Source:
Miền
Tây là miền sông rạch chằng chịt. Bạn đi đâu, về đâu bạn đều gặp trên đường bạn
đi biết bao là sông rạch. Có những con sông thiên nhiên mà cũng có những con
kinh đào, có những sông cái lớn mà cũng có những kinh rạch nhỏ nữa, không làm
sao kể xiết. Là một cư dân được sanh ra và lớn lên nơi làng quê, một trong những
vùng sông nước ấy, nên trong dòng đời xuôi ngược, tôi có nhiều dịp sống với
sông ngòi vùng quê của tôi mà dường như cũng là của bạn nữa!
Rạch
Trầu (Tân Bình, Lấp Vò, Sa Đéc)(hình Trần Nhiếp)
Hồi
đó, anh chị em tôi được cha mẹ sanh ra tại làng Tân Bình (Lấp Vò)(1) với con rạch
nhỏ thường cạn nước có cái tên rất mộc mạc là Rạch Trầu. Thuở nhỏ tôi thường
nghe song thân chúng tôi kể lại thời mới khai hoang thì Rạch Trầu chỉ có voi đi
rồi lâu dần thành rạch. Con rạch rất cạn! Vào mùa nắng, nhiều lúc nước ngoài
sông lớn chỉ chảy vô rạch chưa đầy rạch thì nước lại ròng và nước trong rạch bắt
đầu rút trở ra sông lớn để lại lòng rạch khô nước. Mà sông ấy có tên là rạch
Tân Bình. Rạch Tân Bình nói là sông lớn nhưng bề ngang con sông chỉ vài chục
thước với nhiều cua quẹo cong queo chảy từ chợ Lấp Vò vô tới cuối làng và
gặp dòng nước từ dưới ngả tư Cai Bường (dân quê đọc trại ra là Cái Bường) bên
làng Vĩnh Thạnh chảy qua, nên ở chỗ giáp nước ấy lòng sông rất cạn; có khi vào
mùa nắng nước ít và lại gặp cỏ bò ra lấp mặt nước với nạn lục bình nữa thì xuồng
ghe không cách nào bơi qua khúc sông này được. Vả lại hồi mấy năm còn chiến
tranh, ở chỗ cuối làng ấy ruộng hoang nhà trống nhiều vì dân chúng phải bỏ làng
tản cư nên lòng sông vốn không sâu lại càng hoang vắng tiêu điều hơn. Về sau
này, có dịp về làng cũ làm ruộng, rồi có dịp đấp đường bồi lộ bắc cầu, tôi mới
vào vùng quê thanh vắng ấy nhưng sông Tân Bình ở mấy chỗ giáp nước này sông chẳng
lớn được bao nhiêu!
Ngã
ba vàm Tân Bình và Xáng Lớn (Lấp Vò, Sa Đéc)
Cầu
ván bắc ngang vàm Tân Bình ngày trước.(Hình do Huỳnh Hữu Đức chụp)
Dọc
theo con rạch Tân Bình, có nhiều rạch nhỏ dẫn nước vô đồng. Ngoài Rạch Trầu, từ
ngoài chợ cũ Lấp Vò trở vô, quê tôi còn có Rạch Bờ Cao với ngôi chùa Ông mái
chùa lợp tole vách lá nghèo nàn, Rạch Dược với ngôi chùa Tân Phước Tự, Xáng Nhỏ
dẫn nước vô cánh đồng Tân Bình-Bàu Hút, rạch Xẻo Da, rạch Bà Chánh, ngã
Bát, ngã Cạy dẫn qua vùng Đất Sét Nhỏ thuộc làng Mỹ An Hưng. Từ chợ Cũ Lấp Vò,
nếu ngược lên Cái Tàu về hướng sông Tiền Giang, qua hai làng Bình Thạnh Trung
và làng Hội An Đông, bạn sẽ lần lượt đi qua những vàm rạch nhỏ như rạch Xẻo Tre
với ngôi chùa Thiên Phước nằm ngay nơi vàm rạch, rồi rạch Mương Kinh , cả hai
con rạch này thuộc Sa Đéc; rạch Cái Nai, rạch Xẻo Môn hồi đời trước thuộc
Lấp Vò, nay thuộc Chợ Mới (An Giang) .
Kinh Mương Khai (Tân Bình, Lấp
Vò)
Bạn đi lên chút nữa tới chợ Cái Tàu nằm bên bờ sông Tiền Giang với dòng sông nước chảy xiết từ trên Châu Đốc đổ xuống Cao Lãnh, Sa Đéc, Vĩnh Long… Nhớ có lần tôi còn nhỏ, về ngang chợ Mỹ Luông rồi qua đò ghé thăm Cù Lao Giêng với trại mồ côi và ngôi nhà thờ lớn nhứt vùng. Cù Lao Giêng ngày ấy cách nay năm mươi năm mà sao rất trù phú với nhiều máy dệt vải, nhiều vườn cây ăn trái sai oằn…
Nếu bạn theo dòng sông Tiền Giang, phía Cao Lãnh, qua khỏi tỉnh lỵ một đỗi khoảng chừng tám chín cây số bạn sẽ gặp địa danh Phong Mỹ, nơi này có con kinh chạy vô Đồng Tháp Mười qua các vùng Mộc Hóa, Kiến Tường cũ dẫn tuốt lên tới vùng đất Thủ Thừa thuộc Long An mà mấy năm 1984 chúng tôi có dịp theo chiếc ghe cui của một người bạn làm ruộng chở gạo lên Sài Gòn bán theo con kinh này dẫn tới Bến Lức đi qua hai con sông Vàm Cỏ của tỉnh Tân An. Hồi ấy vùng này hai bên bờ kinh có trồng lúa thần nông nhưng những cánh đồng năn và lác cũng còn nhiều với bờ kinh trồng tràm hoặc cây bạch đàn cành lá lất phất như những cành liễu … Tại nơi vàm kinh Phong Mỹ, tôi còn nhớ những lúc đậu ghe dưới bến các trại cưa cây, nấu cơm ăn chờ cây lên nề xẻ gỗ chở về làm trụ cầu, lúc chúng tôi cùng dân làng hùn tiền bắc cầu bồi lộ hầu giúp cho việc đi lại của bà con làng Tân Bình được dễ dàng vì hồi đời trước tới mấy năm vừa kể làng quê tôi có nhiều nơi xe gắn máy vẫn còn chưa tới được vì còn quá nhiều cầu khỉ bắc qua những mương rạch.
Bạn đi lên chút nữa tới chợ Cái Tàu nằm bên bờ sông Tiền Giang với dòng sông nước chảy xiết từ trên Châu Đốc đổ xuống Cao Lãnh, Sa Đéc, Vĩnh Long… Nhớ có lần tôi còn nhỏ, về ngang chợ Mỹ Luông rồi qua đò ghé thăm Cù Lao Giêng với trại mồ côi và ngôi nhà thờ lớn nhứt vùng. Cù Lao Giêng ngày ấy cách nay năm mươi năm mà sao rất trù phú với nhiều máy dệt vải, nhiều vườn cây ăn trái sai oằn…
Nếu bạn theo dòng sông Tiền Giang, phía Cao Lãnh, qua khỏi tỉnh lỵ một đỗi khoảng chừng tám chín cây số bạn sẽ gặp địa danh Phong Mỹ, nơi này có con kinh chạy vô Đồng Tháp Mười qua các vùng Mộc Hóa, Kiến Tường cũ dẫn tuốt lên tới vùng đất Thủ Thừa thuộc Long An mà mấy năm 1984 chúng tôi có dịp theo chiếc ghe cui của một người bạn làm ruộng chở gạo lên Sài Gòn bán theo con kinh này dẫn tới Bến Lức đi qua hai con sông Vàm Cỏ của tỉnh Tân An. Hồi ấy vùng này hai bên bờ kinh có trồng lúa thần nông nhưng những cánh đồng năn và lác cũng còn nhiều với bờ kinh trồng tràm hoặc cây bạch đàn cành lá lất phất như những cành liễu … Tại nơi vàm kinh Phong Mỹ, tôi còn nhớ những lúc đậu ghe dưới bến các trại cưa cây, nấu cơm ăn chờ cây lên nề xẻ gỗ chở về làm trụ cầu, lúc chúng tôi cùng dân làng hùn tiền bắc cầu bồi lộ hầu giúp cho việc đi lại của bà con làng Tân Bình được dễ dàng vì hồi đời trước tới mấy năm vừa kể làng quê tôi có nhiều nơi xe gắn máy vẫn còn chưa tới được vì còn quá nhiều cầu khỉ bắc qua những mương rạch.
Cầu
ván ngã ba Gia Vàm-Thủ Ô nơi chỗ giáp nước do dân làng góp công bắt năm 1990, nay cũng bị thay bằng cầu
đúc.
Trở
lại vùng sông Tiền Giang từ Phong Mỹ (Cao Lãnh) chạy dài lên tới Hồng Ngự bên
kia sông đối diện bên này sông là chợ Tân Châu thì vùng Tân Châu, Châu Đốc có rất
nhiều kinh rạch nhỏ dẫn nước từ hai con sông cái Tiền Giang và Hậu Giang vào
các cánh đồng mang phù sa phủ khắp vùng đất trù phú này. Nhưng trước hết phía Mỹ
Luông (Chợ Mới) chạy về hướng Tân Châu có mấy con sông chính như sông Vàm Nao,
rạch Cái Vừng (Long Sơn). Tại Tân Châu có kinh Vĩnh An Hà mà vàm kinh nằm ngay
tại phía dưới chợ Tân Châu, cuối con đường Bạch Đằng cũ nay đã bị trôi theo
dòng nước cuốn lâu rồi, con kinh này còn gọi là Kinh Cũ dẫn nước từ sông
Tiền Giang chạy qua tới sông Hậu Giang thuộc làng Châu Phong dài 17 cây số mà
vàm phía Châu Phong đổ ra Châu Đốc nhìn về Núi Sam bát ngát cả một vùng; còn
vàm chính phía chợ Tân Châu thì vàm kinh này đã bị lấp khoảng năm sáu năm nay rồi.
Bến nước xưa nay chỉ còn là bờ đất mới thành con lộ, làm người xưa cứ đêm đêm nằm
ngủ mà như chợt giựt mình nghe tiếng ai gọi đò trong câu thơ của Tú Xương thuở
nào:
“Sông sâu giờ đã lên đồng,
“Sông sâu giờ đã lên đồng,
Chỗ làm nhà cửa,
chỗ trồng ngô khoai.
Đêm nghe tiếng ếch
bên tai,
Giật mình còn tưởng
tiếng ai gọi đò.”
Vàm
kinh Vĩnh An Hà năm 2005, tại chợ Tân Châu lúc chưa bị lấp.
(Tân Châu, An
Giang)(hình HT)
Vàm
kinh Vĩnh An Hà bên bờ Tiền Giang, tại chợ Tân Châu,
nay đã bị lấp thành đường
xe chạy
.(Tân Châu, Châu Đốc) (hình Thái Lý)
.(Tân Châu, Châu Đốc) (hình Thái Lý)
Cầu
sắt bắc ngang kinh Vĩnh An Hà tại chợ Tân Châu lúc vàm kinh chưa bị lấp.
(hình
Thái Lý)
Riêng
miệt Châu Đốc với hai nhánh sông Cửu Long là chánh thì toàn vùng này còn có nhiều
sông rạch nhỏ cũng như các con kinh đào làm thành một mạng sông rạch dày đặc phủ
khắp nơi này. Chẳng hạn như vùng An Phú có con sông Bắc Nam, vùng Vĩnh Hội Đông
(An Phú) có rạch Chắc Ri, vùng Vĩnh Ngươn có rạch Cây Gáo, vùng Châu Phú có rạch
Cần Thảo, kinh Ông Cò, kinh Mỹ Đức, vùng Vĩnh Xương có Kinh Năm Xã, kinh 186
Vĩnh Mỹ. Đó là chưa kể con kinh quan trọng nhứt vùng là kinh Vĩnh Tế và các
kinh đào vùng Núi Sam như kinh cầu số 2 Núi Sam, kinh cầu Ba Nhịp, kinh cầu số
4 Núi Sam…
Vàm
Kinh Cũ (Vĩnh An Hà) phía Châu Phong, Châu Đốc (hình Thái Lý)
Rạch
Cây Gáo làng Vĩnh Ngươn (Châu Phú, Châu Đốc) (hình Thái Lý)
Xuồng
ghe trên kinh Vĩnh Tế, Châu Đốc.(hình Thái Lý)
Kinh
186, Vĩnh Mỹ, Châu Đốc.(hình Thái Lý)
Kinh
cầu số 2, Núi Sam, Châu Đốc(hình Thái Lý)
Kinh
cầu số 4, Núi Sam, Châu Đốc.(hình Thái Lý)
Kinh
cầu Ba Nhịp (Núi Sam, Châu Đốc) (hình Thái Lý)
Rạch
Cần Thảo, Châu Phú, Châu Đốc.(hình Thái Lý)
Kinh
Mỹ Đức (Châu Phú, Châu Đốc)(hình Thái Lý)
Rạch
Chắc-Ri làng Vĩnh Hội Đông (An Phú, Châu Đốc)(hình Thái Lý)
Thêm
vào đó, nếu qua khỏi vùng Mỹ Đức, theo con đường liên tỉnh lộ số 9 cũ xuôi xuống
Long Xuyên, chúng ta còn phải đi qua nhiều cây cầu bắc ngang những kinh rạch
quen thuộc với cư dân Long Xuyên-Châu Đốc và có lẽ ai đã từng sống hoặc đi qua
vùng này chắc cũng còn nhớ rất rõ như kinh xáng Cái Dầu, kinh xáng Vịnh Tre; xuống
tới Năng Gù có kinh Ông Quít, rồi gặp cua Mặc Cần Dưng có rạch Mặc Cần Dưng là
một con rạch khá lớn, dòng nước chảy từ vàm nơi sông Hậu Giang vô tới Tri Tôn
(Xà Tón) lúc nào ghe xuồng đi lại cũng tấp nập. Qua khỏi rạch Mặc Cần Dưng, nếu
bạn đi tiếp xuống Long Xuyên bạn sẽ lần lượt qua các cầu Mương Trâu, rồi đi một
đỗi nữa gặp rạch Chắc Cà Đao nằm ngay bên chợ Hòa Bình Thạnh là một quận lỵ
Châu Thành của tỉnh Long Xuyên ngày trước. Rồi đi tiếp nữa bạn sẽ qua rạch Xép
Bà Lý, rạch Cần Xây, rạch Trà Ôn, cua Lò Thiêu với cây cầu Nguyễn Trung Trực bắc
ngang con sông dẫn nước từ ngoài sông Hậu Giang với vàm sông ngay ty Trường Tiền
nằm cuối đường Tạ Thu Thâu, con sông này chảy vô Núi Sập. Xuống tới chợ Long
Xuyên với cây Hoàng Diệu bắc ngang kinh Thoại Hà mà dân ở đây quen gọi là lòng
Long Xuyên. Chính con kinh Thoại Hà này chảy vô tới rạch Bà Bầu sẽ gặp con sông
chỗ cầu Nguyễn Trung Trực khi nãy thì hai nhánh sông này gặp nhau và tiếp tục
chảy vô tới Rạch Giá và đổ ra biển.
Qua khỏi thị xã Long Xuyên, tiếp tục theo con đường liên tỉnh số 9 cũ hướng về Cần Thơ, bạn sẽ lần lượt qua cầu rạch Cái Sơn, rạch Tầm Bót, rạch Gòi Lớn, rạch Gòi Bé, rạch Cái Sao, rạch Cái Dung, rạch Cái Sắn; qua khỏi rạch Cái Sắn một đỗi, là ngã ba Rạch Giá-Cần Thơ ; nếu bạn theo đường Rạch Giá thì vô tới chợ Tân Hiệp, bạn sẽ gặp một loạt các kinh đào mang những chữ từ A tới F, những con kinh này xuất hiện khi có cuộc di cư của đồng bào từ miền Bắc vào định cư tại vùng này sau năm 1954 . Hồi đời trước vùng này là cánh đồng lúa mùa bao la bát ngát với nhiều vạt đất có nhiều đá nổi như vùng Bắc Dục thuộc xã Phú Hòa, Vĩnh Chánh, sau này cánh đồng này ruộng lúa thần nông thay thế lúa mùa và nhà cửa dọc theo các bờ kinh sầm uất, sung túc lắm.
Giờ trở lại ngã ba Rạch Giá-Cần Thơ, nếu bạn muốn tiếp tục đi về hướng Cần Thơ thì bạn qua vùng Thốt Nốt với rạch Trà Uối, rạch Bồ Ót, rạch Thốt Nốt; và khi qua khỏi địa phận Thốt Nốt bạn sẽ gặp rạch Cần Thơ Bé, rạch Ô Môn, rạch Bình Thủy. Khi vào địa phận tỉnh lỵ Cần Thơ chúng ta phải đi qua cây cầu rạch Cái Khế nằm ngay trên đường Nguyễn Trãi; nếu bạn tiếp tục khi ra khỏi thành phố náo nhiệt nơi này, bạn sẽ gặp cầu Cái Răng bắc ngang rạch Cái Răng, nơi mà tôi có một thời ở đó ba bốn tháng trong một chủng viện Công Giáo với những ngày tháng lao lung trong cuộc đời khi còn rất trẻ. Nếu bạn theo con rạch Cái Răng này đi hoài theo dòng nước chảy xiết ấy thì bạn sẽ gặp kinh xáng Xà-No, vô Vị Thanh (Chương Thiện) và tiếp tục chảy dài tới Hỏa Lựu, cầu đúc Cái Sình, ngả ba Nước Trong xuống tuốt dưới Vĩnh Thuận về hướng U Minh, Rạch Giá-Cà Mau. Nơi các bến nước này cũng như phía bên kia vùng đất Hỏa Lựu (Long Mỹ) tôi có một thời lặn hụp khá lâu để gạn lưới dỡ chà bắt cá tôm vào những mùa tháng chạp, tháng giêng mà nghe tiếng thở dài chính mình chẳng biết lúc nào về lại làng cũ…
Giờ xin mời bạn trở ra vùng chợ Cái Răng theo con đường quốc lộ 4 cũ ngày trước về hướng Sốc Trăng, bạn sẽ tới ngã ba Hòa An nơi có con lộ đá rẽ về hướng Vị Thanh (Chương Thiện), nơi đây dường như có rạch Hòa An vì hồi đó lâu quá tôi cũng quên rồi nhưng ở đây dường như có cây cầu đúc rất kiên cố gọi là cầu Hòa An. Sau khi qua khỏi ngã ba Hòa An, bạn sẽ gặp chợ Cầu Trắng với con rạch chạy miết vô đồng mà mấy năm còn đi học ở Cần Thơ tôi xuống thăm ông anh tôi đang xây cất cây cầu nơi chợ làng này và có ngủ lại nơi ấy một đêm và ớn tới bây giờ…
Qua khỏi chợ Cầu Trắng bạn sẽ đến ngả bảy Phụng Hiệp. Đây đúng là một ngả bảy với ghe xuồng chợ búa buôn bán tấp nập với bảy con kinh đi về bảy hướng khác nhau gồm kinh Cái Côn, còn gọi sông Cái Côn, nhánh sông này hướng về sông Hậu Giang; kinh Mang Cá hướng về Kế Sách (Sốc Trăng), cả hai kinh Xẻo Vông hướng về sông Ba Láng, kinh Xẻo Môn hướng về lòng sông Cần Thơ, kinh Mương Lộ hướng về Sốc Trăng, kinh Quản Lộ đi Cà Mau, và kinh Lái Hiếu đi Long Mỹ xuyên qua lung Ngọc Hoàng. Lung Ngọc Hoàng là một cái lung rộng lớn, nước cầm thủy quanh năm không bao giờ cạn, vì thế cá, tôm, rùa, rắn, chim cò vùng này sống quanh năm ở đây, nhiều lắm, nhứt lá cá lóc , cá sặt rằn, cá rô con nào con nấy muốn có râu… Nhớ hồi ấy, năm 1980, tôi có đi qua vùng Phụng Hiệp này rồi theo kinh Cái Côn để về Mương Khai (Cái Côn) làm lò gạch nhưng vì đi lần đầu nên tôi chỉ thấy sông nước mênh mông nên cũng chẳng biết gì hơn là nỗi lo phải đến một vùng xa lạ nữa trong những ngày gian khổ lúc bấy giờ nên chẳng lấy gì làm vui với tâm trạng lúc nào cũng rầu rĩ ấy!
Từ bến Ninh Kiều (Cần Thơ) nếu bạn theo đường sông Hậu Giang, bạn sẽ qua Xóm Chài, xuống rạch Mái Giầm, rạch Cái Côn, Mương Khai, Mương Cau và xuôi theo dòng nước sông Hậu về Kế Sách (Sốc Trăng). Nếu qua Tiền Giang vùng Vĩnh Long có sông Mang Thít, vùng Trà Vinh có sông Láng Thé là những con sông lớn. Còn trở lại Cà Mau, bạn sẽ gặp rất nhiều sông rạch thuộc vùng nước mặn này như sông Ông Đốc, sông Bảy Háp, nhiều lắm không kể xiết…
Với một vòng quanh vài ba miền mà tôi có dịp đi qua và lược kể cùng bạn dù còn vài ba vùng nữa tôi chưa nhắc nhưng đủ cho thấy miền Tây Nam nước Việt dưới này là cả một vùng sông ngòi, kinh rạch làm thành một mạng nhện không làm sao kể cho hết; và dĩ nhiên với thiên nhiên đi đâu cũng gặp nước là nước thì phương tiện chuyển vận chính ngày xưa mà dân cư các vùng này phải sử dụng chính là ghe xuồng. Nhưng xuồng ghe cũng không đơn thuần chỉ ghép be ván làm nên những chiếc ghe xuồng, mà cũng còn tùy đi vào sông nhỏ, hoặc sông lớn thì mỗi loại sông rạch đó nó có những loại xuồng ghe khác nhau nữa. Chẳng hạn bạn đi sông Cái không thể bạn bơi xuồng nhỏ vì xa và nguy hiểm; nhưng nếu bạn vào những kinh rạch nhỏ bạn không thể dùng ghe quá lớn để chuyên chở trên những con kinh cạn. Do vậy xuồng ghe nói chung, nhưng cũng tùy lúc sông sâu kinh cạn là mà sắm ghe xuồng cho hợp với thiên nhiên.
Trước hết nhắc về xuồng thì các vùng Mặc Cần Dưng, Hang Tra, Trà Kiết, Định Mỹ, Vĩnh Chánh, Phú Hòa và nhiều vùng khác thuộc Long Xuyên lại thích xuồng cui, loại xuồng khá lớn với mũi và lái hơi bầu, sức chở nặng, thường dùng để chuyên chở lúa gạo hoặc cắt cỏ cho bò trâu. Vùng Lấp Vò cũng ưa sử dụng kiểu xuồng này. Vùng Mộc Hóa, Kiến Tường thuộc Đồng Tháp Mười cũng như miệt dưới như Chương Thiện, Cà Mau, Rạch Giá nhiều rừng tràm lại thích xuồng ba lá. Loại xuồng này được đóng bằng ba tấm be lớn, một be làm đáy xuồng và hai be hai bên hông, di chuyển nhẹ nhưng chở không nhiều, mỗi chiếc chỉ đi được vài ba người nhưng thường thường hai người đi là vừa. Còn xuồng câu là loại xuồng mình thon dài, hai mũi hơi thông nhọn nhằm mục đích khi bơi hoặc chống, xuồng sẽ lướt nhanh trên mặt nước. Xuồng đục cũng là một loại xuồng câu nhưng người ta chia ra nhiều ngăn với những tấm bửng ngăn nước từ khoang này chảy qua khoang khác và có đục lỗ lù cho nước bên ngoài lưu thông vào trong xuồng để rộng cá khi thăm câu dính cá. Nơi mặt xuồng có dùng sạp tre lót để giữ cá không thể nhảy ra ngoài. Vì xuồng đục mình thon dài và có chứa nước để rộng cá nên việc đi lại trên xuồng phải rất cẩn thận, không khéo xuồng bị lắc chòng-chành và dễ bị chìm. Khi chưa rộng cá, xuồng câu không cần cho nước vô xuồng bằng cách nhét kín các lỗ lù lại bằng những nút làm bằng miếng xơ dừa hoặc rễ cây bần. Trường hợp câu tôm thì xuồng câu không cần phải đục lỗ lù và người ta rộng tôm bằng cái rộng treo ở bên hông xuồng. Người ta cũng có thể dùng xuồng câu để đi soi ếch, soi chuột, soi chim vào mùa nước lên vì xuồng mình vừa nhỏ vừa thon nên nhẹ chống và xuồng đi nhanh hơn các loại xuồng ba lá, xuồng cui. Xuồng câu cũng có thể dùng trong việc đi câu nhắp, hoặc giăng lưới cũng được. Thường thường các công việc giăng câu, giăng lưới, soi ếch, soi chuột, câu tôm, câu nhắp … chỉ đi một mình nên các loại công việc này rất hợp với xuồng câu.
Trong
tự điển “Từ Ngữ Nam Bộ” (2) có đề cập đến mấy danh từ như xuồng be tám, xuồng
be chín, xuồng be mười, nhưng các vùng Long Xuyên, Sa Đéc mà tôi biết, trong
dân cư ở đây ít nghe nhắc về ba loại xuồng này.
Còn ghe thì có ghe tam bản rất thông dụng. Bạn đi ngang Long Xuyên hoặc lên miệt Châu Đốc tại các bến chợ, bến đò người ta ưa dùng ghe tam bản làm ghe mua bán cây trái hoặc nước giải khát hoặc đưa đò ngang, đò dọc. Loại ghe này mũi và lái ghe hơi bầu tròn; lườn ghe không sâu lắm, hơi có bề ngang nên ghe tam bản đi rất vững vàng. Theo tự điển nói ghe tam bản là ghe ghép lại từ ba miếng be là không đúng vì ba miếng be chỉ có thể ghép được chiếc xuồng ba lá; còn ghe phải lớn hơn xuồng nên buộc lòng phải dùng nhiều miếng be mới đóng thành ghe tam bản được. Nếu muốn đóng ghe tam bản lớn với sức chở nặng thì lại càng dùng nhiều be thêm nữa chứ không phải chỉ ba miếng be ghép lại. Thường thường ghe tam bản được chèo bằng hai mái chèo ở lái, ít ai bơi vì bơi ghe đi chậm và thế ngồi bơi cũng khó hơn là thế đứng chèo. Cũng để cho ghe tam bản ít bị lủi vô bờ người ta vừa chèo vừa lái chiếc ghe bằng chèo cho ghe đi theo ý mình nhưng để cho tiện người ta thường ghép dưới phía dưới đuôi ghe một miếng ván vừa gọn vừa mỏng để giữ ghe thăng bằng và đi thẳng, dân quê gọi là bánh lái nước vì miếng ván này có công dụng như bánh lái ghe và nằm dưới mặt nước.
Còn ghe thì có ghe tam bản rất thông dụng. Bạn đi ngang Long Xuyên hoặc lên miệt Châu Đốc tại các bến chợ, bến đò người ta ưa dùng ghe tam bản làm ghe mua bán cây trái hoặc nước giải khát hoặc đưa đò ngang, đò dọc. Loại ghe này mũi và lái ghe hơi bầu tròn; lườn ghe không sâu lắm, hơi có bề ngang nên ghe tam bản đi rất vững vàng. Theo tự điển nói ghe tam bản là ghe ghép lại từ ba miếng be là không đúng vì ba miếng be chỉ có thể ghép được chiếc xuồng ba lá; còn ghe phải lớn hơn xuồng nên buộc lòng phải dùng nhiều miếng be mới đóng thành ghe tam bản được. Nếu muốn đóng ghe tam bản lớn với sức chở nặng thì lại càng dùng nhiều be thêm nữa chứ không phải chỉ ba miếng be ghép lại. Thường thường ghe tam bản được chèo bằng hai mái chèo ở lái, ít ai bơi vì bơi ghe đi chậm và thế ngồi bơi cũng khó hơn là thế đứng chèo. Cũng để cho ghe tam bản ít bị lủi vô bờ người ta vừa chèo vừa lái chiếc ghe bằng chèo cho ghe đi theo ý mình nhưng để cho tiện người ta thường ghép dưới phía dưới đuôi ghe một miếng ván vừa gọn vừa mỏng để giữ ghe thăng bằng và đi thẳng, dân quê gọi là bánh lái nước vì miếng ván này có công dụng như bánh lái ghe và nằm dưới mặt nước.
Ghe tam bản tại trại đóng xuồng ghe vùng Mỹ Hiệp (Chợ Mới-An Giang)(hình Thế Ngọc)
Ghe
tam bản dùng đưa đò ngang trên sông Châu Đốc
nơi bến đò Châu Giang (Châu Phong)
mùa nước lên.
(Nguồn:
TSCĐ)
Ghe
cui là loại ghe có lườn ghe hơi bầu, ngắn đòn, mũi và lái ghe gần bằng nhau;
ngày xưa mấy năm 1950-1960 miệt Mỹ Hiệp (Chợ Mới, Long Xuyên) có nhiều trại
đóng loại ghe cui này với sao sông lớn với nhiều chiếc ghe cui lớn với sức chứa
hằng mấy trăm giạ lúa. Còn loại ghe cà-vom cũng thường được dân cư các vùng
sông rạch này ưa dùng để chở hàng hóa hoặc lúa gạo. Khởi thủy ghe cà-vom mình
thon dài, có mui nhỏ, cột chèo ở sau lái, ở mũi ghe có nơi đứng dùng sào chống
khi ghe chở nặng hoặc ghe đi nước ngược; về sau ghe cà-vom đóng lớn hơn và có gắn
máy đuôi tôm phía lái ghe hoặc gắn máy trong lòng ghe nhằm chở lúa gạo hoặc hàng
hóa được nhiều hơn. Ngoài ra, miệt Châu Phong, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Xương và nhiều
vùng thuộc An Phú, Tân Châu, Châu Phú, Tịnh Biên có loại ghe lườn mình thon
dài, hai đầu mũi và lái nhọn quớt lên. Thường bà con sống với nghề chài rê thì
thường dùng loại ghe lườn vì ghe làm bằng nguyên một khúc cây liền và đục bỏ ruột
cây để làm ghe xuồng nên không có dấu đinh dọc theo các be ghe như các loại ghe
xuồng khác nên chài lưới ít bị vướng rách, rất tiện lợi.
Ghe
cui đang đậu nơi vàm rạch Cái Dâu (Lấp Vò, Sa Đéc) (Hình Trần Nhiếp)
Ghe
cui và ghe tam bản đậu dưới dạ cầu rạch Lấp Vò
sau những chuyến chở hàng mỏi mệt.
(hình
Trần Nhiếp)
Vùng
Long Xuyên hồi xưa, nhứt là ngoài khơi giữa sông Hậu Giang, sông Tiền Giang người
ta neo nhiều ghe chài với bề ngang khá lớn và dài, có mui, dùng để chở lúa gạo
về Sài Gòn. Mấy năm 1950, mấy ông đại điền chủ lúa gạo nhiều như ông Ban Kế ở
Long Xuyên có sắm rất nhiều ghe chài dùng vào việc chuyên chở lúa gạo này. Vì
ghe quá lớn và chở nặng nên ghe chài phải có tàu kéo ghe mới di chuyển được.
Ngoài ghe chài, thỉnh thoảng bạn cũng bắt gặp trên hai con sông Tiền Giang và Hậu
Giang những chiếc sà-lan (chaland) bằng sắt, lườn sà-lan rộng và bằng, cạn lòng
dùng chở đá, xi-măng di chuyển trên sông. Thường thường các ghe chài, sà-lan ít
đậu gần bờ vì sợ ghe mắc cạn, mà nhứt là ghe chài thì neo ở giữa sông, nên người
ta hay giòng bên hông ghe một chiếc xuồng nhỏ để khi ghe ngừng lại, người trên
ghe dùng xuồng này bơi vô bờ để ghé lại chợ mua thức ăn hoặc các vật dụng cần
thiết, rất tiện.
Ghe
cà-vom có mui chở hàng trên sông Tiền Giang (Tân Châu-An Giang)
mùa nước tháng
9 âm lịch.(hình HT)
Sà-lan
chở đá trên sông Châu- Đốc(hình HT)
(Mời đọc tiếp phần 2)
No comments:
Post a Comment