phần này;
j) Trình lên Hội đồng các kiến nghị về các biện pháp thi hành sau khi Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được giao giải quyết theo điểm i đã ra quyết định;
k) Kiến nghị lên Hội đồng để trong trường hợp khẩn cấp, Hội đồng ra lệnh, kể cả lệnh đình chỉ hoặc sửa đổi các hoạt động nếu cần, nhằm phòng ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào có thể gây ra cho môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong Vùng; Hội đồng ưu tiên xem xét các kiến nghị này;
l) Kiến nghị lên Hội đồng không cho những người ký kết hợp đồng hay Xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ gây ra tổn thất nghiêm trọng cho môi trường biển;
m) Gửi các kiến nghị đó lên Hội đồng liên quan đến việc chỉ đạo và giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều khoản, điều kiện của mọi hợp đồng đã ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không;
n) Tính toán sản lượng tối đa và thay mặt Cơ quan quyền lực cấp giấy phép sản xuất theo Điều 151, từ khoản 2 đến khoản 7, một khi Hội đồng đã tiến hành sự lựa chọn cần thiết, nếu như cần phải chọn, trong số những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo đúng Điều 7 của Phụ lục III.
b) Xem xét các kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản có liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng theo đúng Điều 153, khoản 3 và trình lên Hội đồng các kiến nghị thích hợp. Ủy ban chỉ dựa vào những quy định trong Phụ lục III, để chuẩn bị các kiến nghị và trình lên Hội đồng một báo cáo đầy đủ về các kiến nghị đó;
c) Theo yêu cầu của Hội đồng, giám sát các hoạt động tiến hành trong Vùng, nếu có thể được, thì hỏi ý kiến và hợp tác với mọi thực thể hay cá nhân tiến hành các hoạt động này hay với quốc gia hay các quốc gia hữu quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng;
d) Đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động đã tiến hành hoặc đang tiến hành trong Vùng;
e) Làm các kiến nghị gửi lên Hội đồng về việc bảo vệ môi trường biển, có chú ý đến các ý kiến của các chuyên gia được thừa nhận;
f) Soạn thảo và đệ trình lên Hội đồng các quy tắc, quy định và thủ tục nêu ở Điều 162, khoản 2, điểm o, có tính đến tất cả các yếu tố thích hợp, kể các việc đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động tiến hành trong Vùng;
g) Qua từng thời kỳ, xem xét lại những quy tắc, quy định và thủ tục này và kiến nghị lên Hội đồng những điều sửa đổi mà mình xét thấy cần thiết hay nên làm;
h) Gửi các kiến nghị lên Hội đồng liên quan đến việc bố trí một chương trình giám sát bao gồm việc quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích định kỳ bằng những phương pháp khoa học được thừa nhận đối với những nguy cơ hay ảnh hưởng của các hoạt động tiến hành trong Vùng về mặt ô nhiễm môi trường biển, bảo đảm cho các quy định hiện có được thích hợp và được tôn trọng, và việc phối hợp thực hiện chương trình giám sát, một khi chương trình này được Hội đồng chuẩn y;
i) Kiến nghị lên Hội đồng để Hội đồng nhân danh cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển xét xử, đặc biệt lưu ý đến Điều 187, theo đúng phần này và các phụ lục có liên quan đến phần này;
j) Trình lên Hội đồng các kiến nghị về các biện pháp thi hành sau khi Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được giao giải quyết theo điểm i đã ra quyết định;
k) Kiến nghị lên Hội đồng để trong trường hợp khẩn cấp, Hội đồng ra lệnh, kể cả lệnh đình chỉ hoặc sửa đổi các hoạt động nếu cần, nhằm phòng ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào có thể gây ra cho môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong Vùng; Hội đồng ưu tiên xem xét các kiến nghị này;
l) Kiến nghị lên Hội đồng không cho những người ký kết hợp đồng hay Xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ gây ra tổn thất nghiêm trọng cho môi trường biển;
m) Gửi các kiến nghị đó lên Hội đồng liên quan đến việc chỉ đạo và giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều khoản, điều kiện của mọi hợp đồng đã ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không;
n) Tính toán sản lượng tối đa và thay mặt Cơ quan quyền lực cấp giấy phép sản xuất theo Điều 151, từ khoản 2 đến khoản 7, một khi Hội đồng đã tiến hành sự lựa chọn cần thiết, nếu như cần phải chọn, trong số những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo đúng Điều 7 của Phụ lục III.
3. Theo yêu cầu của mọi quốc gia
thành viên mọi bên hữu quan khác, các ủy viên của Ủy ban, khi thực hiện chức
trách giám sát và thanh tra của mình phải cho một đại diện của quốc gia hay của
bên hữu quan này tham dự.
TIỂU MỤC D - BAN THƯ KÝ
ĐIỀU 166. Ban thư ký
1. Ban thư ký của Cơ quan quyền lực
gồm có một Tổng thư ký và số nhân viên theo sự cần thiết của Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký do Đại hội đồng bầu
ra trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị với nhiệm kỳ là 4 năm và có thể
được bầu lại.
3. Tổng thư ký là viên chức cao nhất
của Cơ quan quyền lực và hoạt động với tư cách này trong tất cả các cuộc họp
của Đại hội đồng và Hội đồng và của mọi cơ quan phụ trợ. Tổng thư ký thực hiện
mọi chức trách hành chính khác mà cơ quan này giao cho.
4. Tổng thư ký trình lên Đại hội
đồng một báo cáo hàng năm về hoạt động của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 167. Nhân viên của Cơ quan
quyền lực
1. Nhân viên của Cơ quan quyền lực
bao gồm những người có trình độ nghiệp vụ trong các lĩnh vực khác mà Cơ quan
quyền lực cần để thi hành các chức năng quản lý của mình.
2. Căn cứ cao nhất trong vấn đề
tuyển lựa và xác định các điều kiện sử dụng nhân viên là bảo đảm cho Cơ quan
quyền lực có những nhân viên phục vụ có năng lực làm việc cao nhất, tinh thông
và liêm khiết nhất. Ngoài căn cứ này, phải tính đến tầm quan trọng của việc
tuyển lựa trên cơ sở địa lý càng rộng rãi càng tốt.
3. Nhân viên do Tổng thư ký bổ
nhiệm. Các điều kiện và thể thức bổ nhiệm, trả lương và thải hồi phải phù hợp
với các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 168. Tính chất quốc tế của Ban
thư ký
1. Trong khi thực hiện chức trách
của mình, Tổng thư ký và nhân viên không được xin hay nhận chỉ thị của bất kỳ
một chính phủ nào hay một nguồn nào khác ngoài Cơ quan quyền lực. Tổng thư ký
và nhân viên tránh mọi hành vi không phù hợp với tư cách các viên chức quốc tế
và họ chỉ chịu trách nhiệm đối với Cơ quan quyền lực. Mỗi quốc gia thành viên cam
kết tôn trọng tính chất quốc tế thuần túy của các chức trách của Tổng thư ký và
nhân viên của Cơ quan quyền lực và cam kết không tìm cách gây ảnh hưởng đến họ
trong khi họ thi hành nhiệm vụ. Mọi hoạt động thiếu trách nhiệm của một viên
chức được đưa ra trước một tòa án hành chính được chỉ định theo các quy tắc,
quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực.
2. Tổng thư ký và nhân viên không
được có những lợi lộc tài chính trong một hoạt động nào liên quan đến việc thăm
dò và khai thác tiến hành trong Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với Cơ
quan quyền lực, họ không được tiết lộ một bí mật nào, một số liệu nào thuộc sở
hữu công nghiệp và đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14, Phụ
lục III và một thông tin mật nào khác mà họ biết do các chức trách của họ ngay
cả sau khi đã thôi việc cũng vậy.
3. Nếu một viên chức của Cơ quan
quyền lực có những thiếu sót đối với các nghĩa vụ nói ở khoản 2 thì, theo yêu
cầu của một quốc gia thành viên bị thiệt hại sao thiếu sót đó, hay theo yêu cầu
của một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo
Điều 153, khoản 2, điểm b bị thiệt hại do thiếu sót này, Cơ quan quyền lực sẽ
truy tố viên chức này trước một tòa án được chỉ định theo các quy tắc, quy định
và thủ tục của Cơ quan quyền lực. Bên bị thiệt hại có quyền tham gia vào việc
tố tụng, nếu tòa án kiến nghị, Tổng thư ký phải thải hồi nhân viên đó.
4. Các quy tắc, quy định và thủ tục
của Cơ quan quyền lực trù định các thể thức áp dụng điều này.
ĐIỀU 169. Tham khảo ý kiến và hợp
tác với các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ
1. Đối với các vấn đề thuộc thẩm
quyền của Cơ quan quyền lực, Tổng thư ký, sau khi được Hội đồng phê chuản, ký
các thỏa thuận để tham khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế và các tổ
chức phi chính phủ được Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc thừa nhận.
2. Bất kỳ tổ chức nào mà Tổng thư ký đã ký với họ một thỏa thuận theo khoản 1 đều có thể chỉ định các đại diện tham dự với tư cách là quan sát viên vào các hội nghị của các cơ quan thuộc Cơ quan quyền lực, theo đúng quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các thủ tục được định ra để cho các tổ chức đó trình bày quan điểm của họ trong những trường hợp thích hợp.
2. Bất kỳ tổ chức nào mà Tổng thư ký đã ký với họ một thỏa thuận theo khoản 1 đều có thể chỉ định các đại diện tham dự với tư cách là quan sát viên vào các hội nghị của các cơ quan thuộc Cơ quan quyền lực, theo đúng quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các thủ tục được định ra để cho các tổ chức đó trình bày quan điểm của họ trong những trường hợp thích hợp.
3. Tổng thư ký có thể phân phát cho
các quốc gia thành viên các báo cáo bằng văn bản của các tổ chức phi chính phủ
nói ở khoản 1 về các vấn đề thuộc thẩm quyền riêng của họ và có liên quan đến
công việc của Cơ quan quyền lực.
TIỂU MỤC E - XÍ NGHIỆP
ĐIỀU 170. Xí nghiệp
1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan
quyền lực trực tiếp tiến hành các hoạt động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2,
điểm a, cũng như các hoạt động vận chuyển, chế biến và buôn bán các khoáng sản
được khai thác trong Vùng.
2. Trong khuôn khổ của Cơ quan quyền
lực là pháp nhân quốc tế, Xí nghiệp có tư cách pháp nhân được trù định trong
Phụ lục IV. Xí nghiệp hoạt động theo đúng Công ước và các quy tắc, quy định và
thủ tục của Cơ quan quyền lực, cũng như theo đúng chính sách chung do Đại hội
đồng quyết định, và Xí nghiệp tuân theo các chỉ thị của Hội đồng và chịu sự
kiểm soát của cơ quan này.
3. Xí nghiệp có cơ quan chính đóng
tại trụ sở của Cơ quan quyền lực.
4. Theo đúng Điều 173, khoản 2 và
Điều 11 của Phụ lục IV, Xí nghiệp có những nguồn tài chính cần thiết để thực
hiện các chức năng của mình, và có các kỹ thuật đã được chuyển giao theo Điều
144 và theo các quy định thích hợp khác của Công ước.
TIỂU MỤC F - TỔ CHỨC TÀI CHÍNH CỦA
CƠ QUAN QUYỀN LỰC
ĐIỀU 171. Các nguồn tài chính của Cơ
quan quyền lực
Các nguồn tài chính của Cơ quan
quyền lực gồm có:
a) Các khoản đóng góp của các thành viên của Cơ quan quyền lực được quy định theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm e;
b) Những thu nhập mà Cơ quan quyền lực thu được, theo Điều 13 của Phụ lục III, từ các hoạt động tiến hành trong Vùng;
c) Các khoản tiền do Xí nghiệp chuyển khoản theo Điều 10 của Phụ lục IV;
d) Vốn đi vay theo Điều 174;
e) Các khoản đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên hay của các nguồn khác; và
f) Các khoản nộp vào một quỹ bù trừ theo đúng Điều 151, khoản 10 mà Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế phải kiến nghị các nguồn.
a) Các khoản đóng góp của các thành viên của Cơ quan quyền lực được quy định theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm e;
b) Những thu nhập mà Cơ quan quyền lực thu được, theo Điều 13 của Phụ lục III, từ các hoạt động tiến hành trong Vùng;
c) Các khoản tiền do Xí nghiệp chuyển khoản theo Điều 10 của Phụ lục IV;
d) Vốn đi vay theo Điều 174;
e) Các khoản đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên hay của các nguồn khác; và
f) Các khoản nộp vào một quỹ bù trừ theo đúng Điều 151, khoản 10 mà Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế phải kiến nghị các nguồn.
ĐIỀU 172. Ngân sách hàng năm của Cơ
quan quyền lực
Tổng thư ký lập dự án ngân sách hàng
năm của Cơ quan quyền lực và trình lên Hội đồng. Hội đồng xem xét dự án đó và
đệ trình lên Đại hội đồng với những kiến nghị của mình để Đại hội đồng phê
chuẩn theo Điều 160, khoản 2, điểm h.
ĐIỀU 173. Chi phí của Cơ quan quyền
lực
1. Những khoản đóng góp nói ở Điều
171, điểm a được nộp vào một tài khoản đặc biệt và dùng để trang trải các khoản
cho hành chính của Cơ quan quyền lực cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các
khoản thu từ các nguồn khác đủ để trang trải các khoản chi này. 2. Các nguồn
tài chính của Cơ quan quyền lực trước tiên dùng để thanh toán những khoản chi
hành chính. Ngoài những khoản đóng góp nói ở Điều 171, điểm a, quỹ còn lại sau
khi thanh toán các chi phí hành chính có thể dùng, đặc biệt để:
a) Phân chia theo đúng Điều 140 và
Điều 160, khoản 2, điểm g;
b) Cấp cho Xí nghiệp các nguồn vốn nói ở Điều 170, khoản 4;
c) Đền bù cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Điều 151 khoản 10 và với Điều 160, khoản 2, điểm l.
b) Cấp cho Xí nghiệp các nguồn vốn nói ở Điều 170, khoản 4;
c) Đền bù cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Điều 151 khoản 10 và với Điều 160, khoản 2, điểm l.
ĐIỀU 174. Quyền vay vốn của Cơ quan
quyền lực
1. Cơ quan quyền lực có quyền vay
vốn.
2. Đại hội đồng ấn định giới hạn của
quyền này trong quy chế tài chính được thông qua theo Điều 160, khoản 2, điểm
f.
3. Hội đồng thực hiện quyền vay vốn
này.
4. Các quốc gia thành viên không
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Cơ quan quyền lực.
ĐIỀU 175. Kiểm tra tài chính hàng
năm
Mỗi năm các báo cáo sổ sách và tài
khoản của Cơ quan quyền lực, kể cả các bản quyết toán tài chính hàng năm được
một kiểm soát viên độc lập do Đại hội đồng cử ra kiểm tra.
TIỂU MỤC G - QUY CHẾ PHÁP LÝ, CÁC
ĐẶC QUYỀN VÀ QUYỀN MIỄN TRỪ
ĐIỀU 176. Quy chế pháp lý
Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc
tế và có quyền về pháp lý cần thiết để thi hành chức năng và đạt tới các mục
đích của mình.
ĐIỀU 177. Các đặc quyền và quyền
miễn trừ
Để có thể thực hiện các chức năng
của mình, Cơ quan quyền lực được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành
viên những đặc quyền và quyền miễn trừ được trù định trong tiểu mục này. Những
đặc quyền và quyền miễn trừ liên quan đến Xí nghiệp được trù định ở Điều 13 của
Phụ lục IV.
ĐIỀU 178. Quyền miễn trừ về mặt tài
phán và tịch thu tài sản
Cơ quan quyền lực cũng như tài sản
và của cải của mình đều được hưởng quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu
tài sản, trừ phạm vi mà Cơ quan
quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc biệt.
quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc biệt.
ĐIỀU 179. Quyền miễn trừ khám xét và
miễn mọi hình thức sai áp khác
Những của cải và tài sản của Cơ quan
quyền lực, dù chúng nằm ở đâu và người giữ chúng là ai, đều được miễn khám xét,
trưng thu, tịch thu, tước đoạt và mọi hình thức sai áp khác theo một biện pháp
của cơ quan hành pháp hay lập pháp.
ĐIỀU 180. Quyền miễn trừ mọi sự kiểm
soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nợ
Tài sản và của cải của Cơ quan quyền
lực được miễn mọi sự kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nợ nào.
ĐIỀU 181. Hồ sơ và các thông tin
chính thức của Cơ quan quyền lực
1. Hồ sơ của Cơ quan quyền lực dù
chúng được cất giữ ở đâu đều bất khả xâm phạm.
2. Các số liệu thuộc sở hữu công
nghiệp, các thông tin thuộc bí mật công nghiệp của Cơ quan quyền lực và các
thông tin tương tự, cũng như các hồ sơ về nhân sự không được để trong các cơ
quan lưu trữ đại chúng.
3. Đối với các thông tin chính thức,
mỗi quốc gia thành viên dành cho Cơ quan đối xử ít nhất cũng thuận tiện như đối
với các tổ chức quốc tế khác.
ĐIỀU 182. Các đặc quyền và quyền
miễn trừ đối với các nhân viên hoạt động trong khuôn khổ của Cơ quan quyền lực
Đại biểu các quốc gia thành viên
tham dự các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng hoặc của các cơ quan của
Đại hội đồng hay của Hội đồng, cũng như Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan
quyền lực, được hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên:
a) Quyền miễn trừ về tài phán và
tịch thu tài sản đối với các hành động của họ trong khi thi hành các chức vụ
của mình, trừ phạm vi quốc gia mà họ đại diện hoặc Cơ quan quyền lực đã từ bỏ
rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc biệt;
b) Các quyền miễn trừ như các quyền đã được quốc gia mà trên lãnh thổ quốc gia đó họ có mặt, dành cho các đại diện, công chức và nhân cấp tương đương của các quốc gia thành viên khác về các điều kiện nhập cư, các thủ tục đăng ký người nước ngoài và các nghĩa vụ phục vụ quốc gia, cũng như các điều kiện thuận tiện như thế liên quan đến quy định về hối đoái và về di chuyển, trừ khi họ là công dân của quốc gia hữu quan.
b) Các quyền miễn trừ như các quyền đã được quốc gia mà trên lãnh thổ quốc gia đó họ có mặt, dành cho các đại diện, công chức và nhân cấp tương đương của các quốc gia thành viên khác về các điều kiện nhập cư, các thủ tục đăng ký người nước ngoài và các nghĩa vụ phục vụ quốc gia, cũng như các điều kiện thuận tiện như thế liên quan đến quy định về hối đoái và về di chuyển, trừ khi họ là công dân của quốc gia hữu quan.
ĐIỀU 183. Miễn thuế hay lệ phí và
miễn thuế quan
1. Trong khi thi hành chức năng của mình, Cơ quan quyền lực cùng với của cải, tài sản và thu nhập của mình, cũng như những hoạt động và giao dịch được Công ước này cho phép, đều được miễn mọi thứ thuế trực thu và các tài sản mà Cơ quan quyền lực nhập khẩu hay xuất khẩu để sử dụng trong công vụ đều được miễn mọi thứ thuế quan. Cơ quan quyền lực không thể yêu cầu miễn bất cứ khoản tiền phải trả nào cho các dịch vụ mà họ được hưởng.
1. Trong khi thi hành chức năng của mình, Cơ quan quyền lực cùng với của cải, tài sản và thu nhập của mình, cũng như những hoạt động và giao dịch được Công ước này cho phép, đều được miễn mọi thứ thuế trực thu và các tài sản mà Cơ quan quyền lực nhập khẩu hay xuất khẩu để sử dụng trong công vụ đều được miễn mọi thứ thuế quan. Cơ quan quyền lực không thể yêu cầu miễn bất cứ khoản tiền phải trả nào cho các dịch vụ mà họ được hưởng.
2. Đối với những việc mua của cải
hay trả tiền dịch vụ của Cơ quan quyền lực hay nhân danh Cơ quan quyền lực có
một giá trị lớn, cần thiết cho việc thực hiện chức năng của Cơ quan quyền lực
và nếu giá các loại tài sản đó hay giá dịch vụ đó bao gồm cả thuế, lệ phí hay
thuế quan, thì các quốc gia thành viên sẽ cố gắng hết sức thi hành những biện
pháp thích hợp để miễn hay hoàn lại các khoản thuế, lệ phí hay thuế quan. Các
của cải nhập khẩu hay mua theo chế độ miễn trừ được quy định ở điều này không
được bán, chuyển nhượng bằng cách nào khác trên lãnh thổ của quốc gia thành
viên đã cho phép miễn thuế, trừ khi việc đó được tiến hành theo các điều kiện
đã thỏa thuận với quốc gia thành viên này.
3. Các quốc gia thành viên không
được thu một loại thuế trực thu hay gián thu nào đánh vào tiền lương, tiền thù
lao hay vào các khoản tiền khác mà Cơ quan quyền lực trả cho Tổng thư ký và cho
các nhân viên của mình, cũng như cho các chuyên gia thực hiện những nhiệm vụ do
Cơ quan quyền lực giao, trừ khi họ là công dân của các nước đó.
TIỂU MỤC H - ĐÌNH CHỈ VIỆC HƯỞNG CÁC
QUYỀN VÀ ĐẶC QUYỀN CỦA CÁC THÀNH VIÊN
ĐIỀU 184. Đình chỉ quyền bỏ phiếu
Trong việc thanh toán các khoản đóng
góp của mình cho Cơ quan quyền lực, một quốc gia thành viên nộp chậm, thì không
được tham gia vào các cuộc bỏ phiếu, nếu tổng số tiền còn thiếu bằng hoặc cao
hơn tổng số tiền phải đóng góp cho 2 năm tròn đã qua. Đại hội đồng có thể cho
phép thành viên này tham gia bỏ phiếu, nếu Đại hội đồng xét thấy việc thiếu sót này là do
những hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của họ.
ĐIỀU 185. Đình chỉ việc hưởng các
quyền và đặc quyền vốn có của các thành viên
1. Một quốc gia vi phạm phần này một
cách nghiêm trọng và kéo dài thì có thể bị Đại hội đồng, theo kiến nghị của Hội
đồng đình chỉ việc hưởng các quyền và đặc quyền vốn có của thành viên.
2. Không một quyết định nào có thể
được thi hành theo khoản 1, chừng nào mà Viện giải quyết các tranh chấp liên
quan đến đáy biển không xác nhận rằng quốc gia thành viên hữu quan đã vi phạm
phần này một cách nghiêm trọng và kéo dài.
Mục 5 - GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÀ
Ý KIẾN TƯ VẤN
ĐIỀU 186. Viện giải quyết các tranh
chấp liên quan đến đáy biển của Tòa án quốc tế về luật biển
Mục này, phần XV và Phụ lục VI điều
chỉnh quy chế của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển và các
cách thức mà Viện thi hành thẩm quyền của mình,
ĐIỀU 187. Thẩm quyền của Viện giải
quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển
Theo phần này và các phụ lục có liên
quan, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển có thẩm quyền xét
xử những loại tranh chấp về những hoạt động tiến hành trong Vùng sau đây:
a) Các vụ tranh chấp giữa các quốc
gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng phần này và các phụ
lục có liên quan;
b) Các vụ tranh chấp giữa một quốc gia thành viên và Cơ quan quyền lực liên quan đến:
i. Các hành động hay thiếu sót của Cơ quan quyền lực hay của một quốc gia thành viên được viện dẫn là đã vi phạm các quy định của phần này
hay các phụ lục có liên quan hay các quy tắc quy định hay thủ tục đã được Cơ quan quyền lực thông qua theo đúng các quy định này; hoặc
ii. Các hành động của Cơ quan quyền lực được viện dẫn là đã vượt quá thẩm quyền của mình hay đã lạm quyền;
c) Các vụ tranh chấp giữa các bên ký kết một hợp đồng, dù các bên này là các quốc gia thành viên, là Cơ quan quyền lực hay Xí nghiệp, hay các xí nghiệp của Nhà nước hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b, liên quan đến:
i. Việc giải thích hay thi hành một hợp đồng hay một kế hoạch làm việc; hoặc
ii. Các hành động hay thiếu sót của một bên ký kết hợp đồng liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng và làm ảnh hưởng đến bên khác hay trực tiếp gây tổn hại đến các lợi ích chính đáng của các bên khác đó;
d) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một người yêu cầu được một quốc gia bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b và đã thoản mãn các điều kiện được quy định ở Điều 4, khoản 6 và Điều 13, khoản 2 của Phụ lục III, có liên quan đến việc từ chối ký kết hợp đồng hay đến một vấn đề pháp lý nảy sinh trong khi thương lượng về hợp đồng;
e) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một quốc gia thành viên, một xí nghiệp Nhà nước hoặc một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b, khi thấy rằng, theo Điều 22 của Phụ lục III, việc tranh chấp này có đụng đến trách nhiệm của Cơ quan quyền lực;
f) Bất kỳ tranh chấp nào khác mà Công ước đã trù định rõ ràng Viện có thẩm quyền giải quyết.
b) Các vụ tranh chấp giữa một quốc gia thành viên và Cơ quan quyền lực liên quan đến:
i. Các hành động hay thiếu sót của Cơ quan quyền lực hay của một quốc gia thành viên được viện dẫn là đã vi phạm các quy định của phần này
hay các phụ lục có liên quan hay các quy tắc quy định hay thủ tục đã được Cơ quan quyền lực thông qua theo đúng các quy định này; hoặc
ii. Các hành động của Cơ quan quyền lực được viện dẫn là đã vượt quá thẩm quyền của mình hay đã lạm quyền;
c) Các vụ tranh chấp giữa các bên ký kết một hợp đồng, dù các bên này là các quốc gia thành viên, là Cơ quan quyền lực hay Xí nghiệp, hay các xí nghiệp của Nhà nước hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b, liên quan đến:
i. Việc giải thích hay thi hành một hợp đồng hay một kế hoạch làm việc; hoặc
ii. Các hành động hay thiếu sót của một bên ký kết hợp đồng liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng và làm ảnh hưởng đến bên khác hay trực tiếp gây tổn hại đến các lợi ích chính đáng của các bên khác đó;
d) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một người yêu cầu được một quốc gia bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b và đã thoản mãn các điều kiện được quy định ở Điều 4, khoản 6 và Điều 13, khoản 2 của Phụ lục III, có liên quan đến việc từ chối ký kết hợp đồng hay đến một vấn đề pháp lý nảy sinh trong khi thương lượng về hợp đồng;
e) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một quốc gia thành viên, một xí nghiệp Nhà nước hoặc một tự nhiên nhân hay pháp nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b, khi thấy rằng, theo Điều 22 của Phụ lục III, việc tranh chấp này có đụng đến trách nhiệm của Cơ quan quyền lực;
f) Bất kỳ tranh chấp nào khác mà Công ước đã trù định rõ ràng Viện có thẩm quyền giải quyết.
ĐIỀU 188. Việc đưa những vụ tranh
chấp ra trước một Viện đặc biệt của Tòa án quốc tế về luật biển hay ra trước
một viện ad-hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển hay ra trước một trọng tài thương mại bắt buộc
1. Các vụ tranh chấp giữa các quốc
gia thành viên đề cập ở Điều 187, điểm a có thể được đưa ra trước:
a) Một viện đặc biệt của Tòa án quốc
tế về luật biển được lập ra theo đúng các Điều 15 và 17 của Phụ lục VI, theo
yêu cầu của các bên tranh chấp; hay
b) Một viện ad – hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập ra theo đúng Điều 36 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào.
b) Một viện ad – hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được lập ra theo đúng Điều 36 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan
đến việc giải thích hay áp dụng một hợp đồng nêu ở Điều 187, điểm c điểm nhỏ i
theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào, được đưa ra trước trọng tài thương
mại bắt buộc, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác, Tòa trọng tài
thương mại xét xử một vụ tranh chấp như thế không có thẩm quyền phán xét về một
điểm giải thích Công ước. Nếu vụ tranh chấp bao hàm một điểm giải thích Phần XI
và các phụ lục có liên quan, về các hoạt động tiến hành trong Vùng thì điểm này
phải được chuyển lên cho Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển
quyết định.
b) Lúc khởi tố hay trong quá trình tiến hành một thủ tục trọng tài như vậy, nếu như Tòa trọng tài thương mại, theo yêu cầu của một trong những bên tranh chấp hoặc tự ý mình, thấy rằng quyết định của mình phụ thuộc vào một quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển, thì Tòa trọng tài này phải chuyển đổi quan điểm này lên cho Viện nói trên quyết định. Sau đó, Tòa trọng tài sẽ ra phán quyết theo đúng quyết định của Viện;
c) Nếu trong hợp đồng thiếu một điều quy định về thủ tục trọng tài có thể áp dụng cho vụ tranh chấp, thì công việc trọng tài được thực hiện theo quy chế trọng tài của CNUDCI hay theo bất kỳ quy chế trngj tài nào khác có thể được trù định trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
b) Lúc khởi tố hay trong quá trình tiến hành một thủ tục trọng tài như vậy, nếu như Tòa trọng tài thương mại, theo yêu cầu của một trong những bên tranh chấp hoặc tự ý mình, thấy rằng quyết định của mình phụ thuộc vào một quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển, thì Tòa trọng tài này phải chuyển đổi quan điểm này lên cho Viện nói trên quyết định. Sau đó, Tòa trọng tài sẽ ra phán quyết theo đúng quyết định của Viện;
c) Nếu trong hợp đồng thiếu một điều quy định về thủ tục trọng tài có thể áp dụng cho vụ tranh chấp, thì công việc trọng tài được thực hiện theo quy chế trọng tài của CNUDCI hay theo bất kỳ quy chế trngj tài nào khác có thể được trù định trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
ĐIỀU 189. Giới hạn thẩm quyền liên
quan đến các quyết định của Cơ quan quyền lực
Viện giải quyết các tranh chấp liên
quan đến đáy biển không có thẩm quyền phán xét đối với việc Cơ quan quyền lực,
theo đúng phần này, thi hành các quyền tùy ý quyết định của mình; trong bất kỳ
trường hợp nào, Viện này cũng không thể thay thế cho Cơ quan quyền lực trong
việc thi hành các quyền tùy ý quyết định nói trên. Không phương hại đến Điều
191, khi thi hành thẩm quyền được thừa nhận theo Điều 187, Viện giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đáy biển không được phán xét đối với các vấn đề xem
một quy tắc, quy định hay một thủ tục của Cơ quan quyền lực có phù hợp với Công
ước hay không và không thể tuyên bố quy tắc, quy định hay thủ tục này là vô
hiệu. Thẩm quyền của Viện chỉ giới hạn trong việc xác định xem việc áp dụng quy
tắc, quy định hay thủ tục của Cơ quan quyền lực trong những trường hợp riêng
biệt có ngược lại với những nghĩa vụ theo hợp đồng của các bên tranh chấp hay
với các nghĩa vụ của họ theo Công ước không và xét xử những trường hợp kháng
cáo về việc không đủ thẩm quyền hay lạm quyền, cũng như những yêu cầu bồi
thường thiệt hại và những yêu cầu đền bù khác do một trong các bên kiện bên kia
vì thiếu sót trong việc thi hành nghĩa vụ theo hợp đồng hay nghĩa vụ của họ
theo Công ước.
ĐIỀU 190. Sự tham gia tố tụng và ra
trước tòa của các quốc gia thành viên đã nhận bảo trợ
1. Quốc gia thành viên bảo trợ cho
một tự nhiên nhân hay pháp nhân tham gia vào một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều
187 được nhận thông báo về vụ tranh chấp và có quyền tham gia vào trình tự tố
tụng bằng cách trình bày những nhận xét bằng văn bản hay bằng lời.
2. Khi một vụ kiện do một tự nhiên
nhân hay pháp nhân được một quốc gia thành viên khác bảo trợ, đệ đơn kiện một
quốc gia thành viên về một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187, điểm c, thì quốc
gia bị đơn có thể yêu cầu quốc gia bảo trợ ra trước tòa nhân danh bên nguyên.
Nếu không ra trước tòa được, thì quốc gia bị đơn có thể ủy quyền cho một pháp
nhân mang quốc tịch của mình thay mặt.
ĐIỀU 191. Ý kiến tư vấn
Viện giải quyết các tranh chấp liên
quan đến đáy biển đưa ra các ý kiến tư vấn theo yêu cầu của Đại hội đồng, hay
Hội đồng về những vấn đề pháp lý được đặt ra trong những thời hạn ngắn nhất.
PHẦN XII - BẢO VỆ VÀ GÌN GIỮ MÔI
TRƯỜNG BIỂN
Mục 1 - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 192. Nghĩa vụ chung
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển.
ĐIỀU 193. Quyền thuộc chủ quyền của
các quốc gia khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình
Các quốc gia có quyền thuộc chủ
quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về môi
trường của mình và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của
mình.
ĐIỀU 194. Các biện pháp nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển
1. Các quốc gia, tùy theo tình hình,
thi hành riêng rẽ hay phối hợp với nhau, tất cả các biện pháp phù hợp với Công
ước, cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, sử
dụng các phương tiện thích hợp nhất mà mình có, và cố gắng điều hòa các chính
sách của mình về mặt này.
2. Các quốc gia thi thành mọi biện
pháp cần thiết để cho các hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát
của mình không gây tác hại do ô nhiễm cho các quốc gia khác và cho môi trường
của họ và để cho nạn ô nhiễm nảy sinh từ những tai nạn hay từ các hoạt động
thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình không lan ra ngoài các khu
vực mà mình thi hành các quyền thuộc chủ quyền theo đúng Công ước.
3. Các biện pháp được sử dụng để thi
hành phần này cần phải nhằm vào tất cả các nguồn gây ra ô nhiễm môi trường
biển. Nhất là, chúng bao gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến mức cao nhất:
a. Việc thải bỏ từ khí quyển xuống
hay đi qua khí quyển do nhận chìm các chất độc có hại và độc hại, đặc biệt là
các chất không bị phân hủy từ các nguồn ở đất liền;
b. Ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra,
đặc biệt là những biện pháp nhằm đề phòng các sự cố và đối phó với các trường
hợp khẩn cấp, nhằm đảm bảo an toàn cho các hoạt động trên biển, ngăn ngừa những
hành động thải bỏ, dù cố ý hay không, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc,
trang bị và việc khai thác các tàu thuyền;
c. Ô nhiễm bắt nguồn từ các thiết bị
hay phương tiện được sử dụng để thăm dò hay khai thác các tài nguyên thiên
nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển này, đặc biệt là các biện pháp
nhằm phòng ngừa các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, đảm bảo an
toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu trúc, trang
bị và việc khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và thành phần nhân viên
được sử dụng ở đó;
d. Ô nhiễm xuất phát từ các thiết bị
hay phương tiện khác hoạt động trong môi trường biển, đặt biệt là những biện
pháp nhằm phòng ngừa những sự cố và đối phó với các
trường hợp khẩn cấp, bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định
về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị và khai thác các thiết bị hay phương tiện
này,và thành phần nhân viên được sử dụng ở đó.
4. Khi thi hành các biện pháp phòng
ngừa, hạn chế , hay chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia tránh chấp cứ
sự can thiệp vô lý nào vào các hoạt động của các quốc gia khác đang thi hành
các quyền hay đang thực hiện nghĩa vụ của họ theo đúng Công ước.
5. Các biện pháp được thi hành theo
đúng phần này bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ và gìn giữ các hệ thống
sinh thái hiếm hoi hay mỏng manh cũng như điều kiện cư trú của các loài và các
sinh vật biển khác đang thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị hủy diệt.
ĐIỀU 195. Nghĩa vụ không được đùn
đẩy thiệt hại hay các nguy cơ và không được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng
một kiểu ô nhiễm khác
Khi thi hành các biện pháp để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia phải làm sao để
không đùn đẩy, trực tiếp hay gián tiếp, thiệt hại hay các nguy cơ từ vùng này
sang vùng khác và không được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô
nhiễm khác.
ĐIỀU 196. Sử dụng các kỹ thuật hay
du nhập các loài ngoại lai hoặc mới
1. Các quốc gia thi hành mọi biện
pháp cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển từ việc
sử dụng các kỹ thuật trong khuôn khổ quyền tài phán hay dưới sự kiểm soát của
mình, hoặc do du nhập cố ý hay vô tình vào một bộ phận môi trường biển các
ngoại lai hoặc mới có thể gây ra ở đó các thay đổi đáng kể và có hại.
2. Điều này không ảnh hưởng đến việc
áp dụng các quy định của Công ước có liên quan đến các biện pháp nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Mục 2 - HỢP TÁC TRÊN PHẠM VI THẾ
GIỚI VÀ KHU VỰC
ĐIỀU 197. Hợp tác trên phạm vi thế
giới hoặc khu vực
Các quốc gia hợp tác trên phạm vi
thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua trung gian
của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các
quy tắc và các quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang
tính chất quốc tế phù hợp với Công ước, để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển,
có tính đến các đặc điểm có tính chất khu vực.
ĐIỀU 198. Thông báo về một nguy cơ
gây thiệt hại sắp xảy ra hay thông báo về một thiệt hại thực sự
Quốc gia nào biết được trường biệt
môi trường biển đang có nguy cơ sắp phải chịu những thiệt hại hay đã chịu những
thiệt hại do ô nhiễm thì phải lập tức thông báo cho các quốc gia khác mà mình
xét thấy có nguy cơ phải chịu những tổn thất này cũng như cho các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền.
ĐIỀU 199. Kế hoạch khẩn cấp chống ô
nhiễm
Trong các trường hợp đã nêu ở Điều
198, các quốc gia ở trong khu vực bị ảnh hưởng, theo khả năng của mình, và các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau đến mức cao nhất nhằm loại trừ
ảnh hưởng của ô nhiễm và nhằm ngăn ngừa và giảm đến mức tối thiểu những thiệt
hại. Nhằm mục đích này, các quốc gia cần cùng nhau soạn thảo và xúc tiến các kế
hoạch khẩn cấp để đối phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm môi trường biển.
ĐIỀU 200. Công tác nghiên cứu, các
chương trình nghiên cứu và trao đổi thông tin và các dữ kiện
Trực tiếp hoặc qua trung gian của
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm đẩy mạnh
công tác nghiên cứu, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học và khuyến
khích việc trao đổi các thông tin và các dữ kiện về ô nhiễm môi trường biển.
Các quốc gia cố gắng tham gia tích cực vào các chương trình khu vực và thế giới
nhằm thu được những kiến thức cần thiết để xác định tính chất và phạm vi ô
nhiễm, đối tượng có nguy cơ bị ô nhiễm, những con đường mà nạn ô nhiễm đi qua,
những nguy hiểm mà nạn ô nhiễm chứa đựng và những phương thức khắc phục có thể
có.
ĐIỀU 201. Tiêu chuẩn khoa học để
soạn thảo các quy định
Lưu ý đến các thông tin và các dữ
kiện thu được trong khi áp dụng Điều 200, trực tiếp hoặc qua trung gian của các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia hợp tác với nhau nhằm lập ra các
tiêu chuẩn khoa học thích hợp để xây dựng và soạn thảo các quy tắc và quy phạm,
cũng như các tập
quán và thủ tục được kiến nghị nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển.
Mục 3 - GIÚP ĐỠ KỸ THUẬT
ĐIỀU 202. Giúp đỡ cho các quốc gia
đang phát triển trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật
Trực tiếp hoặc qua trung gian của
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các quốc gia cần:
a. Đẩy mạnh các chương trình giúp đỡ
cho các quốc gia đang phát triển trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, kỹ
thuật và trong các lĩnh vực khác nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm biển. Sự giúp đỡ này đặc biệt gồm có:
i. Đạo tạo nhân viên khoa học và kỹ
thuật của các quốc gia này;
ii. Tạo điều kiện dễ dàng cho việc tham
gia của các quốc gia này vào các chương trình quốc tế thích hợp;
iii. Cung cấp cho các quốc gia này
cơ sở vật chất và những điều kiện thuận lợi cần thiết;
iv. Tăng cường khả năng tự sản xuất
cơ sở vật chất nói trên cho các quốc gia đó;
v. Giúp đỡ các ý kiến tư vấn và phát
triển các phương tiện vật chất liên quan đến các chương trình nghiên cứu, các
chương trình giám sát liên tục, chương trình giáo dục và các chương trình khác;
b. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp,
đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển, để giúp các quốc gia này giảm bớt
đến mức tối thiểu những ảnh hưởng của các tai biến lớn có nguy cơ gây ra một
nạn ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường biển;
c. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp,
đặc biệt là cho các quốc gia đang phát triển, để xây dựng các đánh giá về sinh
thái học.
ĐIỀU 203. Việc đối xử ưu tiên cho
các quốc gia đang phát triển
Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển hoặc để hạn chế đến mức tối thiểu các ảnh hưởng của nó,
các tổ chức quốc tế dành sự đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển về:
a. Việc trợ cấp vốn và các phương
tiện giúp đỡ kỹ thuật thích hợp; và
b. Việc sử dụng các cơ sở chuyên môn
của mình.
Mục 4 - GIÁM SÁT LIÊN TỤC VÀ ĐÁNH
GIÁ VỀ SINH THÁI
ĐIỀU 204. Giám sát liên tục các nguy
cơ ô nhiễm và ảnh hưởng của ô nhiễm
1. Các quốc gia cần cố gắng hết sức
mình và phù hợp với các quyền của các quốc gia khác, trực tiếp hoặc qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để quan sát, đo đạc, đánh giá và
phân tích, bằng các phương pháp khoa học được thừa nhận, các nguy cơ ô nhiễm
môi trường biển hay những ảnh hưởng của vụ ô nhiễm này.
2. Đặc biệt, các quốc gia phải
thường xuyên giám sát những tác động của mọi hoạt động mà họ cho phép hay họ
tiến hành để xác định xem các hoạt động này có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi
trường biển hay không.
ĐIỀU 205. Việc công bố các báo cáo
Các quốc gia công bố các báo cáo về
kết quả thu được trong khi áp dụng Điều 204 hay, theo khoảng thời gian thích
hợp, cung cấp các báo cáo như vậy cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và các
tổ chức quốc tế này cần phải để cho mọi quốc gia khác sử dụng các báo cáo này.
ĐIỀU 206. Đánh giá những tác dụng
tiềm tàng của các hoạt động
Khi các quốc gia có những lý do xác
đáng để cho rằng các hoạt động đã dự tính thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm
soát của mình có quy cơ gây ra một vụ ô nhiễm nghiêm trong hay làm thay đổi
đáng kể và có hại đối với môi trường biển, thì trong chừng mực có thể, các quốc
gia này cần đánh giá các tác động tiềm tàng cùa các hoạt động này đối với môi
trường đó và cần báo cáo lại những kết quả của những đánh giá này theo cách đã
được quy định ở Điều 205.
Mục 5 - QUY ĐỊNH QUỐC TẾ VÀ LUẬT
TRONG NƯỚC NHẰM NGĂN NGỪA, HẠN CHẾ VÀ CHẾ NGỰ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN
ĐIỀU 207. Ô nhiễm bắt nguồn từ đất
1. Các quốc gia thông qua các luật
và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ
đất, kể cà các ô nhiễm xuất phát từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và
các thiết bị thải đổ, có lưu ý đến các quy tắc và quy phạm cũng như các tập
quán và thủ tục được kiến nghị và chấp nhận trên phạm vi quốc tế.
2. Các quốc gia thi hành mọi biện
pháp có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm này.
3. Các quốc gia có cố gắng điều hòa
các chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
4. Đặc biệt khi hành động qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các
quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và
thủ tục được kiến nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự nạn ô nhiễm bắt nguồn từ đất đối với môi trường biển, có tính đến
các đặc điểm khu vực, đến khả năng kinh tế của các quốc gia đang phát triển và
các đòi hỏi về phát triển kinh tế của các quốc gia này. Các quy tắc và quy phạm
cũng như các những tập quán và thủ tục được kiến nghị này tùy theo sự cần thiết
mà qua từng thời kỳ, được xem xét lại.
5. Các luật, quy chế và các biện
pháp cũng như các quy tắc, quy phạm và các tập quán, thủ tục được kiến nghị đã
nêu ở khoản 1, 2 và 4, bao gồm những biện pháp nhằm hạn chế đến hết mức việc
trút vào môi trường biển các chất độc, có hại và độc hại, đặc biệt là các chất
không thể phân hủy được.
ĐIỀU 208. Ô nhiễm do các hoạt động
liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra
Các quốc gia ven biển thông qua các
luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm đối với môi trường
biển trực tiếp hay gián tiếp do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc
quyền tài phán quốc gia gây ra, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết bị và
công trình thuộc quyền tài phán của mình theo các Điều 60 và 80.
Các quốc gia thi hành mọi biện pháp
khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự sự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và biện pháp này
không được kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán và
thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc tế.
Các quốc gia cố gắng điều hòa các
chính sách của mình về mặt này ở mức độ khu vực thích hợp.
Đặc biệt khi hành động qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các
quốc gia thông qua các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được
kiến nghị, trên phạm vi thế giới và khu vực, để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
nạn ô nhiễm môi trường biển nói ở khoản 1. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập
quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ
được xem xét lại.
ĐIỀU 209. Ô nhiễm do các hoạt động
tiến hành trong Vùng gây ra
1. Các quy tắc, quy định và thủ tục
quốc tế được thông qua theo đính Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra. Các quy
tắc, quy định và thủ tục này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được
xem xét lại.
2. Trong điều kiện tuân theo các quy
định thích hợp của mục này, các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển này sinh từ các hoạt động tiến
hành trong Vùng của các tàu thuyền hay xuất phát từ các thiết bị, công trình
hay các phương tiện khác, tùy theo trường hợp, treo cờ của các quốc gia đó,
đăng ký ở trên lãnh thổ hay thuộc quyền của họ. Các luật và quy định này không
được kém hiệu lực hơn các quy tắc,quy định và thủ tục quốc tế nói ở khoản 1.
ĐIỀU 210. Ô nhiễm do sự nhận chìm
Các quốc gia thông qua các luật và
quy định để phòng ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do sự nhận
chìm.
Các quốc gia thi hành tất cả các
biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Các luật, quy định và biện pháp phải
bảo đảm rằng không một sự nhận chìm nào có thể được tiến hành mà không được
phép của các nhà đương cục có thẩm quyền của các quốc gia.
Đặc biệt khi hành động qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao; các
quốc gia cố gắng thông qua trên phạm vi thế giới và khu vực các quy tắc và quy
phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô
nhiễm này. Các quy tắc và quy phạm
cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua
từng thời kỳ được xem xét lại.
Việc nhận chìm ở trong lãnh hải và
trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa không thể được tiến hành
nếu không được sự đồng ý rõ ràng trước quốc gia ven biển; quốc gia ven biển có
quyền cho phép, quy định và kiểm soát sự nhận chìm này, sau khi đã xem xét đúng
mức vấn đề với các quốc gia khác mà do những hoàn cảnh địa lý nên việc nhận
chìm này có thể có những tác hại đối với họ.
Các luật và quy định cũng như các
biện pháp quốc gia không được kém hiệu lực hơn các quy tắc và quy phạm có tính
chất thế giới để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
ĐIỀU 211. Ô nhiễm do tàu thuyền gây
ra
Hành động qua trung gian của tổ chức
quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, các quốc gia thông
qua các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
môi trường biển do các tàu thuyền gây ra và quan tâm tạo điều kiện dễ dàng cho
việc định ra, cũng theo cách nói trên, nếu cần, các cách bố trí đường giao
thông cho tàu thuyền nhằm hạn chế đến mức tối thiểu nguy cơ xảy ra tai nạn có
thể làm cho môi trường biển kể cả vùng duyên hải bị ô nhiễm, và do đó mà đụng
chạm đến những lợi ích có liên quan của các quốc gia ven biển. Các quy tắc và
quy phạm này, cũng theo cách như thế, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ
được xem xét lại.
Các quốc gia thông qua các luật và
quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền
mà mình cho mang cờ hay cho đăng ký gây ra. Các luật và quy định này không được
kém hiệu quả hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận chung và được
xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao chung.
Nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia khi đặt ra các điều kiện đặt biệt
cho các tàu thuyền nước ngoài đi vào các cảng hay nội thủy của mình hoặc công
trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ tục về các điều
kiện này và phải thông báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền. Để điều hòa
chính sách về mặt này, khi hai hay nhiều quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện
như vậy dưới một hình thức giống nhau, cần ghi rõ trong thông báo các quốc gia
nào tham gia vào các thỏa thuận như vậy. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của
một chiếc tàu mà mình cho mang cờ hay đăng ký, khi tàu có mặt ở trong
lãnh hải của một quốc gia tham gia vào những thỏa thuận chung này, phải cung
cấp, theo yêu cầu của quốc gia này, những thông tin chỉ rõ liệu chiếc tàu này
có hướng về một quốc gia thuộc cùng khu vực tham gia vào các thỏa thuận này không
và, nếu đúng, cần xác định xem chiếc tàu này có đáp ứng đầy đủ các điều kiện do
quốc gia này đặt ra liên quan đến việc đi vào trong các cảng của mình không.
Điều này được áp dụng không phương hại đến việc tiếp tục thực hiện quyền đi qua
không gây hại của một chiếc tàu hay đến việc áp dụng Điều 25, khoản 2.
Trong việc thi hành chủ quyền đối
với lãnh hải của mình, các quốc gia ven biển có thể thông qua các luật và quy
định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền
nước ngoài gây ra, kể cả các tàu thuyền đang thực hiện quyền đi qua không gây
hại. Các luật và quy định này, theo đúng với Mục 3 của phần II, không được cản
trở việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài.
Nhằm thực hiện việc áp dụng đã nói ở
mục 6, các quốc gia ven biển có thể thông qua các luật và quy định nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra trong vùng đặc quyền về
kinh tế của mình; các luật và quy định đó phải phù hợp và đem lại hiệu lực cho
các quy tắc và quy định quốc tế được chấp nhận chung và được xây dụng qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao
chung.
a. Khi các quy tắc và quy phạm quốc
tế nói ở khoản 1 không cho phép đáp ứng một cách thích đáng với những tình
huống đặc biệt và nếu một quốc gia ven biển có lý do chính đáng để cho rằng một
khu vực đặc biệt và được xác định rõ ràng trong vùng đặc quyền về kinh tế của
mình, đòi hỏi phải thông qua các biện pháp bắt buộc đặc biệt để ngăn ngừa ô
nhiễm do tàu thuyền gây ra, vì những lý do kỹ thuật được thừa nhận do những đặc
điểm hải dương học và sinh thái học của khu vực đó cũng như do việc sử dụng hay
việc bảo vệ các tài nguyên của khu vực đó và do đặc điểm riêng của luồng giao
thông, thì quốc gia này, sau khi thông qua trung gian của tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, đã tham khảo ý kiến thích đáng với mọi quốc gia hữu quan, có thể
gửi lên tổ chức này một thông báo liên quan đến khu vực xem xét bằng cách đưa
ra những chứng minh khoa học và kỹ thuật, cũng như những chỉ dẫn về cá thiết bị
thu nhận cần thiết để chứng minh. Trong thời hạn 12 tháng sau khi nhận được
thông báo, tổ chức quyết định xem tình hình trong khu nvực được xem xét có đáp
ứng các điều kiện kể trên không. Nếu tổ chức quyết định đúng là như vậy, thì
quốc gia ven biển có thể thông qua cho khu vực này các luật và quy định nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra đem lại hiệu lực
cho các quy tắc và quy phạm hay tập quán về hàng hải quốc tế mà tổ chức đã đưa
ra áp dụng cho những khu vực đặc biệt.Các luật và quy định này chỉ được áp dụng
đối với các tàu thuyền nước ngoài sau một thời hạn là 15 tháng kể từ ngày thông
báo cho tổ chức;
b. Quốc gia ven biển công bố các giới
hạn của các khu vực đặc biệt và được xác định rõ ràng này;
Khi làm thông báo kể trên, quốc gia
ven biển cần đồng thời nói rõ cho tổ chức rằng họ có ý định thông qua, cho khu
vực mà họ đề cập, những luật và quy định bổ sung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường do tàu thuyền gây ra hay không. Các luật và quy dịnh bổ
sung này có thể đề cập việc thải bỏ hay những tập quán hàng hải, nhưng không
bắt buộc các tàu thuyền nước ngoài phải tôn trọng các tiêu chuẩn khác về mặt
thiết kế, cấu trúc và trang bị, ngoài các quy tắc và quy phạm quốc tế đẵ được
chấp nhận chung; các luật và quy định bổ sung này có thế áp dụng cho tàu thuyền
nước ngoài, sau 15 tháng kể từ ngày thông báo cho tổ chức này, với điều kiện là
tổ chức này, trong một thời hạn là 12 tháng, kể từ ngày được thông báo, đã
chuẩn y các luật và quy định bổ sung nói trên.
Các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu
ở điều này còn cần trù định nghĩa vụ phải thông báo ngay lập tức cho các quốc
gia ven biển mà vùng duyên hải hay các lợi ích liên quan của họ có nguy cơ bị
những tai nạn trên biển tác động đến, nhất là những tai nạn dẫn đến hay có nguy
cơ dẫn đến những việc thải bỏ.
ĐIỀU 212. Ô nhiễm có nguồn gốc từ
bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển
Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển, các
quốc gia thông qua các luật và quy định áp dụng ở vùng trời thuộc chủ quyền của
mình và áp dụng cho các tàu thuyền mang cờ của mình hay cho các tàu thuyền hoặc
các phương tiện bay mà mình cho đăng ký, có tính đến các quy tắc quy phạm, cũng
như những tập quán và thủ tục được kiến nghị, và đã được chấp nhận trên phạm vi
quốc tế vá có tính đến an toàn hàng không.
Các quốc gia thi hành các biện pháp
khác có thể cấn thiết để ngăn giữ, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này.
Đặc biệt khi hành động qua trung
gian cảu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các
quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và
thủ tục được kiến nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế
và chế ngự nạn ô nhiễm này.
Mục 6 - VIỆC ÁP DỤNG
ĐIỀU 213. Việc áp dụng quy định liên
quan đến ô nhiễm xuất phát từ đất
Các quốc gia đảm bảo việc áp dụng
các luật và quy định và thi hành theo đúng Điều 207; Các quốc gia thông qua
luật và quy định và thi hành các biện pháp cần thiết khác để đem lại hiệu lực
cho các quy tắc và quy phạm quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại
giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bắt nguồn từ
đất.
ĐIỀU 214. Việc áp dụng các quy định
liên quan đến ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển gây ra
Các quốc gia bảo đảm việc áp dụng
các luật và quy định đã được thông qua theo đúng Điều 208; họ thông qua các
luật và các quy định và thi hành các biện pháp cấn thiết khác để đem lại hiệu
lực cho các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung
gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, để
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường do các hoạt động liên quan đến
đáy biển và thuộc quyền tài phán của mình, trực tiếp hay gián tiếp gây ra, hay
xuất phát từ các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình được đặt dưới quyền
tài phán của mình theo các Điều 60 và 80.
ĐIỀU 215. Việc áp dụng quy định quốc
tế liên quan đến ô nhiễm do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra
Việc áp dụng quy tắc, quy định và
thủ tục quốc tế được xây dựng theo đúng Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển gây ra bởi các hoạt động tiến hành trong Vùng do
phần này điều chỉnh.
ĐIỀU 216. Việc áp dụng quy định liên
quan đến ô nhiễm do việc nhận chìm
Các luật và quy định được thông qua
theo đúng Công ước và các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây
dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị
ngoại giao nhằm ngăn ngừa,hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bởi việc
nhận chìm do các đối tượng sau đây thi hành:
Quốc gia ven biển, đối với việc nhận
chìm nằm trong giới hạn của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế hay trên
thềm lục địa của mình;
Quốc gia mà tàu mang cờ, đối với các
tàu thuyền mang cờ của mình hay các tàu hay phương tiện bay mà mình cho đăng
ký;
Bất kỳ quốc gia nào, đối với việc
đưa ra chất cặn bã hay các chất khác lên lãnh thổ của mình hay lên các công
trình cảng cuối cùng ra khơi.
Theo điều này, không quốc gia nào
được khởi tố, khi vụ kiện đã được một quốc gia khác khởi tố cũng theo đúng điều
này.
ĐIỀU 217. Các quyền hạn của các quốc
gia mà tàu mang cờ
Các quốc gia quan tâm đến việc tàu
thuyền mang cờ của mình hay được mình cho đăng ký tôn trọng các quy tắc và quay
phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế
có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung, cũng như các luật và quy
định mà các quốc gia này đã thông qua theo đúng Công ước để ngăn ngừa hạn chế
và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra và họ thông qua các quy
luật và quy định, và thi hành các biện pháp cần thiết để đem lại hiệu lực cho
các quy luật và quy định đó. Quốc gia mà tàu mang cờ phải quan tâm đến việc các
quy tắc, quy phạm, luật và quy định này được áp dụng một cách có hiệu quả, bất
kể việc vi phạm xảy ra ở đâu.
Đặc biệt, các quốc gia thi hành các
biện pháp thích hợp để cấm các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay được mình
cho đăng ký chuẩn bị nhổ neo, chừng nào chúng không tuân theo đúng các quy tắc
và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1, kể các quy định liên quan đến cách thiết kế,
cấu trúc, và trang bị của tàu thuyền.
Các quốc gia quan tâm đến việc các
tàu thuyền mang cờ của nước mình hay được mình cho đăng ký phải có đủ các chứng
từ cấn thiết và được cấp theo các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1.
Các quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ nước mình phải được kiểm
tra định kỳ xác minh xem lời ghi chú ở trên các chứng từ này có phù hợp với
tình trạng thực tế của con tàu hay không. Các quốc gia khác chấp nhận các chứng
từ này cũng có giá trị như là những chứng từ mà mình cấp, trừ khi có lý do xác
đáng để cho rằng tình trạng con tàu trong một chừng mực quan trọng không phù
hợp với các ghi chú ở trên các chứng từ này.
Nếu một con tàu vi phạm các quy tắc
và quy định được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay
qua một hội nghị ngoại giao chung, quốc gia cho tàu mang cờ, với điều kiện
không phương hại tới các Điều 218, 220 và 228, phải lập tức tiến hành mọi cuộc
điều tra và, nếu thấy cần thì, khởi tố đối với vụ vi phạm được suy đoán đó, bất
kể nơi xảy ra vụ vi phạm này hay vị trí mà nạn ô nhiễm do vụ vi phạm gây ra đã
xảy ra hoặc được xác nhận là ở đâu.
Khi tiến hành điều tra vụ vi phạm,
quốc gia mà tàu mang cờ có thể yêu cầu sự giúp đỡ của mọi quốc gia khác mà sự
hợp tác có thể có ích để làm sáng tỏ các hoàn cảnh của sự việc. Các quốc gia cố
gắng đáp ứng các yêu cầu thích hợp của các quốc gia mà tàu mang cờ.
Theo yêu cầu bằng văn bản của một
quốc gia,các quốc gia phải tiến hành điều tra về mọi vi phạm do tàu thuyền mang
cờ của họ có thể đã phạm phải. Quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành không
chậm trễ việc truy tố về nội dung chính của sự vi phạm đã được suy đoán theo
đúng luật trong nước của mình, nếu tin chắc rằng đã có đủ chứng cứ để tiến hành
công việc này.
Quốc gia mà tàu mang cờ thông báo
ngay cho quốc gia yêu cầu và tổ chức quốc tế có thẩm quyền về vụ việc đã được
khởi tố và kết quả của nó. Tất cả các quốc gia đều được tiếp xúc với những
thông tin đã được thông báo đó.
Những chế tài được trù định trong các
quy luật và quy định của quốc gia đối với các tàu thuyền mang cờ của mình cần
phải nghiêm khắc để hạn chế các vụ vi phạm,ở bất cứ đâu.
ĐIỀU 218. Các quyền hạn của quốc gia
có cảng
Khi một chiếc tàu tự ý có mặt ở
trong một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng
có thể mở một cuộc điều tra và, khi có các chứng cứ để chứng minh, có thể khởi
tố đối với bất kỳ sự thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoại nội thủy, lãnh
hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, vi phạm các luật và quy phạm quốc
tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm
quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung.
Quốc gia có cảng không thể khởi tố
theo khoản 1 đối với một vụ vi phạm do việc thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành
ở ngoài nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hoặc là quốc
gia mà tàu mang cờ hay quốc gia đã chịu, hay có nguy cơ phải chịu, các tổn thất
do việc thải đổ này gây ra yêu cầu.
Khi một con tàu tự ý có mặt trong
một cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng cố
gắng chấp nhận những đơn yêu cầu điều tra của bất kỳ quốc gia nào khác về việc
thải đổ có khả năng gây ra vụ vi phạm đã nêu ở khoản 1 có thể đã xảy ra trong
nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia yêu cầu, và có
thể đã gây ô nhiễm hay có nguy cơ gây ô nhiễm cho các vùng này. Quốc gia có
cảng cũng cố gắng chấp nhận đơn yêu cầu điều tra của quốc gia mà tàu mang cờ về
những vi phạm như thế, bất kể các vụ vi phạm này có thể xảy ra ở đâu.
Hồ sơ điều tra do quốc gia có cảng
tiến hành theo điều này được chuyển cho quốc gia mà tàu mang cờ hay cho quốc
gia ven biển theo yêu cầu của các quốc gia này. Bất kỳ việc nào do quốc gia có
cảng khởi tố dựa trên cơ sở của cuộc điều tra này, có thể bị đình chỉ theo yêu
cầu của quốc gia ven biển, với điều kiện phải tuân theo các quy định của Mục 7,
khi vụ vi phạm đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế
của quốc gia ven biển này. Khi đó những chứng cứ, hồ sơ về sự việc, cũng như
mọi sự bảo lãnh hay đảm bảo tài chính đã được gửi cho những nhà đương cục của
quốc gia có cảng phải được chuyển cho quốc gia ven biển. Sau khi chuyển giao hồ
sơ, quốc gia có cảng không theo đuổi vụ kiện nữa.
ĐIỀU 219. Các biện pháp kiểm tra khả
năng đi biển nhằm tránh ô nhiễm
Với điều kiện tuân thủ Mục 7, khi
các quốc gia, theo yêu cầu hay tự ý mình xác định rằng một con tàu đang ở một
trong các cảng của mình hay ở một trong các công trình cảng cuối cùng ở ngoài
khơi của mình đã vi phạm các qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng liên
quan đến khả năng đi biển của tàu thuyền và có nguy cơ từ đó gây ra thiệt hại
cho môi trường biển, cần thi hành các biện pháp hành chính trong phạm vi khả
năng của mình để ngăn không cho chiếc tàu này rời bến. Các quốc gia này chỉ cho
phép chiếc tàu này đi vào xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất và, một khi đã loại
trừ các nguyên nhân gây ra vi phạm, các quốc gia này cho phép chiếc tàu này
tiếp tục hành trình của mình ngay lập tức.
ĐIỀU 220. Các quyền hạn của quốc gia
ven biển
Khi một chiếc tàu tự ý có mặt trong
cảng hay ở một công trình cảng cuối cùng ngoài khơi với điều kiện tuân thủ Mục
7, quốc gia có cảng có thể khởi tố về bất kỳ vi phạm nào đôi với các luật và
quy định mà mình đã thông qua theo đúng Công ước hay theo đúng các qui tắc và
quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do
tàu thuyền gây ra, nếu vụ vi phạm đã xảy ra trong lãnh hải hay trong vùng đặc
quyền kinh tế của mình.
Khi một quốc gia có lý do xác đáng
cho rằng chiếc tàu trong lúc đi qua lãnh hải của mình đã vi phạm các luật và
quy định mà mình đã thông qua theo đúng công ước hay các nguyên tắc và quy phạm
quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu
thuyền gây ra thì quốc gia này có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu đã
gây ra vụ vi phạm, nhưng không làm phương hại đến việc áp dụng các quy định
thích hợp của Mục 3 thuộc phần II, và, khi có các chứng cứ để chứng minh được
điều đó thì có thể khởi tố và đặc biệt có thể ra lệnh giữ chiếc tàu theo đúng
luật trong nước của mình, với điều kiện phải tuân thủ theo quy định của Mục 7.
Khi một quốc gia có lý do xác đáng
để cho rằng một con tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trong lãnh hải
của mình đã vi phạm các quy tắc và quy phạm quốc tế đó và đem lại hiệu lực cho
chúng, quốc gia này có thể yêu cầu con tàu cung cấp các thông tin liên quan đến
lý lịch và cảng đăng ký của tàu, cảng cuối cùng và cảng sắp ghé vào của tàu và
các thông tin thích hợp cần thiết khác để xác định có phải một vụ vi phạm đã
xảy ra không.
Các quốc gia thông qua các luật và
qui định và thi hành các biện pháp cần thiết cho các tàu thuyền mang cờ của
mình đáp ứng các yêu cầu về thông tin đã nêu ở khoản 3.
Khi một quốc gia có các lý do xác
đáng để cho rằng một chiếc tàu đi trong đặc quyền kinh tế hay trong lãnh hải
của mình đã gây ra một vụ vi phạm trong vùng đặc quyền kinh tế đã nêu ở khoản 3
dẫn đến những việc thải đổ nghiêm trọng vào môi trường biển, đã gây ra hoặc có
nguy cơ gây ra ở môi trường biển này một vụ ô nhiễm đáng kể, quốc gia có thể
tiến hành kiểm tra cụ thể con tàu để xác minh xem có phải đã có sự vi phạm
không, nếu như con tàu từ chối không đưa ra các thông tin, hay nếu những thông
tin được cung cấp mâu thuẫn rõ ràng với sự thật, và nếu các hoàn cảnh của sự
việc lý giải cho sự kiểm tra này.
Khi có chứng cứ chứng tỏ rằng một
chiếc tàu đi trong vùng đặc quyền về kinh tế hay lãnh hải của một quốc gia đã
gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế một vụ vi phạm đã nêu ở khoản 3 dẫn đến
những việc thải đổ gây hoặc có nguy cơ gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho
vùng duyên hải hay cho các lợi ích có liên quan của quốc gia ven biển hay cho
tất cả tài nguyên của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, thì quốc
gia đó, với điều kiện tuân thủ Mục 7 và nếu có các chứng cứ chứng minh được
điều trên, có thể tiến hành khởi tố, nhất là ra lệnh giữ con tàu lại theo đúng
luật trong nước của mình.
Mặc dù đã có khoản 6, trong mọi
trường hợp mà các thủ tục thích hợp đã được đặt ra qua trung gian của tổ chức
quốc tế có thẩm quyền, hoặc do thỏa thuận bằng mọi cách khác để tôn trọng các
nghĩa vụ liên quan đến việc nộp tiền bảo lãnh hay việc ký gửi một khoản bảo đảm
tài chính thích hợp khác, nếu như quốc gia ven biển có bị các thủ tục đó ràng
buộc, thì quốc gia đó cho phép chiếc tàu tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 cũng được
áp dụng vào các luật và quy định quốc gia được thông qua theo điều 211, khoản
6.
ĐIỀU 221. Các biện pháp nhằm ngăn
chặn ô nhiễm tiếp theo sau một tai nạn xảy ra trên biển
Không một qui định nào của phần này
đụng đến các quyền của các quốc gia, theo pháp luật quốc tế, kể cả tập quán lẫn
theo công ước, định ra và tiến hành áp dụng ở ngoài lãnh hải các biện pháp cân
xứng với những thiệt hại mà các quốc gia này đã thật sự phải chịu đựng hay bị
đe dọa phải chịu nhằm bảo vệ vùng duyên hải hay các lợi ích có liên quan của
mình, kể cả việc đánh bắt hải sản, chống nạn ô nhiễm hay đe dọa ô nhiễm do một
tai nạn xảy ra trên biển hoặc do những hành vi gắn liền với một tai nạn như vậy
gây ra mà người ta có căn cứ để chờ đợi những hậu quả tai hại.
Trong điều này, thì “tai nạn trên
biển” có nghĩa là một vụ đâm va, mắc cạn hay sự cố hàng hải khác hoặc sự kiện
xảy ra ở trên hay ở một con tàu gây ra những thiệt hại về vật chất hay đe dọa
sắp gây ra những thiệt hại về vật chất cho một chiếc tàu hay hàng hóa của nó.
ĐIỀU 222. Việc áp dụng quy định liên
quan đến ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển…
Trong giới hạn của vùng trời thuộc
chủ quyền của mình hay đối với các tàu thuyền mang cờ của mình hoặc các tàu hay
phương tiện bay được mình cho đăng ký, các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các
luật, quy định mà mình đã thông qua theo đúng điều 212, khoản 1, theo đúng các
quy định khác của Công ước, thông qua các luật và qui định, thi hành các biện
pháp khác để phát huy hiệu lực của các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp
dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay
qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay xuyên qua bầu khí quyển, theo đúng tất
cả các quy tắc và quy phạm quốc tế tương ứng liên quan đến an toàn hàng không.
Mục 7 - CÁC BẢO ĐẢM
ĐIỀU 223. Các biện pháp nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho việc triển khai một vụ kiện
Khi có một vụ kiện do áp dụng phần
này, các quốc gia thi hành các biện pháp để tạo thuận lợi cho việc nghe nhân
chứng và thu nhận các chứng cứ do các nhà đương cục của một quốc gia khác hay
do tổ chức quốc tế có thẩm quyền cung cấp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tham gia các phiên tòa của các đại biểu chính thức của tổ chức này, của quốc
gia mà tàu mang cờ hay của bất kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi nạn ô nhiễm nảy
sinh từ mọi vi phạm. Các đại biểu chính thức tham gia các phiên tòa này có
quyền và nghĩa vụ do luật trong nước hay pháp luật quốc tế trù định.
ĐIỀU 224. Việc thi hành các quyền
cảnh sát
Chỉ có những nhân viên chính thức có
đủ tư cách, cũng như các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự hay các tàu
thuyền hoặc các phương tiện bay khác có mang những dấu hiệu bên ngoài chứng tỏ
rõ ràng rằng chúng thuộc một cơ quan nhà nước và được phép tiến hành công việc
đó, có thể thi hành các việc cảnh sát đối với các tàu thuyền nước ngoài theo
phần này.
ĐIỀU 225. Nghĩa vụ đối với các quốc
gia tránh các hậu quả tai hại có thể xảy ra trong khi thi hành các quyền cảnh
sát của họ
Khi thi hành quyền cảnh sát của mình
đối với tàu thuyền nước ngoài theo Công ước, các quốc gia không được gây ra
nguy hiểm cho an toàn hàng hải, không được gây ra một rủi ro nào cho một con
tàu hay dẫn con tàu đó về một cảng hoặc khu neo nguy hiểm, cũng không gây ra
rủi ro quá đáng cho môi trường biển.
ĐIỀU 226. Các cuộc điều tra có thể
được tiến hành đối với tàu thuyền nước ngoài
a) Các quốc gia không được giữ một
chiếc tàu nước ngoài lâu quá mức cần thiết để tiến hành các cuộc điều tra đã
được trù định ở các Điều 216, 218 và 220. Việc kiểm tra cụ thể một chiếc tàu
nước ngoài phải được giới hạn ở việc xem xét các chứng từ, sổ đăng ký hay các
tài liệu khác mà chiếc tàu có nhiệm vụ phải mang theo, theo các quy tắc và quy
phạm quốc tế được chấp nhận chung, hay mọi tài liệu tương tự; chỉ có thể tiến
hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu tỉ mỉ hơn tiếp theo sau cuộc xem xét này và với
điều duy nhất là:
Có các lý do xác đáng để cho rằng
tình trạng con tàu hay trang thiết bị của nó về cơ bản không phù hợp với những
ghi chú ở trên các tài liệu.
Nội dung của các tài liệu này không
đủ để xác minh và thẩm tra vụ vi phạm đã được suy đoán.
Con tàu không mang theo các chứng từ
và tài liệu có giá trị.
b) Khi qua cuộc điều tra mà thấy
rằng đã có sự vi phạm các luật và qui định có thể áp dụng hay các quy tắc và
quy phạm quốc tế nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, sau khi con tàu đã
hoàn thành các thể thức hợp lý, như việc ký gửi một khoản tiền bảo lãnh hoặc
một khoản bảo đảm tài chính khác, thì cần chấm dứt ngay việc cầm giữ.
c) Không làm phương hại đến các quy
tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng về mặt khả năng đi biển của tàu thuyền,
nếu việc chấm dứt cầm giữ một con tàu sẽ có nguy cơ dẫn tới thiệt hại do khinh
suất đối với môi trường biển, thì con tàu nói trên có thể không được phép tiếp
tục cuộc hành trình, hoặc được phép nhưng với điều kiện là phải đi đến xưởng
sửa chữa thích hợp gần nhất. Trong trường hợp mà việc chấm dứt cầm giữ con tàu
bị từ chối hay bị đặt các điều kiện, thì quốc gia mà tàu mang cờ phải được
thông báo ngay về việc này và có thể yêu cầu chấm dứt việc cầm giữ này theo
đúng phần XV.
2. Các quốc gia hợp tác để soạn thảo
các thủ tục nhằm tránh khỏi việc kiểm tra cụ thể thừa đối với tàu thuyền trên
biển.
ĐIỀU 227. Việc không phân biệt đối
xử với tàu thuyền nước ngoài
Khi thi hành các quyền và làm tròn
các nghĩa vụ của mình theo phần này, các quốc gia không được bắt các tàu thuyền
của một quốc gia nào khác phải chịu một sự phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay
về mặt thực tế.
ĐIỀU 228. Việc đình chỉ các cuộc
truy tố và các hạn chế đối với việc truy tố
Khi một quốc gia tiến hành các cuộc
truy tố nhằm trừng phạt một vi phạm do một chiếc tàu nước ngoài gây ra ở bên
ngoài lãnh hải của quốc gia trên đối với các luật và quy định có thể áp dụng
hay các quy tắc và qui phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm
do tàu thuyền gây ra, thì các cuộc truy tố này phải bị đình chỉ ngay sau khi
quốc gia mà tàu mang cờ đã tự mình tiến hành các cuộc truy tố đối với nội dung
chính của vụ vi phạm nói trên, trong vòng 6 tháng tiếp theo việc khởi tố đầu
tiên, trừ khi việc khởi tố này nhằm vào một trường hợp đã gây thiệt hại nghiêm
trọng cho quốc gia ven biển, hay quốc gia mà tàu mang cờ nói trên đã nhiều lần
không làm tròn nghĩa vụ của mình để bảo đảm áp dụng thực sự các quy tắc và các
quy phạm quốc tế hiện hành đối với các vụ vi phạm do tàu thuyền của mình gây
ra. Quốc gia mà tàu mang cờ khi đã yêu cầu đình chỉ các cuộc truy tố theo đúng
điều này trao lại trong thời gian thích hợp cho quốc gia đầu tiên một hồ sơ đầy
đủ về sự việc và các văn bản gốc của vụ án. Khi các tòa án của quốc gia mà tàu
mang cờ đã tuyên án thì các cuộc truy tố phải chấm dứt sau khi đã thanh toán
xong các chi phí về thủ tục, thì bất kỳ khoản tiền bảo lãnh hay khoản bảo đảm
tài chính nào khác được ký gửi khi tiến hành các cuộc truy tố này đều phải được
quốc gia ven biển trả lại.
Không thể tiến hành các cuộc truy tố
đối với tàu thuyền nước ngoài sau thời hạn 3 năm kể từ ngày vi phạm, và không
quốc gia nào có thể tiến hành rồi, với điều kiện phải tuân thủ khoản 1.
Điều này không đụng chạm đến quyền
của quốc gia mà tàu mang cờ sử dụng mọi biện pháp, kể cả quyền tiến hành các
cuộc truy tố, theo đúng luật trong nước của mình, không phụ thuộc vào các cuộc
truy tố do một quốc gia khác tiến hành trước.
ĐIỀU 229. Việc kiện về trách nhiệm
dân sự
Không một quy định nào của Công ước
đụng chạm đến quyền khởi tố về trách nhiệm dân sự trong trường hợp xảy ra những
thiệt hại hay tổn thất do ô nhiễm môi trường biển.
ĐIỀU 230. Các hình thức sử phạt bằng
tiền và việc tôn trọng quyền bào chữa
Đối với trường hợp vi phạm các luật
và quy định quốc gia hay các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền nước
ngoài gây ra ở ngoài lãnh hải thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền.
Đối với tình trạng vi phạm các luật
và quy định quốc gia hay các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, do một tàu nước ngoài
gây ra ở trong lãnh hải, thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền, trừ trường
hợp đó là một hành động cố ý và gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong tiến trình các cuôc truy tố đã
được tiến hành nhằm trừng phạt các vụ vi phạm thuộc lọai này do một tàu nước
ngoài phạm phải mà chiếc tàu có thể phải chịu đụng những hình thức xử phạt, các
quyền được thừa nhận của bị cáo vẫn được tôn trọng.
ĐIỀU 231. Việc tôn trọng thông báo
cho quốc gia mà tàu mang cờ và cho các quốc gia hữu quan khác
Các quốc gia thông báo không chậm
trễ cho các quốc gia mà tàu mang cờ và cho mọi quốc gia hữu quan khác tất cả
các biện pháp được sử dụng với tàu thuyền nước ngoài trong việc áp dụng Mục 6,
và giao cho quốc gia mà tàu mang cờ tất cả các báo cáo chính thức có liên quan
đến biện pháp này. Tuy nhiên, trong trường hợp các vụ vi phạm xảy ra trong lãnh
hải, quốc gia ven biển chỉ thực hiện các nghĩa vụ này đối với các biện pháp
đuợc dùng trong khuôn khổ các cuộc truy tố. Các nhân viên ngọai giao hay các
viên chức lãnh sự, và trong trường hợp có thể được, nhà đương cục về biển của
quốc gia mà tàu mang cờ được thông báo ngay về mọi biện pháp thuộc loại này.
ĐIỀU 232. Trách nhiệm của các quốc
gia về biện pháp thi hành
Các quốc gia chịu trách nhiệm về
những thiệt hại và tổn thất có thể qui cho họ do các biện pháp đã được sử dụng
trong việc áp dụng Mục 6, khi các biện pháp này là bất hợp pháp hay vượt quá
mức cần thiết hợp lý, có xét đến các thông tin sẵn có.
ĐIẾU 233. Các bảo đảm liên quan đến
các eo biển dung cho hàng hải quốc tế
Không một quy định nào của Mục 5, 7
và 6 đụng chạm đến chế độ pháp lý của các eo dùng cho hàng hải quốc tế. Tuy
nhiên, nếu một chiếc tàu nước ngoài không phải là các tàu thuyền đã nêu ở Mục
10 vi phạm các luật và quy định đã nêu ở Điều 42 khoản 1, điểm a, và b, gây ra
hay đe dọa gây ra các thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển của các eo
biển, thì quốc gia có eo biển có thể thi hành các biện pháp cảnh sát thích hợp,
trong khi vẫn tôn trọng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi
tiết) mục này.
Mục 8 - NHỮNG KHU VỰC BỊ BĂNG BAO
PHỦ
ĐIỀU 234. Các khu vực bị băng bao
phủ
Các quốc gia ven biển có quyền thông
quan và tiến hành áp dụng các luật và quy định không phân biệt đối xử nhằm ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra trong khu
vực bị băng bao phủ và nằm trong ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế, khi
các điều kiện khí hậu đặc biệt khắc nghiệt và việc các khu vực bao phủ phần lớn
thời gian trong một năm gây trở ngại cho hàng hải hoặc hoặc làm cho việc hàng
hải trở nên đặc biệt nguy hiểm, và nạn ô nhiễm môi trường biển có nguy cơ gây
tác hại nghiêm trọng đến sự cân bằng sinh thái hay làm rối lọan sự cân bằng này
một cách không thể hồi phục được. Các luật và quy định này phải lưu ý thích
đáng đến hàng hải cũng như đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trên cơ
sở của các dữ kiện khoa học chắc chắn nhất mà người ta có thể có được.
Mục 9 - TRÁCH NHIỆM
ĐIỀU 235. Trách nhiệm
Các quốc gia có trách nhiệm quan tâm
đến việc hoàn thành các nghĩa vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển. Các quốc gia có trách nhiệm theo đúng luật quốc tế.
Quốc gia quan tâm làm sao cho luật
trong nước của mình có được những hình thức tố tụng cho phép thu được sự đền bù
nhanh chóng và thích đáng, hay sự bồi thường khác đối với những thiệt hại nảy
sinh từ ô nhiễm môi trường do tự nhiên nhân, hay pháp nhân thuộc quyền tài phán
của mình gây ra.
Để bảo đảm một sự đền bù nhanh chóng
và thích đáng mọi thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia
cần hợp tác để bảo đảm áp dụng và phát triển luật quốc tế về trách nhiệm có
liên quan đến việc đánh giá và bồi thường các thiệt hại và việc giải quyết các
tranh chấp về mặt này, cũng như, nếu có thể, đến việc soạn thảo các tranh chấp
và thủ tục để thanh toán tiền bồi thường thích đáng, chẳng hạn trù định một
khoản bảo hiểm bắt buộc các quỹ bồi thường.
Mục 10 - VIỆC MIỄN TRỪ CÓ TÍNH CHẤT
CHỦ QUYỀN
ĐIỀU 236. Việc miễn trừ có tính chất
chủ quyền
Các quy định của Công ước liên quan
đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển không áp dụng đối với các tàu chiến
hay tàu thuyền bổ trợ, cũng như đối với các tàu thuyền khác hay đối với các
phương tiện bay thuộc một quốc gia hay do quốc gia này, khai thác, khi trong
thời gian xem xét, quốc gia này chỉ sử dụng chúng vào những mục đích công vụ không
có tính chất thương mại. Tuy nhiên, mỗi quốc gia thi hành các biện pháp thích
hợp không ảnh hưởng đến các hoạt động hay khả năng hoạt động của tàu thuyền hay
phương tiện bay thuộc mình hay do mình khai thác, sao cho các tàu thuyền hay
phương tiện bay này hành động một cách thích hợp với Công ước trong chừng mực
có thể làm được.
Mục 11 - NGHĨA VỤ PHÁT SINH TỪ CÁC
CÔNG ƯỚC KHÁC VỀ VIỆC BẢO VỆ VÀ GÌN GIỮ MÔI TRƯỜNG BIỂN
ĐIỀU 237. Các nghĩa vụ phát sinh từ
các công ước khác về việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển
Phần này không ảnh hưởng đến các
nghĩa vụ riêng thuộc bổn phận của các quốc gia theo các công ước hay điều ước
đặc thù được ký kết trước đây về mặt bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, cũng
không ảnh hưởng đến các điều ước có thể được ký kết để áp dụng các nguyên tắc
chung đã được nêu trong Công ước.
Các quốc gia phải làm tròn các nghĩa
vụ riêng thuộc phận sự của mình có liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển theo Công ước đặc biệt, một cách thích hợp với các nguyên tắc và
mục tiêu chung của Công ước.
PHẦN XIII - VIỆC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC BIỂN
Mục 1 - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 238. Quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học
biển
Tất cả các quốc gia, bất kể vị trí địa lý thế nào,
cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền tiến hành các cuộc
nghiên cứu khoa học biển, với điều kiện tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các
quốc gia khác như đã đuợc quy định trong Công uớc.
ĐIỀU 239. Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nghiên cứu khoa học biển
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và chỉ đạo công tác nghiên
cứu khoa học biển theo đúng Công uớc.
ĐIỀU 240. Các nguyên tắc chung chi phối việc chỉ đạo
công tác nghiên cứu khoa học biển
Công tác nghiên cứu khoa học biển phải phục tùng các
nguyên tắc sau đây:
Công tác này đuợc tiến hành nhằm vào những mục đích
hoàn toàn hòa bình;
Công tác này đuợc tiến hành bằng cách dùng các phương
pháp và phương tiện khoa học thích hợp phù hợp với Công uớc;
Công tác này không cản trở một cách vô lý những việc
sử dụng biển hợp pháp khác phù hợp với Công uớc và nó phải đuợc quan tâm đến
trong các việc sử dụng này.
Công tác này đuợc tiến hành theo đúng mọi quy định
tương ứng đuợc thông qua để thi hành Cống uớc, kể cả các quy định nhằm bảo vệ
và giữ gìn môi truờng biển.
ĐIỀU 241. Việc không thừa nhận công tác nghiên cứu
khoa học biển với tư cách là cơ sở pháp lý cho một yêu sách nào đó
Công tác nghiên cứu khoa học biển không tạo ra co sở
pháp lý cho một yêu sách nào đối với một bộ phận nào đó của môi truờng biển hay
của các tài nguyên của nó.
Mục 2 - SỰ HỢP TÁC QUỐC TẾ
ĐIỀU 242. Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp
tác quốc tế
Chấp hành nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và quyền tài
phán, và trên cơ sở của nguyên tắc có đi có lại về lợi ích, các quốc gia và các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế
về mặt nghiên cứu khoa học biển vì mục đích hòa bình.
Trong bối cảnh này và không làm phương hại đến các
quyền và nghĩa vụ các quốc gia theo Công uớc, một quốc gia khi hành động theo
phần này, cần tùy theo tình hình mà dành cho các quốc gia khác các khả năng hợp
lý để nhận đuợc của mình hay với sự hợp tác của mình các thông tin cần thiết để
ngăn ngừa và chế ngự các tác hại đối với sức khỏe và đối với sự an toàn của con
nguời và môi truờng biển.
ĐIỀU 243. Việc tạo ra các điều kiện thuận lợi
Các quốc gia, tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác
với nhau qua việc ký kết các hiệp định hai bên và nhiều bên để tạo ra các điều
kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển trong môi
truờng biển và kết hợp những nỗ lực của các nhà nghiên cứu khoa học tiền hành
nghiên cứu bản chất của các hiện tuợng, các quá trình xảy ra trong môi truờng
biển và các tác động qua lại của chúng.
ĐIỀU 244. Việc công bố và phổ biến các thông tin và
kiến thức
Bằng các con đuờng thích hợp và theo đúng Công uớc,
các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền công bố, phổ biến các thông tin
liên quan đến các chương trình chủ yếu đuợc dự tính và các mục tiêu của chúng,
cũng như những kiến thức đuợc rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển.
Vì mục đích này, các quốc gia, tự mình hay hợp tác với
các quốc gia khác và với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tích cực tạo điều
kiện thuận lợi cho việc trao đổi các dữ kiện, thông tin khoa học và cho việc
chuyển giao các kiến thức rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển, đặc biệt
là cho các quốc gia đang phát triển cũng như cho việc tăng cuờng khả năng của
chính các quốc gia này để tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển, nhất
là bằng các chuong trình giúp cho các nhân viên kỹ thuật và khoa học của họ
đuợc huởng một sự giáo dục và đào tạo thích hợp.
Mục 3 - SỰ CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC BIỂN
VÀ HOẠT ĐỘNG NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO CÔNG VIỆC NÀY
ĐIỀU 245. Việc nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh
hải
Trong việc thực hiện chủ quyền của mình, các quốc gia
ven biển có đặc quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu
khoa học biển ở trong lãnh hải chỉ đuợc tiến hành vợi sự thảo thuận rõ ràng của
quốc gia ven biển và trong các điều kiện do quốc gia này ấn định.
ĐIỀU 246. Việc nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc
quyền về kinh tế và trên thềm lục địa
Trong việc thi hành quyền tài phán của mình, các quốc
gia ven biển có quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu
khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa của mình
theo đúng các quy định tương ứng của Công uớc.
Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền
về kinh tế và trên thềm lục địa đuợc tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia
ven biển.
Trong những truờng hợp bình thuờng, các quốc gia ven
biển thỏa thuận cho thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học biển mà các quốc
gia khác hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền dự định tiến hành trong vùng đặc
quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình theo đúng Công uớc, nhằm vào
những mục đích hoàn toàn hòa bình và để tăng thêm kiến thức khoa học về môi
truờng biển, vì lợi ích của toàn thể loài nguời. Vì mục đích này, các quốc gia
ven biển thông qua các quy tắc và thủ tục bảo đảm sẽ cho phép trong những thời
hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ một cách phi lý.
Trong việc áp dụng khoản 3, các truờng hợp có thể đuợc
coi là bình thuờng ngay cả khi giữa quốc gia ven biển và quốc gia đề nghị thực
hiện công trình nghiên cứu không có quan hệ ngoại giao.
Tuy nhiên, quốc gia ven biển có thể tùy ý mình không
cho phép thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học biển do một quốc gia khác hay
một tổ chức quốc tế có thẩm quyền đề nghị tiến hành ở vùng đặc quyền về kinh tế
hay trên thềm lục địa của mình trong các truờng hợp sau:
a. Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến việc thăm dò
và Khai thác các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật;
b. Nếu dự án có dự kiến công việc khoan trong thềm lục
địa, sử dụng chất nổ hay đưa chất độc hại vào trong môi truờng biển;
c. Nếu dự án dự kiến việc xây dựng, khai thác hay sử
dụng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đã nêu ở các Điều 60 và 80;
d. Nếu những thông tin đuợc thông báo về tình chất và
mục tiêu của dự án theo Điều 248 không đúng, hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc
tế có thẩm quyền, tác giả của dự án không làm tròn những nghĩa vụ đã cam kết
với quốc gia ven biển hữu quan trong một dự án nghiên cứu truớc đây.
Mặc dầu khoản 5 đã quy định như thế, các quốc gia ven
biển cũng không thể thi hành quyền tùy ý khuớc từ theo điểm a của khoản này,
đối với các dự án nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng phần này
trên thềm lục địa ở cách đuờng cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quá 200
hải lý, ngoài các khu vực đặc biệt mà bất kỳ lúc nào các quốc gia ven biển cung
có thể chính thức chỉ định làm nơi hoặc sẽ làm nơi để tiến hành công việc khai
thác hay thăm dò đi vào chi tiết trong một thời hạn hợp lý. Các quốc gia ven
biển thông báo trong những thời hạn hợp lý các khu vực mà mình chỉ định cũng
như tất cả những thay đổi có liên quan, nhung không có trách nhiệm cung cấp các
chi tiết về các công việc trên các khu vực này.
Khoản 6 đuợc áp dụng không phương hại đến các quyền ở
thềm lục địa đuợc thừa nhận cho các quốc gia ven biển ở Điều 77.
Các công tác nghiên cứu khoa học biển nói ở điều này
không đuợc gây trở ngại một cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển
tiến hành trong việc thi hành quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà Công
uớc đã trù định.
ĐIỀU 247. Các dự dán nghiên cứu do các tổ chức quốc tế
thực hiện hay duới sự bảo trợ của các tổ chức này
Một quốc gia ven biển là hội viên của một tổ chức quốc
tế, hay bị ràng buộc với tổ chức quốc tế đó qua một hiệp định tay đôi và ở vùng
đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, tổ chức quốc tế nói trên
muốn trực tiếp tiến hành, hay cho tiến hành duới sự bảo trợ của mình một dự án
nghiên cứu khoa học biển, thì nếu như quốc gia đó đã chuẩn y dự án chi tiết khi
tổ chức quốc tế quyết định tiến hành dự án, hay là quốc gia đó đã sẵn sàng tham
gia dự án nghiên cứu khoa học biển và không có ý kiến phản đối nào sau thời
gian 4 tháng, kể từ khi tổ chức đó thông báo cho quốc gia về dự án nói trên,
thì quốc gia đó coi như đa cho phép thực hiện dự án đúng theo các quy định về
tiêu chuẩn kỹ thuật đã thỏa thuận.
ĐIỀU 248. Nghĩa vụ cung cấp các thông tin cho quốc gia
ven biển
Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền muốn
tiền hành các công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế
hay trên thềm lục địa của một quốc gia ven biển, phải cung cấp cho quốc gia
này, chậm nhất là không quá 6 tháng truớc thời gian dự kiến để bắt đầu dự án
nghiên cứu khoa học biển, một bản mô tả đầy đủ, chỉ rõ:
Tính chất và các mục tiêu của dự án
Phương pháp và các phương tiện sẽ đuợc sử dụng; có nói
rõ tên, trọng luợng, kiểu và loại tàu thuyền, và một bản mô tả các dụng cụ khoa
học;
Các khu vực địa lý cụ thể mà dự án sẽ thực hiện;
Các thời hạn dự định cho chuyện đến đầu tiên và chuyện
ra đi cuối cùng của các tàu thuyền nghiên cứu, hay thời hạn dự định cho việc
triển khai và rút thiết bị, và thời hạn dự định cho việc thu hồi dụng cụ nghiên
cứu, tùy theo truờng hợp;
Tên cơ quan bảo trợ cho dự án nghiên cứu, tên của giám
đốc cơ quan này và của nguời chịu trách nhiệm dự án;
Mức độ mà quốc gia ven biển có thể tham gia vào dự án
hay đuợc cử đại diện
ĐIỀU 249. Nghĩa vụ tuân thủ một số điều kiện
1. Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực
hiện công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên
thềm lục địa của một quốc gia ven biển, cần phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a. Bảo đảm cho quốc gia ven biển, nếu quốc gia này muốn, quyền tham gia vào dự
án nghiên cứu khoa học biển hay đặc biệt là khi có thể đuợc, cử đại diện lên
trên các tàu thuyền và các xuồng nghiên cứu khác hay lên trên các thiết bị
nghiên cứu khoa học, nhung không phải thanh toán một khoản tiền thù lao nào cho
những nhà nghiên cứu của quốc gia này, và quốc gia này cũng không bị buộc phải
đóng góp vào các kinh phí của dự án;
b. Một khi công việc nghiên cứu đã kết thúc, phải cung
cấp càng sớm càng tốt, theo yêu cầu của quốc gia ven biển, những báo cáo sơ bộ,
cũng như các kết quả và kết luận cuối cùng;
c. Cam kết cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ,
tiếp xúc với tất cả các mẫu vật và dữ kiện thu đuợc trong khuôn khổ của dự án
nghiên cứu khoa học biển, cũng như cam kết cung cấp cho quốc gia này những dữ
kiện có thể sao lại và các mẫu vật có thể đuợc phân chia mà không làm giảm giá
trị khoa học của chúng;
d. Cung cấp cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của
họ, một bản đánh giá về các dữ kiện, các mẫu vật và các kết quả nghiên cứu đó,
hay giúp đỡ cho quốc gia này tiến hành đánh giá hoặc giải thích chung;
e. Với điều kiện phải thực hiện quy định ở khoản 2,
bảo đảm cho các kết quả của công tác nghiên cứu đuợc sẵn sàng đưa ra sử dụng
càng sớm càng tốt trên truờng quốc tế qua các con đuờng quốc gia hay quốc tế
thích hợp.
f. Thông báo ngay cho quốc gia ven biển bất kỳ sửa đổi
quan trọng nào đối với dự án nghiên cứu;
g. Một khi công tác nghiên cứu đã kết thúc, phải tháo
gỡ các thiết bị hay công cụ nghiên cứu khoa học, trừ khi có sự thỏa thuận khác.
2. Điều này đuợc áp dụng không làm phương hại đến các
điều kiện do các luật và quy định của quốc gia ven biển ấn định về việc thi
hành quyền tùy ý quyết định đồng ý hay không đồng ý theo Điều 246, khoản 5, kể
cả việc bắt buộc phải đuợc sự đồng ý truớc của nuớc đó mới đuợc phổ biến trên
phạm vi quốc tế các kết quả nghiên cứu thuộc một dự án có liên quan trực tiếp
đến việc thăm dò và khai thác các tài nguyên thiên nhiên.
ĐIỀU 250. Các thông tin liên lạc liên quan đến các dự
án nghiên cứu khoa học biển
Các thông tin liên lạc liên quan đến các dự án nghiên
cứu khoa học biển phải đuợc tiến hành qua các con đuờng chính thức thích hợp,
trừ khi có sự thỏa thuận khác.
ĐIỀU 251. Các tiêu chuẩn chung và các nguyên tắc chỉ
đạo
Các quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền có
thể thực hiện một dự án nghiên cứu khoa học sau một thời hạn 6 tháng kể từ ngày
các thông tin cần thiết theo Điều 248 đã đuợc thông báo cho quốc gia ven biển,
trừ khi trong một thời hạn 4 tháng kể từ lúc nhận đuợc các thông tin này, quốc
gia ven biển đã báo cho quốc gia hay tổ chức đề nghị thực hiện các công tác
nghiên cứu biết:
Quốc gia ven biển đã khuớc từ theo Điều 246; hay
Các thông tin do quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm
quyền này cung cấp về tính chất hay mục tiêu của dự án không phù hợp với sự
thực hiển nhiên; hay
Quốc gia ven biển cần có một thông báo bổ sung về
những thông tin hoặc những điều kiện đã nêu ở các Điều 248 và 249; hay
Các nghĩa vụ nẩy sinh từ các điều kiện đã đuợc quy
định ở Điều 249 cho một dự án nghiên cứu khoa học biển do quốc gia hay tổ chức
quốc tế này thực hiện truớc đây đã không đuợc làm tròn.
ĐIỀU 253. Việc đinh chỉ hoặc chấm dứt công việc nghiên
cứu khoa học biển
1. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu đinh chỉ các
công việc nghiên cứu khoa học biển đang tiến hành trong vùng đặc quyền về kinh
tế hay trên thềm lục địa của mình:
Nếu công việc này không đuợc tiến hành theo đúng các
thông tin đã đuợc thông báo theo Điều 248 mà quốc gia ven biển đã dựa vào để
đồng ý cho phép; hay
Nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi
tiến hành công việc này không tôn trọng các quy định của Điều 249 liên quan đến
các quyền của quốc gia ven biển đối với dự án nghiên cứu khoa học biển.
2. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu chấm dứt mọi
công việc nghiên cứu khoa học biển trong tất cả các truờng hợp mà việc không
tuân thủ Điều 248 có nghĩa là làm thay đổi lớn dự án các công trình nghiên cứu.
3. Quốc gia ven biển cũng có thể yêu cầu chấm dứt các
công việc nghiên cứu khoa học biển, nếu như, trong một thời gian hợp lý, một
điểm bất kỳ trong những tình hình nêu ở khoản 1 không đuợc sửa chữa.
4. Sau khi nhận đuợc thông báo về quyết định của quốc
gia ven biển đòi đinh chỉ hay chấm dứt công việc nghiên cứu khoa học biển, các
quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã đuợc phép tiến hành các công việc
này phải chấm dứt những công việc thuộc đối tuợng của thông báo.
5. Lệnh đinh chỉ đuợc đưa ra theo khoản 1 phải do quốc
gia ven biển thu hồi, và dự án khoa học nghiên cứu biển có thể đuợc tiếp tục
ngay khi quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện các công tác
nghiên cứu khoa học biển này đã tuân theo các điều kiện quy định ở các Điều 248
và 249.
ĐIỀU 254. Các quyền của các quốc gia láng giềng không
có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi
1. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
khi đã trao cho một quốc gia ven biển một dự án nghiên cứu khoa học biển nêu ở
Điều 246, khoản 3, cần thông báo dự án này cho các quốc gia láng giềng không có
biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý
bất lợi, và báo cho quốc gia ven biển việc gửi các thông báo này.
2. Một khi quốc gia ven biển có liên quan đã chấp
thuận dự án, theo đúng điều 246 và các quy định thích hợp khác của Công uớc,
các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi thực hiện dự án cần cung
cấp cho các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có
hoàn cảnh địa lý bất lợi các thông tin đã đuợc quy định rõ ở các Điều 248 và
249, khoản 1, điểm f, theo yêu cầu của họ và tùy theo sự cần thiết.
3. Các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi
về mặt địa lý đã nói ở trên, theo yêu cầu của mình, có khả năng đuợc tham gia
trong chừng mực có thể vào dự án nghiên cứu khoa học hiển đã đuợc dự tính qua
các chuyên gia có trình độ do mình chỉ định và đuợc quốc gia ven biển chấp
nhận, theo những điều kiện mà quốc gia ven biển và quốc qia hay các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền tiến hành công tác nghiên cứu khoa học biển đã thảo luận
để thực hiện dự án, phù hợp với Công uớc.
4. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền
đã nêu ở khoản 1 cung cấp cho các quốc gia không có biển và các quốc gia bất
lợi về mặt địa lý nói trên, theo yêu cầu của họ, những thông tin và sự giúp đỡ
đã đuợc quy định rõ ở Điều 249, khoản 1, điểm d, với điều kiẹn phải tuân thủ
khoản 2 của chính điều này.
ĐIỀU 255. Những biện pháp nhằm tạo điều kiện dễ dàng
cho việc nghiên cứu khoa học biển và giúp đỡ cho các tàu thuyền nghiên cứu
Các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc, quy định
và thủ tục hợp lý nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên
cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng Công uớc ở ngoài lãnh hải, và nếu
cần, thì tạo điều kiện cho các tàu thuyền nghiên cứu khoa học biển chấp hành
các quy định thích hợp của phần này vào ra cảng của các quốc gia nói trên đuợc
dễ dàng, với điều kiện là phải tuân thủ theo các luật và quy định của các quốc
gia này, và phải khuyến khích sự giúp đỡ cho các tàu thuyền này.
ĐIỀU 256. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng
Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình
như thế nào, cũng như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện
việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng, theo đúng phần XI.
ĐIỀU 257. Việc nghiên cứu khoa học biển trong phần
nuớc nằm ngoài ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế
Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình
như thế nào, cũng nhu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện
việc nghiên cứu khoa học biển theo đúng Công uớc trong phần nuớc nằm ngoài ranh
giới của vùng đặc quyền về kinh tế.
Mục 4 - CÁC THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRONG MÔI TRUỜNG BIỂN
ĐIỀU 258. Việc đặt và sử dụng
Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên
cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào ở một vùng nào đó của môi truờng biển phải
phụ thuộc vào cùng các điều kiện như đã đuợc Công uớc trù định cho việc tiến
hành nghiên cứu khoa học biển ở trong khu vực kể trên.
ĐIỀU 259. Chế độ pháp lý
Các thiết bị hay dụng cụ đuợc nêu trong mục này, không
có quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng, và sự có mặt của chúng
không có ảnh huởng đến vấn đề hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng độc quyền về
kinh tế hay thềm lục địa.
ĐIỀU 260. Khu vực an toàn
Các khu vực an toàn có một chiều rộng hợp lý không quá
500m có thể đuợc lập ra xung quanh các thiết bị nghiên cứu khoa học, theo đúng
các quy định tuong ứng của Công uớc. Tất cả các quốc gia phải chú ý bảo đảm cho
tàu thuyền của mình tôn trọng các khu vực an toàn này.
ĐIỀU 261. Nghĩa vụ không đuợc gây trở ngại cho hàng
hải quốc tế
Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên
cứu khoa học thuộc bất kỳ kiểu nào không đuợc gây cản trở cho việc hàng hải
theo các con đuờng quốc tế thuờng dùng.
ĐIỀU 262. Dấu hiệu nhận dạng và phương tiện báo hiệu
Các thiết bị hay dụng cụ đã nêu trong mục này phải có
các dấu hiệu nhận dạng chỉ rõ quốc gia đăng ký hay tổ chức quốc tế mà chúng phụ
thuộc vào, cũng như, phải có các phuong tiện báo hiệu thích hợp đã đuợc chấp
thuận
trên truờng quốc tế nhằm bảo đảm an toàn hàng hải và
hàng không, có tính đến các quy tắc và quy phạm do các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền đặt ra.
Mục 5 - TRÁCH NHIỆM
ĐIỀU 263. Trách nhiệm
Bổn phận của các quốc gia và các tổ chức quốc tế có
thẩm quyền là phải quan tâm, sao cho việc nghiên cứu khoa học biển, bất kể
chúng do hoặc nguời thay mặt cho họ thực hiện, đều đuợc tiến hành theo đúng
Công uớc.
Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền chịu
trách nhiệm về những biện pháp mà mình thi hành, vi phạm Công uớc, liên quan
đến các công việc nghiên cứu khoa học biển do các quốc gia khác, các tự nhiên
nhân hay pháp nhân có quốc tịch của các quốc gia khác đó hoặc do các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền tiến hành, và phải đền bù các tồn thất do các biện pháp
đó gây ra.
Các quốc gia và tổ chức có thẩm quyền phải chịu trách
nhiệm, theo Điều 235, về các tổn thất gây ra bởi nạn ô nhiễm môi truờng biển
xuất phát từ việc nghiên cứu khoa học biển do mình thực hiện hay do nguời thay
mặt cho mình thực hiện.
Mục 6 - GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM
ĐIỀU 264. Việc giải quyết các tranh chấp
Các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp
dụng các quy định của Công uớc về việc nghiên cứu khoa học biển đuợc giải quyết
theo đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV
ĐIỀU 265. Các biện pháp bảo đảm
Chừng nào một tranh chấp chưa đuợc giải quyết theo
đúng các Mục 2 và 3 của Phần XV, thì quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền
đuợc phép thực hiện dự án nghiên cứu khoa học biển, không cho phép thực hiện
hay
tiếp tục việc nghiên cứu khoa học nếu không có sự đồng
ý rõ ràng của các quốc gia ven biển hữu quan.
PHẦN XIV - PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT BIỂN
Mục 1 - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 266. Việc xúc tiến phát triển và chuyển giao các
kỹ thuật biển
1. Các quốc gia hợp tác trực tiếp, hoặc thông qua các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong phạm vi khả năng của mình, nhằm tích cực
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và chuyển giao khoa học và kỹ thuật
biển theo các thể thức và điều kiện công bằng và hợp lý.
2. Các quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển khả năng trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển của các quốc gia có nhu
cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ về kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất
là các quốc gia đang phát triển, kể cả quốc gia không có biển hay bất lợi về
mặt địa lý, trong việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên của
biển, trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, trong việc nghiên cứu khoa
học biển và các hoạt động khác nhằm tiến hành trong môi trường biển phù hợp với
Công ước, nhằm thúc đẩy tiển bộ xã hội và kinh tế của các quốc gia đang phát
triển.
3. Các quốc gia cố gắng giúp tạo ra các điều kiện kinh
tế và pháp lý thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật biển, trên cơ sở công
bằng, có lợi cho tất cả các bên hữu quan.
ĐIỀU 267. Việc bảo vệ các lợi ích chính đáng
Để tạo điều kiện cho sự hợp tác theo Điều 266, các
quốc gia cần phải tính đến tất cả các lợi ích chính đáng, cũng như các quyền và
nghĩa vụ của người nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận các
kỹ thuật biển.
ĐIỀU 268. Các mục tiêu cơ bản
Các quốc gia trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc
tế có thẩm quyền, cần phải xúc tiến:
Việc nắm, đánh giá và phổ biến các kiến thức trong
lĩnh vực kỹ thuật biển; các quốc gia này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp
xúc với các thông tin và các dữ liệu tương ứng;
Việc phát triển các kỹ thuật biển thích hợp;
Việc phát triển hạ tầng cơ sở về kỹ thuật cần thiết để
làm dễ dàng cho việc chuyển giao các kỹ thuật biển;
Việc khai thác nguồn nhân lực qua việc đào tạo và
giảng dạy cho các công dân của các quốc gia và các nước đang phát triển, đặc
biệt là những nước kém phát triển nhất trong các quốc gia đang phát triển đó;
Việc hợp tác quốc tế ở mọi mức độ, nhất là việc hợp
tác theo khu vực, phân khu vực và tay đôi.
ĐIỀU 269. Các biện pháp được thi hành để đạt tới các
mục tiêu cơ bản
Để đạt đến các mục tiêu cơ bản đã nêu ở Điều 268,
ngoài các biện pháp khác, các quốc gia tìm cách, trực tiếp hoặc thông qua các
tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để:
Lập ra các chương trình hợp tác kỹ thuật nhằm chuyển
giao thực sự các kỹ thuật biển thuộc đủ mọi loại cho các quốc gia có nhu cầu và
yêu cầu hưởng một sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật biển trong lĩnh vực này, nhất là
cho các quốc gia đang phát triển không có biển hay bất lợi về địa lý, cũng như
cho các quốc gia đang phát triển khác không có khả năng hoặc để tạo ra hoặc để
phát triển khả năng kỹ thuận riêng của mình trong lĩnh vực khoa học biển và
trong lĩnh vực thăm dò và khai thác các tài nguyên của biển, cũng không có khả
năng phát triển hạ tầng cơ sở cần thiết cho các kỹ thuật này;
Giúp tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc ký kết
các hiệp định, các hợp đồng hay các thỏa thuận tương tự khác, trong những điều
kiện công bằng, hợp lý;
Tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận
về các vấn đề khoa học và kỹ thuật, nhất là về các chính sách và phương pháp
cần đề ra để thực hiện chuyển giao các kỹ thuật biển;
Tạo điều khiện thuận lợi cho việc trao đổi các nhà
khoa học, kỹ thuật và các chuyên gia khác;
Thực hiện các dự án và xúc tiến các xí nghiệp liên
doanh và các hình thức hợp tác hai bên và nhiều bên khác.
Mục 2 - VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
ĐIỀU 270. Khuôn khổ và hợp tác quốc tế
Việc hợp tác quốc tế để phát triển và chuyển giao kỹ
thuật biển được thực hiện, khi có thể được và thích hợp, trong khuôn khổ của
các chương trình
hai bên, khu vực, và nhiều bên hiện có, cũng như trong
khuôn khổ của các chương trình được mở rộng và của các chương trình mới, nhằm
làm dễ dàng cho việc nghiên cứu khoa học biển và chuyển giao kỹ thuật biển, đặc
biệt, trong các lĩnh vực mới, và việc cấp kinh phí quốc tế thích hợp cho việc
nghiên cứu đại dương và khai thác các đại dương.
ĐIỀU 271. Các nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và
quy phạm
Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền, tìm cách xúc tiến việc soạn thảo các nguyên tắc chỉ đạo,
các tiêu chuẩn và qui phạm được chấp nhận chung về việc chuyển giao kỹ thuật
biền trong khuôn khổ của các thỏa hiệp hai bên hay trong khuôn khổ của các tổ
chức quốc tế và cơ quan khác, đặc biệt, có tính đến các lợi ích và nhu cầu của
quốc gia đang phát triển.
ĐIỀU 272. Việc phối hợp các chương trình quốc tế
Trong lĩnh vực chuyển giao kỹ thuật biển, các quốc gia
cố gắng bảo đảm cho các tổ chức quốc tế có thâtm quyền phối hợp với các hoạt
động của họ, kể cả mọi chương trình khu vực và thế giới, có tính đến các lợi
ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia không
có biển hay bất lợi về mặt địa lý.
ĐIỀU 273. Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế và Cơ
quan quyền lực
Các quốc gia tích cực hợp tác với các tổ chức quốc tế
có thẩm quyền và với Cơ quan quyền lực nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận
lợi cho việc chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển, cho công dân của họ
và cho xí nghiệp những kiến thức thực tiễn và kỹ thuật biển có liên quan đến
các hoạt động trong Vùng.
ĐIỀU 274. Các mục tiêu của Cơ quan quyền lực
Về các hoạt động tiến hành trong Vùng, Cơ quan quyền
lực quan tâm tới mọi lợi ích chính đáng cũng như các quyền và nghĩa vụ của
những người nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận kỹ thuật,
đảm bảo cho:
Theo đúng nguyên tắc phân chia công bằng về mặt địa
lý, các công dân của các quốc gia đang phát triền, dù là quốc gia ven biển,
không có biển hay có hoàn cảnh địa lý bất lợi, được đưa vào làm nhân viên tập
sự trong số các nhân viên kỹ thuật, quản lý và nghiên cứu được tuyển cho các
nhu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực;
Tài liệu kỹ thuật về dụng cụ, máy móc thiết bị và
phương pháp đã dùng phải để cho tất cả các quốc gia sử dụng, nhất là cho các
quốc gia đang phát triển đang có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ kỹ
thuật trong lĩnh vực này;
Các quy định thích hợp phải được xác định ngay trong
Cơ quan quyền lực để tạo điều kiện dễ dàng cho các quốc gia có nhu cầu và yêu
cầu được hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực kỹ thuật biển, nhất là các
quốc gia đang phát triển, và công dân của các nước này, nắm được các kiến thức
và có trình độ thành thạo cần thiết, kể cả việc được hưởng một sự đào luyện về
nghề nghiệp.
Các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự
giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc gia đang phát triển, nhận
được một sự giúp đỡ để có được trang thiết bị, các phương pháp, dụng cụ và bí
quyết kỹ thuật cần thiết, trong khuôn khổ của các thỏa thuận tài chính trù định
trong Công ước.
Mục 3 - CÁC TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
BIỂN CỦA QUỐC GIA VÀ KHU VỰC
ĐIỀU 275. Việc thành lập các trung tâm quốc gia
1. Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan quyền lực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thành lập, nhất là trong các quốc gia ven biển đang phát triển, các trung tâm
quốc gia nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển, và tăng cường các trung tâm hiện
có, để động viên và xúc tiến việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia
này và để phát triển khả năng riêng của từng nước nhằm sử dụng và gìn giữ các
tài nguyên biển của họ cho mục đích kinh tế.
2. Các quốc gia, thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền và Cơ quan quyền lực, góp phần giúp đỡ thích đáng để tạo điều kiện dễ
dàng cho việc thành lập và tăng cường các trung tâm quốc gia nhằm làm cho các
quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ như vậy có được những
phương tiện đào tạo tiên tiến, những thiết bị, những kiến thức thực tiễn và sự
thông thạo cần thiết, cũng như các chuyên gia kỹ thuật.
ĐIỀU 276. Việc thành lập các trung tâm khu vực
1. Phối hợp với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, Cơ
quan quyền lực và các viện nghiên cứu quốc gia về khoa học và kỹ thuật biển,
các quốc gia tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập, nhất là trong các quốc
gia đang phát triển, các trung tâm nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển của khu
vực,
nhằm khuyến khích và thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học
biển trong các quốc gia này và để làm dễ dàng cho việc chuyển giao kỹ thuật
biển.
2. Tất cả các quốc gia của cùng một khu vực cần tập
hợp tác với các trung tâm của khu vực để bảo đảm tốt hơn việc thực hiện các mục
tiêu của họ.
ĐIỀU 277. Những chức năng của các trung tâm khu vực
Ngoài các chức năng khác, các trung tâm khu vực có
trách nhiệm bảo đảm:
Các chương trình đào tạo và giảng dạy ở mọi trình độ
trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển khác nhau, đặc biệt là
môn sinh vật biển, đề cập trước hết là việc bảo về và quản lý các tài nguyên
sinh vật, môn hải dương học, thủy văn học, kỹ thuật công trình, thăm dò địa
chất đáy biển, khai thác mỏ và kỹ thuật khử mặn nước biển;
Việc nghiên cứu công tác quản lý;
Các chương trình nghiên cứu có quan hệ đến việc bảo vệ
và gìn giữ môi trường biển và việc ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm;
Việc tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo
luận thuộc khu vực;
Thu thập và xử lý dữ kiện và thông tin trong lĩnh vực
khoa học và kỹ thuật biển;
Phổ biến nhanh chóng các kết quả của việc nghiên cứu
khoa học và kỹ thuật biển trong các tài liệu dễ phổ cập;
Phổ biến các thông tin về các chính sách quốc gia liên
quan đến việc chuyển giao kỹ thuật biển, và việc nghiên cứu so sánh có hệ thống
các chính sách này;
Sưu tập và hệ thống hóa các thông tin liên quan đến
việc thương mại hóa các kỹ thuật, cũng như đến các hợp đồng và các thỏa thuận
khác về các chứng chỉ;
Hợp tác kỹ thuật với các quốc gia khác của khu vực.
Mục 4 - VIỆC HỢP TÁC GIỮA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
ĐIỀU 278. Việc hợp tác giữa các tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc tế có thẩm quyền nói trong phần này
và Phần XIII thi hành mọi biện pháp cần thiết để trực tiếp hay bằng cách hợp
tác chặt chẽ, làm tròn các chức năng và nhiệm vụ mà mình đảm đương theo phần
này.
PHẦN XV - GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
Mục 1 - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 279. Nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương
pháp hòa bình
Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp xảy
ra giữa họ về việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các phương pháp hòa
bình theo đúng Điều 2, khoản 3 của Hiến chương liên hợp quốc và, vì mục đích
này, cần phải tìm ra giải pháp bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều 33,
khoản 1 của Hiến chương.
ĐIỀU 280. Giải quyết các tranh chấp bằng bất kỳ phương
pháp hòa bình nào do các bên lựa chọn
Không một quy định nào của phần này ảnh hưởng đến
quyền của các quốc gia thành viên đi đến thỏa thuận giải quyết vào bất cứ lúc
nào, bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào theo sự lựa chọn của mình một vụ
tranh chấp xảy ra giữa họ và vấn đề giải thích hay áp dụng Công ước.
ĐIỀU 281. Thủ tục phải tuân theo khi các bên không đạt
tới một cách giải quyết
1. Khi các quốc gia thành viên tham gia và một vụ
tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã thỏa thuận tìm
cách giải quyết tranh chấp này bằng một phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn
của mình, thì các thủ tục được trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu
người ta không đạt được một cách giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa
thuận giữa các bên không loại trừ khả năng tiến hành một thủ tục khác.
2. Nếu các bên cùng thỏa thuận về một thời hạn, thì
khoản một chỉ được áp dụng kể từ khi kết thúc thời hạn này.
ĐIỀU 282. Các nghĩa vụ xuất phát từ các hiệp định
chung, khu vực hay hai bên
Khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh
chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, trong khuôn khổ của
một hiệp định chung, khu vực hay hai bên hay bất kỳ cách nào, đã thỏa thuận
rằng một vụ tranh chấp như vậy, sẽ phải tuân theo một thủ tục dẫn đến một quyết
định bắt buộc, thì thủ tục này được áp dụng thay cho các thủ tục đã được trù
định trong phần này, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác.
ĐIỀU 283. Nghĩa vụ tiến hành các cuộc trao đổi về quan
điểm
1. Khi có tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành
viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, các bên tranh chấp
tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng hay bằng các phương pháp hòa bình khác.
2. Cũng như vậy, các bên tiến hành ngay một cuộc trao
đổi quan điểm mỗi khi kết thúc một thủ tục giải quyết đối với một vụ tranh chấp
như vậy mà không giải quyết được, hay mỗi khi đã có một giải pháp và các hoàn
cảnh đòi hỏi các cuộc tham khảo ý kiến liên quan đến việc thi hành giải pháp
đó.
ĐIỀU 284. Việc hòa giải
1. Bất kỳ quốc gia nào thành viên nào tham gia vào một
vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đều có thể yêu
cầu quốc gia khác hay các bên khác đưa vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục
đã được trù định ở Mục 1 của Phụ lục V, hay theo một thủ tục hòa giải khác.
2. Khi yêu cầu đã được chấp nhận và nếu các bên đồng ý
về thủ tục hòa giải sẽ được áp dụng, thì bất kỳ bên nào cũng có thể đưa ra vụ
tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đó.
3. Khi yêu cầu không được chấp nhận hay nếu các bên
không thỏa thuận được về thủ tục hòa giải, thì coi như đã chấm dứt việc hòa
giải.
4. Khi một vụ tranh chấp đã được đưa ra hòa giải, thì
chỉ kết thúc việc hòa giải theo đúng thủ tục hòa giải đã thỏa thuận, trừ khi
các bên có sự thỏa thuận khác.
ĐIỀU 285. Việc áp dụng mục này cho các vụ tranh chấp
đã được đưa ra theo phần XI
Mục này được áp dụng cho bất kỳ vụ tranh chấp nào mà
theo Mục 5 của Phần XI cần được giải quyết theo đúng các thủ tục đã trù định
trong phần này. Nếu một thực thế không phải là một quốc gia thành viên tham gia
vào một vụ tranh chấp như thế, thì mục này được áp dụng mutalis mutandis (với
những sửa đổi cần thiết về chi tiết).
Mục 2 - CÁC THỦ TỤC BẮT BUỘC DẪN TỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH
BẮT BUỘC
ĐIỀU 286. Phạm vi áp dụng mục này
Với điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên quan
đến việc giải thích hay áp dụng Công ước khi không được giải quyết bằng cách áp
dụng Mục 1, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được đưa ra trước tòa án
có thẩm quyền theo mục này.
ĐIỀU 287. Việc lựa chọn thủ tục
1. Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công
ước, hay ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn,
hình thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết
các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước:
Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng
Phụ lục VII;
Toà án quốc tế;
Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục
VII;
Một tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng
Phụ lục VIII để giải quyết một hay nhiều loại tranh chấp đã được qui định rõ
trong đó.
2. Một bản tuyên bố theo khoản 1 không ảnh hưởng đến
nghĩa vụ của một quốc gia thành viên phải chấp nhận, trong phạm vi và theo các
thể thức được trù định ở Mục 5 của phần XI, thẩm quyền của Viện giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến đáy biển thuộc Toàn án quốc tế về luật biển và
tuyên bố đó cũng không bị nghĩa vụ này tác động đến.
3. Một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh
chấp mà không được một tuyên bố còn có hiệu lực bảo vệ, thì được xem là đã chấp
nhận thủ tục trọng tài đã trù định ở Phụ lục VII.
4. Nếu các bên tranh chấp đã chấp nhận cùng một thủ
tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải
quyết theo thủ tục đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
5. Nếu các bên tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ
tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải
quyết theo thủ tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên có
thỏa thuận khác.
6. Một bản tuyên bố theo đúng khoản 1 vẫn còn hiệu lực
trong vòng 3 tháng sau khi đã gửi một thông báo hủy bỏ cho Tổng thư ký Liên hợp
quốc.
7. Một tuyên bố mới, một thông báo hủy nbỏ hay việc
một tuyên bố hết hạn không hề ảnh hưởng đến thủ tục đang tiến hành trước một
toàn án có thẩm quyền theo điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
8. Các tuyên bố và thông báo đã nêu ở điều này được
gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển và Tổng thư ký Liên hợp quốc
chuyển các bản sao cho các quốc gia thành viên.
ĐIỀU 288. Thẩm quyền
1. Một tòa án đã nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử
bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã được
đưa ra cho mình theo đúng phần này.
2. Một tòa án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử
bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước
quốc tế có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình
theo đúng điều ước này.
3. Viện giải quyết tranh chấp liên quan đến đáy biển
được lập nên theo đúng phụ lục VI và bất kỳ viện nào khác, hay tòa trọng tài
nào khác, đã nêu ở Mục 5 của Phần XI, đều có thẩm quyền xét xử mọi vấn đề đã
được đưa ra cho mình theo đúng mục đó.
4. Trong trường hợp có sự tranh cãi về vấn đề một tòa
án có thẩm quyền hay không, thì vấn đề này do tòa án đó quyết định.
ĐIỀU 289. Các chuyên viên
Đối với mọi tranh chấp đụng chạm đến những vấn đề khoa
học hay kỹ thuật, một tòa án khi thi hành thẩm quyền của mình theo mục này,
theo yêu cầu của một bên hay tự ý mình, và qua tham khảo ý kiến các bên, có thể
lựa chọn trên một bản danh sách thích hợp được lập nên theo đúng Điều 2 của phụ
lục VIII, ít nhất là 2 chuyên viên khoa học hay kỹ thuật tham gia tòa án nhưng
không có quyền biểu quyết.
ĐIỀU 290. Những biện pháp bảo đảm
1. Nếu một tòa án được đề nghị xét một vụ tranh chấp
theo đúng thủ tục và thấy prima facie (hiển nhiên) là mình có thẩm quyền theo
phần này hay Mục 5 của phần XI, thì tòa án này có thế qui định tất cả các biện
pháp bảo đảm mà mình xét thấy thích hợp với tình hình để bảo vệ các quyền riêng
của từng bên tranh chấp hay để ngăn không cho môi trường của biển bị những tổn
thất nghiêm trọng, trong khi chờ quyết định cuối cùng.
2. Các biện pháp bảo đảm có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ
ngay khi các hoàn cảnh chứng minh cho các biện pháp đó thay đổi hay không còn
tồn tại.
3. Các biện pháp bảo đảm chỉ có thể được qui định, sửa
đổi hay hủy bỏ theo điều này, theo yêu cầu của một bên tranh chấp và sau khi đã
tạo cho các bên tranh chấp khả năng thỏa thuận được với nhau.
4. Toà án thông báo ngay mọi biện pháp bảo đảm hay mọi
quyết định sửa bỏ hay hủy bỏ biện pháp đó cho các bên tranh chấp, và nếu xét
thấy thích hợp, thì thông báo cho các quốc gia thành viên khác.
5. Trong khi chờ lập ra một tòa trọng tài xét xử một
vụ tranh chấp theo mục này, mọi tòa án do các bên thỏa thuận với nhau chỉ định,
hoặc, nếu không thỏa thuận được trong một thời hạn 2 tuần sau ngày có yêu cầu
các biện pháp bảo đảm. Toà án quốc tế về luật biển, hay trong trường hợp của
các hoạt động tiến hành trong Vùng, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan
đến đáy biển, có thể quy định, sửa đổi hay hủy bỏ các biện pháp bảo đảm theo
đúng điều này, nếu như họ thấy prima facie (hiển nhiên) rằng tòa án cần được
lập ra sẽ có thẩm quyền, và nếu như họ xét thấy rằng tính chất khẩn trương của
tình hình đòi hỏi phải làm như vậy. Một khi được thành lập, tòa án được giao
xét xử vụ tranh chấp, hành động theo đúng các khoản 1 đến 4, có thể sửa đổi,
hủy bỏ hay xác nhận biện pháp bảo đảm này.
6. Các bên tranh chấp phải tuân theo không chậm trễ
các biện pháp bảo đảm được quy định theo điều này.
ĐIỀU 291. Việc sử dụng các thủ tục giải quyết tranh
chấp
1. Tất cả các thủ tục giải quyết tranh chấp được trù
định trong phần này đều để ngỏ cho các quốc gia thành viên.
2. Các thủ tục để giải quyết tranh chấp được trù định
trong phần này chỉ để ngo cho các thực thể không phải là quốc gia thành viên
trong phạm vi mà Công ước đã trù định một cách rõ ràng.
ĐIỀU 292. Giải phóng ngay cho tàu thuyền bị cầm giữ
hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó
1. Khi các nhà chức trách của một quốc gia thành viên
đã bắt giữ một chiếc tàu mang cờ của một quốc gia thành viên khác và nếu thấy
rằng quốc gia bắt giữ chiếc tàu đã không tuân theo các qui định của Công ước
trù định việc giải phóng ngay cho tàu thuyền hay trả tự do cho đoàn thủy thủ
của nó ngay khi ký gởi một khoản tiền bảo lãnh hợp lý hay một khoản bảo đảm tài
chính nào khác, thì vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ phải
được đưa ra trước một tóa án do các bên chỉ định theo một thỏa thuận chung; nếu
không thỏa thuận đuợc trong một thời hạn 10 ngày kể từ lúc bắt giữ chiếc tàu
hay đoàn thủy thủ, vấn đề này có thể được đưa ra trước một tòa án được quốc gia
đã tiến hành bắt hay giữ tàu hay đoàn thủy thủ chấp nhận theo đúng Điều 287,
hay trước Tòa án quốc tế về luật biển, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
2. Yêu cầu giải phóng hay trả tự do chỉ có thể do quốc
gia mà tàu mang cờ hoặc nhân danh quốc gia ấy đưa ra.
3. Tòa án nhanh chóng xem xét yêu cầu này và chỉ xét
xử vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ, việc này không có ảnh
hưởng gì đến tiến trình tiếp sau của mọi vụ kiện mà chiếc tàu, người chủ chiếc
tàu hay đoàn thủy thủ của nó có thể là đối tượng trước quyền tài phán quốc gia
thích hợp. Các nhà chức trách của quốc gia đã tiến hành bắt, giữ vẫn có đủ tư
cách ra lệnh giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó vào bất kỳ
lúc nào.
4. Ngay khi đã ký gửi khoản tiền bảo lãnh hay một
khoản bảo đảm tài chính khác theo quyết định của tòa án, các nhà chức trách của
quốc gia đã bắt giữ tàu phải tuân theo quyết định của tòa án về việc giải phóng
tàu và trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó.
ĐIỀU 293. Luật có thể áp dụng
1. Tòa án có thẩm quyền theo mục này áp dụng các qui
định của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không mâu thuẫn với
Công ước.
2. Khoản 1 không đụng chạm đến quyền hạn của tòa có
thẩm quyền theo mục này để xét xử ex aequo bono (công bằng) nếu các bên thỏa
thuận.
ĐIỀU 294. Các thủ tục sơ bộ
1. Tòa án được trù định ở Điều 287 nhận được đơn yêu
cầu xét xử một vụ tranh chấp nói ở Điều 297 quyết định theo thỉnh cầu của một
bên, hay có thể quyết định theo ý mình, xem yêu cầu này có phải là một sự lạm
dụng các phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên) là có căn cứ. Nếu tòa
án xét thấy rằng, đó là một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay prima facie
(hiển hiên) là không có căn cứ, thì tòa án thôi không xét đơn nữa.
2. Lúc nhận được đơn, tòa án thông báo ngay cho bên
kia hay các bên kia, và qui định một thời hạn hợp lý, để các bên này có thể yêu
cầu tòa quyết định về các điểm đã nêu ở khoản 1.
3. Điều này không hề đụng chạm đến các quyền của một
bên tranh chấp nêu lên những phản bác sơ bộ theo đúng các qui tắc tố tụng có
thể áp dụng.
ĐIỀU 295. Trường hợp các biện pháp tố tụng nội bộ đã
được sử dụng hết
Một vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, chỉ có thể được đưa ra giải
quyết theo các thủ tụ đã qui định ở mục này sau khi các biện pháp tố tụng nội
bộ đã được sử dụng hết theo đòi hỏi của pháp luật quốc tế.
ĐIỀU 296. Tính chất tối hậu và bắt buộc của các quyết
định
1. Các quyết định do tòa án có thẩm quyền theo mục này
đưa ra là có tính chất tối hậu, và tất cả các bên tranh chấp phải tuân theo.
2. Các quyết định đó chỉ có tính chất bắt buộc đối với
các bên và trong trường hợp riêng biệt được xem xét.
Mục 3 - CÁC GIỚI HẠN VÀ NGOẠI LỆ ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG
ĐIỀU 297. Các giới hạn áp dụng mục 2
1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay
áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán
của quốc gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, được xét theo các
thủ tục giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây:
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo
Công ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do và quyền
đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục
đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58;
Khi thấy rằng trong việc thi hành các tự do và các
quyền đó hoặc trong việc sử dụng các quyền này, một quốc gia đã không tuân theo
Công ước hay các luật hoặc các qui định do quốc gia ven biển đề ra phù hợp với
các qui định của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không trái
với Công ước; hoặc
Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo các
qui tắc hay quy phạm quốc tế đã được xác định nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường
biển có thể áp dụng cho quốc gia này và đã được Công ước đặt ra, hay được đặt
ra thông qua một tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay một hội nghị ngoại giao hành
động phù hợp với Công ước.
2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích
hay áp dụng các qui định của Công ước về nghiên cứu khoa học biển được giải
quyết theo đúng
Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận
theo cách giải quyết như thế đối với một vụ tranh chấp phát sinh từ:
Việc quốc gia này thi hành một quyền tùy ý quyết định
theo đúng Điều 246; hay
Quyết định của quốc gia này ra lệnh đình chỉ hoặc chấm
dứt tiến hành một dự án nghiên cứu theo đúng Điều 253;
b) Các vụ tranh chấp phát sinh từ một luận cứ của quốc
gia nghiên cứu cho rằng trong trường hợp của một dự án riêng biệt, quốc gia ven
biển không sử dụng các quyền mà các Điều 246 và 253 đã dành cho mình một cách
phù hợp với Công ước, thì theo yêu cầu của bên này hay bên khác được đưa ra hòa
giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V, dĩ nhiên là Ủy ban
hòa giải không được xét việc thi hành quyền tùy ý quyết định của quốc gia ven biển
trong việc chỉ định các khu vực đặc biệt, như đã được trù định ở Điều 246,
khoản 6, cũng như việc thi hành quyền tùy ý không cho phép theo đúng khoản 5
của cùng điều đó.
3. a) Các việc tranh chấp liên quan đến việc giải
thích hay áp dụng các qui định của Công ước về việc đánh bắt hải sản được giải
quyết theo đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận cách giải
quyết như vậy về một vụ tranh chấp liên quan đến các quyền thuộc chủ quyền của
mình đối với các tài nguyên sinh vật thuộc Vùng đặc quyền về kinh tế của mình,
hay liên quan đến việc thi hành các quyền này, kể cả quyền tùy ý qui định khối
lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng đánh bắt của mình, phân phối
số dư ra giữa các quốc gia khác, quyết định các thể thức, điều kiện đặt ra
trong các luật và qui định của mình về bảo vệ và quản lý;
b) Nếu việc vận dụng Mục 1, không cho phép đi đến một
cách giải quyết, thể theo yêu cầu của một bên nào đó trong số các bên tranh
chấp, vụ tranh chấp được đưa ra hòa giải theo thủ tục được trù định ở Mục 2 của
Phụ lục V, khi chứng minh được rằng quốc gia ven biển đã:
Rõ ràng không thực hiện nghĩa vụ phải dùng các biện
pháp bảo vệ và quản lý thích hợp để bảo đảm rằng việc duy trì các tài nguyên
sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế không bị ảnh hưởng nghiêm trọng;
Độc đoán từ chối việc quy định, theo yêu cầu của một
quốc gia khác khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng khai thác
tài nguyên sinh vật của mình đối với các đàn (stocks) hải sản mà việc khai thác
có liên quan đến quốc gia khác đó; hay
Độc đoán từ chối việc chia cho một quốc gia nào đó
toàn bộ hay một phần số cá dư mà mình đã xác nhận, như đã trù định ở các Điều
62, 69 và 70 và theo các thể thức và điều kiện mà bản thân mình đã qui định và
phù hợp với Công ước;
Ủy ban hòa giải không có trường hợp nào được phép dùng
quyền túy ý quyết định của mình thay cho quyền tùy ý quyết định của các quốc
gia ven biển.
Báo cáo của Ủy ban hòa giải phải được thông báo cho
các tổ chức quốc tế thích hợp.
Khi đàm phán về các thỏa thuận đã trù định ở các Điều
69 và 70, các quốc gia thành viên, trừ khi có thỏa thuận khác, ghi vào đó một
điều khoản trù định các biện pháp mà mình phải thi hành để giảm đến mức tối
thiểu các khả năng bất đồng về việc giải thích hay áp dụng thỏa thuận, cũng như
thủ tục phải tuân theo trong trường hợp vẫn có bất đồng.
ĐIỀU 298. Những ngoại lệ không bắt buộc đối với việc
áp dụng Mục 2
1. Khi ký kết, phê chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở
vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, với điều kiện không phương hại đến các nghĩa
vụ phát sinh từ Mục 1, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn bản rằng mình
không chấp nhận một hay nhiều thủ tục giải quyết các tranh chấp đã được trù
định ở Mục 2 có liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau đây:
a) i. Các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng
các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển hay
các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử, nghĩa là khi một tranh
chấp như thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu lực và nếu các bên không đi đến
một thỏa thuận nào bằng con đường thương lượng trong một thời hạn hợp lý, thì
quốc gia đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, chấp nhận đưa vụ
tranh chấp đó ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của phụ lục V,
và đương nhiên không thể đưa ra xét theo thủ tục này một vụ tranh chấp nào đòi
hỏi nhất thiết phải xem xét đồng thời một vụ tranh chấp chưa được giải quyết
liên quan đến chủ quyền và các quyền khác trên một lãnh thổ đất liền hay đảo;
ii. Một khi Ủy ban hòa giải đã trình bày báo cáo của
mình, báo cáo phải nói rõ được lý do, thì các bên thương lượng về một thỏa
thuận trên cơ sở của báo cáo này; nếu các cuộc thương lượng không thành, thì
các bên, qua sự thỏa thuận với nhau, đưa vấn đề ra theo các thủ tục đã được quy
định ở Mục 2, trừ khi các bên có thỏa thuận khác;
iii. Điểm nhỏ này không áp dụng đối với các vụ tranh
chấp liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển đã được một thỏa
thuận giữa các bên giải quyết dứt khoát, cũng như đối với các vụ tranh chấp
phải được giải quyết theo đúng một bạn thỏa thuận hai bên hay nhiều bên có tính
chất ràng buộc các bên;
b) Các vụ tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân
sự, kể cả hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của Nhà nước được
sử dụng cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các vụ tranh chấp
liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành, đã được thực hiện trong việc
thi hành các quyền thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán mà Điều 297, khoản 2 và
3, đã loại trừ khỏi thẩm quyền của một Tòa án;
c) Các vụ tranh chấp mà Hội đồng bảo an Liên hợp quốc,
trong khi thi hành các chức năng của mình do Hiến chương Liên hợp quốc giao phó
có
trách nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng bảo an quyết
định xóa vấn đề trong chương trình nghị sự của mình hay yêu cầu các bên tranh
chấp giải quyết tranh chấp của họ bằng các phương pháp đã qui định trong Công
ước.
2. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo
khoản 1, thì bất kỳ lúc nào cũng có thể rút lui tuyên bố đó hay thỏa thuận đưa
ra một vụ tranh chấp mà tuyên bố này đã loại trừ, ra trước bất cứ thủ tục giải
quyết nào đã được trù định trong Công ước.
3. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo
khoản 1, thì không thể đưa ra một vụ tranh chấp, nằm trong một loại tranh chấp
đã bị loại trừ, ra trước một thủ tục nào đó trong số các thủ tục đã được trù
định trong Công ước, nếu không có sự thỏa thuận của quốc gi thành viên đang
tranh chấp với mình.
4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo
khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi
tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại
tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên
bố này.
5. Một tuyên bố mới hay một thông báo rút lui một
tuyên bố không hề có tác động đến thủ tục đang áp dụng trước một toàn án xét xử
theo đúng điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6. Các tuyên bố hay các thông báo rút lui các tuyên bố
nói ở điều này phải được gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển, Tổng
thư ký Liên hợp quốc chuyển các bản sao các văn kiện đó cho các quốc gia thành
viên.
ĐIỀU 299. Quyền của các bên trong việc thỏa thuận các
thủ tục
1. Bất kỳ tranh chấp nào khi đã bị loại khỏi các thủ
tục giải quyết các tranh chấp được trù định ở Mục 2 theo Điều 297 hoặc bằng một
tuyên bố theo đúng Điều 298, thì chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo các thủ
tục này qua sự thỏa thuận của các bên tranh chấp.
2. Không một quy định nào của mục này đụng chạm đến
quyền của các bên tranh chấp trong việc thỏa thuận sử dụng một thủ tục khác để
giải quyết vụ tranh chấp, hay thỏa thuận giải quyết vụ tranh chấp bằng sự giàn
xếp ổn thỏa.
PHẦN XVI - CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
ĐIỀU 300. Thiện chí và lạm quyền
Các quốc gia thành viên phải có thiện chí hoàn thành
các nghĩa vụ đã đảm nhận theo nội dung Công ước, và thực hiện các quyền, thẩm
quyền và các tự do đã được thừa nhận trong Công ước, sao cho không để xảy ra
tình trạng lạm quyền.
ĐIỀU 301. Việc sử dụng biển vào những mục đích hòa
bình
Trong việc thực hiện các quyền và làm tròn nghĩa vụ
của mình theo đúng Công ước, các quốc gia thành viên tránh dựa vào việc đe dọa
hay sử dụng vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của mọi
quốc gia hay tránh cùng bất kỳ cách nào khác không phù hợp với các nguyên tắc
của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc.
ĐIỀU 302. Việc tiết lộ các thông tin
Không phương hại đến quyền của mọi quốc gia thành viên
dựa vào các thủ tục giải quyết các vụ tranh chấp đã được trù định trong Công
ước, không qui định nào của Công ước có thể được giải thích như là bắt buộc một
quốc gia thành viên, trong khi thi hành các nghĩa vụ của mình theo Công ước,
cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ sẽ là trái với các lợi ích thiết yếu của
mình về mặt an ninh.
ĐIỀU 303. Các hiện vật khảo cổ và lịch sử được phát
hiện ở biển
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính
chất khảo cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển; các quốc gia hợp tác với nhau
vì mục đích ấy.
Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, bằng cách áp
dụng Điều 33, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển
trong vùng nói ở điều đó mà không có sự thỏa thuận của mình là sự vi phạm các
luật và qui định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của
mình, đã được nêu ở Điều 33.
Điều này không đụng chạm đến các quyền của những người
sở hữu có thể được xác nhận, cũng không đụng chạm đến quyền thu hồi các xác tàu
và các qui tắc khác của luật hàng hải cũng không đụng chạm đến các luật và tập
quán về mặt trao đổi văn hóa.
Điều này không làm phương hại đến các điều ước quốc tế
khác và các qui tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các hiện
vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử.
ĐIỀU 304. Trách nhiệm trong trường hợp xảy ra thiệt
hại
Các qui định của Công ước liên quan đến trách nhiệm
trong trường hợp xảy ra thiệt hại không phương hại đến việc áp dụng các qui tắc
hiện hành và việc lập ra các qui tắc mới liên quan đến trách nhiệm theo pháp
luật quốc tế.
PHẦN XVII - CÁC QUI ĐỊNH CUỐI CÙNG
ĐIỀU 305. Ký kết
1. Công ước để ngỏ cho các đối tượng sau đây được ký:
Tất cả các quốc gia;
Nước Na-mi-bi-a do Hội đồng của Liên hợp quốc về
Na-mi-bi-a đại diện;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị đã chọn chế độ này
qua một hành động tự quyết do Liên hợp quốc giám sát và phê chuẩn theo Nghị
quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công
ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các quốc gia liên kết tự trị mà theo các văn
bản liên kết, có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm
quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Tất cả các lãnh thổ có quyền tự trị hoàn toàn về nội
trị được Liên hợp quốc thừa nhận, nhưng chưa giành được nền độc lập hoàn toàn
phù hợp với Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các
vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó;
Các tổ chức quốc tế theo đúng phụ lục IX.
Công ước để ngỏ cho việc ký kết tại Bộ Ngoại giao nước
Gia-mai-ca cho đến ngày 09-12-1984 cũng như tại trụ sở của Liên hợp quốc tại
Niu Oóc từ 1-7-1983 đến 9-12-1984.
ĐIỀU 306. Việc phê chuẩn và việc xác nhận chính thức
Công ước phải được các quốc gia và các thực thể khác
nói ở Điều 305, khoản 1, các điểm b, c, d và e phê chuẩn và được các thực thể
nói ở khoản 1, điểm f, của điều đó xác nhận chính thức theo đúng Phụ lục IX.
Các văn kiện phê chuẩn và xác nhận chính thức được lưu chiểu bên cạnh Tổng thư
ký Liên hợp quốc.
ĐIỀU 307. Việc tham gia
Công ước vẫn để ngỏ cho các quốc gia và thực thể khác
nói ở Điều 305 tham gia. Việc tham gia của các thực thể nói ở Điều 305, khoản
1, điểm f do Phụ lục IX điều chỉnh. Các văn kiện tham gia được lưu chiểu bên
cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc.
ĐIỀU 308. Có hiệu lực
1. Công ước có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày gửi
lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60.
2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn Công ước hay tham
gia vào Công ước sau khi văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60 đã được gửi lưu
chiểu, thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày quốc gia này gửi
lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia của mình, với điều kiện phải tuân thủ
quy định ở khoản 1.
Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực sẽ nhóm họp vào
ngày mà Công ước bắt đầu có hiệu lực và sẽ bầu ra Hội đồng của Cơ quan quyền
lực. Trong trường hợp Điều 161 không thể thực hiện hoàn toàn đầy đủ, thì Hội
đồng đầu tiên phải được thành lập sao cho phù hợp với những mục tiêu đã nói ở
điều đó.
Các quy tắc, quy định và thủ tục do Ủy ban trù bị soạn
thảo sẽ được tạm thời áp dụng trong khi chờ cho các qui tắc, qui định và thủ
tục đó được Cơ quan quyền lực chính thức thông qua theo đúng Phần XI.
Cơ quan quyền lực và các cơ quan của nó hành động theo
đúng nghị quyết II của Hội nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc liên
quan đến các khoản vốn đầu tư ban đầu và với các quyết định của Ủy ban trù bị
để thực hiện nghị quyết này.
ĐIỀU 309. Các bảo lưu và ngoại lệ
Công ước không chấp nhận bảo lưu, cũng không chấp nhận
các ngoại lệ ngoài những điều đã được các điều khác của Công ước cho phép một
cách rõ ràng.
ĐIỀU 310. Các tuyên bố
Điều 309 không ngăn cấm một quốc gia, vào lúc mà quốc
gia này ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia vào Công ước, ra các tuyên bố,
bất kể lới văn hay tên gọi của tuyên bố đó thế nào, đặc biệt là nhằm điều hòa
luật lệ và qui định quốc của họ với Công ước, với điều kiện là các tuyên bố này
không nhằm loại trừ hay sửa đổi hiệu lực pháp lý của các qui định của Công ước
trong việc áp dụng chúng vào quốc gia này.
ĐIỀU 311. Mối quan hệ với các công ước và điều ước
quốc tế khác
Giữa các quốc gia thành viên, Công ước có giá trị hơn
các Công ước Giơ-ne-vơ ngày 29 tháng 4 năm 1958 về luật biển.
Công ước không thay đổi chút nào về các quyền và nghĩa
vụ của các quốc gia thành viên bắt nguồn từ các Hiệp ước khác phù hợp với Công
ước và các quyền và nghĩa vụ đó không đụng chạm đến việc các quốc gia khác được
hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng như việc các quốc gia khác thi
hành nghĩa vụ của họ bắt nguồn từ Công ước.
Hai hoặc trên hai quốc gia thành viên tham gia vào
Công ước có thể ký các điều ước sửa đổi hay đình chỉ việc áp dụng các qui định
của Công ước và chỉ áp dụng vào các mối quan hệ giữa họ với nhau, với điều kiện
là các điều ước này không đụng đến một trong các qui định Công ước mà việc
không tôn trọng sẽ không phù hợp với việc thực hiện nội dung và mục đích của
Công ước, và cũng với điều kiện là các điều ước này không đụng chạm đến việc áp
dụng các nguyên tắc cơ bản đã được nêu trong Công ước, cũng không đụng chạm đến
việc các quốc gia khác hưởng và thi hành các quyền hay nghĩa vụ bắt nguồn từ
Công ước.
Các quốc gia thành viên dự định ký kết một điều ước
nói ở khoản 3 cần thông báo cho các bên khác, qua trung gian của người lưu
chiểu Công ước, ý định ký kết điều ước của mình cũng như những sửa đổi hay việc
đình chỉ áp dụng các qui định của Công ước mà điều ước đó trù định.
Điều này không đụng chạm đến các điều ước quốc tế được
phép hay được duy trì một cách rõ ràng theo các điều khác của Công ước.
Các quốc gia thành viên thỏa thuận rằng không thể có
sự sửa đổi nào đối với nguyên tắc cơ bản về di sản chung của loài người đã được
nêu lên ở
Điều 136 và các quốc gia này sẽ không tham gia vào một
điều ước nào vi phạm nguyên tắc ấy.
ĐIỀU 312. Sửa đổi
Sau một thời gian 10 năm kể từ ngày Công ước có hiệu
lực, mọi quốc gia thành viên có thể, qua văn bản gửi lên Tổng thư ký Liên hợp
quốc, đề nghị các điểm sửa đổi đối với Công ước về những điểm cụ thể, trong
chừng mực mà các điểm sửa đổi đó không nhằm vào các hoạt động tiến hành trong
Vùng, và đề nghị triệu tập một hội nghị có nhiệm vụ xem xét các điều sửa đổi
được đề xuất như vậy. Tổng thư ký chuyển văn bản này cho các quốc gia thành
viên. Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, có ít nhất là một nửa số quốc
gia thành viên trả lời một cách thuận lợi cho yêu cầu này, thì Tổng thư ký
triệu tập hội nghị.
Trừ khi Hội nghị sửa đổi có quyết định khác, Hội nghị
đó sẽ áp dụng thủ tục ra quyết định đã được dùng trong hội nghị luật biển lần
thứ III của Liên hợp quốc. Hội nghị phải cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận
về các điểm sửa đổi bằng consensus (thỏa thuận) và hội nghị chỉ được tiến hành
bỏ phiếu về vấn đề khi mọi cố gắng để đạt tới một sự thỏa thuận không còn nữa.
ĐIỀU 313. Việc sửa đổi bằng thủ tục đơn giản hóa
Qua văn bản gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, mọi
quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với Công ước, không
phải là một điều sửa đổi nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng, và yêu
cầu rằng điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa được trù định
trong điều này, không cần triệu tập một hội nghị để xem xét điều sửa đổi đó.
Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển văn bản đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản này, một
quốc gia thành viên có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề nghị hay phản
đối ý kiến đề xuất nhằm làm cho điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn
giản hóa, thì điều sửa đổi coi như bị bác bỏ. Tổng thư ký Liên hợp quốc thông
báo ngay việc đó cho tất cả các quốc gia thành viên.
Nếu 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, không có một
quốc gia thành viên nào có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề xuất hay
phản đối đề nghị nhằm làm cho điều đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa,
thì điều sửa đổi được đề xuất coi như được chấp thuận. Tổng thư ký thông báo
cho tất cả các quốc gia thành viên việc chấp nhận điều sửa đổi đã được đề xuất
này.
ĐIỀU 314. Những điều sửa đổi đối với các qui định của
Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng
1. Qua biên bản gởi lên Tổng thư ký của Cơ quan quyền
lực, mọi quốc gia thành viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với các qui
định của Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, kể cả
các qui định của Mục 4 thuộc Phụ lục VI. Tổng thư ký gởi văn bản này cho tất cả
các quốc gia thành viên. Một khi Hội đồng chuẩn y, điểm sửa đổi được đề xuất
phải được Đại hội đồng chuẩn y. Đại biểu của các quốc gia thành viên có toàn
quyền để xem xét và thông qua điều sửa đổi được đề xuất. Đề nghị sửa đổi, như
đã được Hội đồng và Đại hội đồng chuẩn y, coi như được chấp thuận.
2. Trước khi chuẩn y một điều sửa đổi theo đúng khoản
1, Hội đồng và Đại hội đồng phải biết chắc rằng điều sửa đổi không đụng chạm
đến hệ thống thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng trong khi chờ đợi
triệu tập cuộc hội nghị xét duyệt lại theo đúng Điều 155.
ĐIỀU 315. Những điều sửa đổi: ký, phê chuẩn, tham gia
và các văn bản chính thức
Những điều sửa đổi đối với Công ước khi được thông
qua, được để ngỏ cho các quốc gia thành viên ký kết tại trụ sở của Liên hợp
quốc ở Niu Oóc, trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày thông qua các điều sửa
đổi này, trừ khi các điều sửa đổi đó có qui định khác.
Các Điều 306, 307 và 320 được áp dụng cho tất cả các
điều sửa đổi đối với Công ước.
ĐIỀU 316. Các điều sửa đổi có hiệu lực
Đối với các thành viên đã phê chuẩn hay đã tham gia
công ước, ngoài những điều đã nói ở khoản 5, sẽ có hiệu lực vào ngày thứ ba
mươi tiếp sau việc gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia của hai
phần ba số quốc gia thành viên hay của 60 quốc qia thành viên, số lượng nào cao
nhất sẽ được sử dụng. Các điều sửa đổi không đụng chạm đến việc các quốc gia
khác được hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng không đụng chạm đến
việc họ thi hành các nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước.
Một điều sửa đổi có thể trù định rằng, việc nó có hiệu
đòi hỏi phải có một số lượng quốc gia phê chuẩn hay tham gia cao hơn số lượng
mà điều này đòi hỏi.
Đối với một quốc gia đã phê chuẩn một điều sửa đổi nói
ở khoản 1 hay đã tham gia vào điều sửa đổi đó sau ngày số lượng các văn bản phê
chuẩn hay tham gia cần thiết đã được lưu chiểu, điều sửa đổi này có hiệu lực
vào ngày thứ ba mươi tiếp sau ngày nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia
của quốc gia thành viên đó.
Bất kỳ quốc gia nào khi trở thành thành viên của Công
ước, sau khi một điều sửa đổi có hiệu lực theo đúng khoản 1, nếu không biểu thị
một ý định khác, thì được coi như là:
Thành viên của Công ước đã được sửa đổi; và
Thành viên của Công ước không được sửa đổi đối với mọi
quốc gia thành viên không bị ràng buộc bởi các điều sửa đổi.
Các điều sửa đổi chỉ nhằm vào các hoạt động tiến hành
trong Vùng và các điều sửa đổi đối với Phụ lục VI sẽ có hiệu lực đối với tất cả
các quốc gia thành viên sau ngày có ba phần tư số quốc gia thành viên nộp lưu
chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia.
Mọi quốc gia khi trở thành thành viên của Công ước,
sau khi các điều sửa đổi nói trong khoản 5 có hiệu lực được coi như thành viên của
Công ước đã được sửa đổi.
ĐIỀU 317. Việc từ bỏ
Một quốc gia thành viên có thể từ bỏ Công ước, qua
thông báo viết gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, và nói rõ những lý do của
việc từ bỏ. Dù quốc gia thành viên này không nêu rõ lý do đó, thì việc từ bỏ
vẫn không vì thế mà vô hiệu lực. Việc từ bỏ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày
nhận được thông báo, trừ khi trong thông báo có trù định một thời hạn chậm hơn.
Việc từ bỏ cũng không làm cho một quốc gia tránh khỏi
các nghĩa vụ về mặt tài chính và hợp đồng mà họ phải đảm nhận, khi mà quốc gia
này còn là thành viên của Công ước, và việc từ bỏ cũng không ảnh hưởng đến các
quyển, nghĩa vụ hay các địa vị pháp lý của quốc gia này bắt nguồn từ việc áp
dụng Công ước, trước khi Công ước không còn hiệu lực đối với quốc gia đó.
Việc từ bỏ không hề ảnh hưởng chút nào tới bổn phận
của mọi quốc gia thành viên phải làm tròn mọi nghĩa vụ đã nêu trong Công ước,
mà quốc gia này phải tuân thủ theo pháp luật quốc tế độc lập với Công ước.
ĐIỀU 318. Quy chế của các phụ lục
Các phụ lục là bộ phận hoàn chỉnh của Công ước, một sự
viện dẫn Công ước cũng là một sự viện dẫn các phụ lục của nó và sự viện dẫn một
phần của Công ước cũng là sự viện dẫn các phụ lục có liên quan đến phần đó, trừ
trường hợp có quy định trái ngược rõ ràng.
ĐIỀU 319. Người lưu chiểu
Tổng thư ký Liên hợp quốc là người lưu chiểu Công ước
và các điều sửa đổi có liên quan đến công ước.
Ngoài chức năng của người lưu chiểu, Tổng thư ký Liên
hợp quốc còn:
Báo cáo cho tất cả các quốc gia thành viên, Cơ quan
quyền lực và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền về các vấn đề mang tính chất
chung xuất hiện liên quan đến Công ước.
Thông báo cho Cơ quan quyền lực các văn bản phê chuẩn,
xác nhận chính thức và tham gia Công ước và các điều sửa đổi đối với Công ước,
cũng như các văn bản từ bỏ các Công ước;
Thông báo cho các quốc gia thành viên các điều ước
được ký kết theo đúng với Điều 311, khoản 4;
Chuyển cho các quốc gia thành viên các điều sửa đổi đã
được thông qua theo đúng Công ước để phê chuẩn hay tham gia;
Triệu tập các cuộc họp cần thiết của các quốc gia
thành viên theo đúng Công ước.
3. a) Tổng thư ký cũng chuyển cho các quan sát viên
nói ở Điều 156:
Các báo cáo nói ở khoản 2, điểm a;
Các thông báo nói ở khoản 2, điểm b và c;
Văn bản các điểm sửa đổi nói ở khoản 2, điểm d với
tính chất để thông báo.
b) Tổng thư ký cũng mời các quan sát viên này tham gia
các hội nghị của các quốc gia thành viên nói ở khoản 2 điểm e với tư cách là
quan sát viên
ĐIỀU 320. Các văn bản chính thức
Nguyên bản của Công ước bằng tiếng Anh, Ả Rập, Trung
Quốc, Tây Ban Nha, Pháp, và Nga đều có giá trị chính thức như nhau và được lưu
chiếu bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc, theo Điều 305, khoản 2.
Để làm tin, các đại diện toàn quyền ký dưới đây là
những người được phép hợp thức ký vào Công ước.
Làm tại Montego Bay (Jamaica) ngày 10 tháng 12 năm 1982.
THE END
No comments:
Post a Comment