Nguyễn
Văn Hầu
Để
cho con kinh được ngay thẳng, người ta đợi lúc ban đêm, rẽ sậy rạch hoang, dốt
đuốc trên đầu những cây sào cao rồi nhắm theo đường thẳng mà cặm. Muốn điều khiển
những cây “sào lửa” ấy cho thật ngay hàng, người ta cầm một cây rọi to, đứng
trên cao phất qua phất lại ra hiệu cho người cầm sào tìm đúng vị trí.
Đợt
đầu của công tác đào kinh kéo dài ba tháng, suốt từ rằm tháng năm năm Mẹo cho đến
rằm tháng ba năm Thìn. Việc tạm ngưng không rõ được bao lâu, rồi sau đó lại tiếp
tục đợt kế, đợt kế nữa. Trong mỗi đợt đào kinh, lại có những đợt nhỏ được luân
lưu nhau giữa những người làm xâu, gọi là phiên.
Chúng
ta ngày nay lấy làm khó khăn khi muốn biết rõ được tất cả các thời gian ngừng
nghỉ, tiếp nối của công tác vĩ đại nầy.
Theo
Quốc triều chánh biên toát yếu , thì vào năm Minh Mạng thứ ba (1822) tháng 10,
nhà vua đã dụ rằng:
“Đường
sông Vĩnh Tế liền với tân cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi, Đức Hoàng
Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc
đào kinh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc
một lần mà được thong thả lâu dài về sau”.
Đoạn
vua Minh Mạng ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt bắt binh dân ở
các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh, Định Tường hơn 39.000 người, binh dân Chân Lạp hơn
16.000 người, chia làm 3 phiên để hoạt động. Nhưng hết xuân sang hè thì công
tác lại tạm hoãn nữa vì hạn hán. Trong đợt nầy, phụ lực với Thống chế Thoại ,
có Thống chế Nguyễn văn Tuyên và Thống chế Trần công Lại .
Đợt
cuối cùng đúng vào tháng hai năm Giáp thân (1824). Số lượng bề dài của con kinh
còn lại chỉ 1.700 trượng kể từ cuối rạch Giang Thành trở vào tới nơi đã đào
xong. Công tác lại tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và
binh dân bị bắt làm xâu lên tới 25.000 vừa Miên vừa Việt. Họ hoạt động có khi
thâm vào đêm. Đến tháng năm năm ấy thì xong cả .
Như
vậy, nhân công đào kinh tổng số lên đến trên 80 ngàn người. Thời gian công tác
dai dẳng 5 năm trường, từ tháng chạp năm Mẹo (1819) cho tới tháng 5 năm Thân
(1824) mới hoàn tất.
Việc
đào xong kinh Châu Đốc –Hà Tiên đã được thừa nhận xem là một thành quả to tát.
Dân chúng mừng vì lợi việc thông thương. Giới chức biên phòng nhẹ bớt gánh nặng
nhờ có đường nước án ngữ.
Riêng
vua Minh Mạng thì lấy làm mãn nguyện vì nối được chí cha và đã đạt được một quốc
sách. “Từ ấy đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước, phòng giữ ngoài
biên, cho tới dân buôn bán, đều được tiện lợi vô cùng”. Đó là lời nhận xét của
Đại Nam nhất thống chí, ghi chép trước đây gần trăm năm.
Ngày
nay, nhìn trên bản đồ, duyệt lại chuyện cũ, chúng ta cũng thấy được sự lợi ích
lớn của việc làm thời đó. Nó không những chỉ làm một đường nước lưu thông bằng
thuyền để buôn bán đi lại, hoặc để giữ gìn đường ranh giới mà thôi. Nó còn có
tác dụng quan trọng khác là đưa nước ngọt của sông Cửu Long vào các khu đồng ruộng
mênh mông để rửa sạch chất muối, chất phèn cho mùa màng thêm tươi tốt.
Nhưng
đi đôi với thắng lợi của công tác, sự tổn hại cũng khá nhiều. Tương truyền
trong thời gian sưu dịch, muốn cho mau rồi, nhà chức trách có khi phải bắt dân
binh làm việc thâu đêm. Đất ở gần chân núi, lắm chỗ có đá sỏi dày đặc, cho nên
sưu dân phải đem xuổng sắt lưỡi dày rồi dùng chày vồ mà đóng mạnh cho đất sỏi
văng lên. Công việc lâu ngày mòn mỏi, lại buồn ngủ vì thức đêm, nên nhiều khi
ngủ gục, người ta đập lầm chày vồ vào đầu nhau đến vỡ sọ mà chết. Lại
còn bị nạn thú dữ làm hại.
Trong
cảnh rừng núi thâm u, ban đêm cọp rình bắt người xé xác mà ăn thịt. Quân lính
cũng mỏi mòn không kém gì sưu dân, nên sự canh phòng chểnh mảng, không bảo vệ nổi
những tai nạn kinh khủng ấy. Nạn rắn độc cũng nhiều. Rắn bò nhung nhúc trong
bưng biền, bờ bụi, hang hốc. Thời đó có nhiều tay chuyên lấy nọc rắn thần diệu.
Nhưng rủi ro chạm phải nọc độc của mái gầm, hổ mây mà không có thầy thuốc bên
lưng thì cầm chắc là mất mạng. “Mái gầm tại lỗ, rắn hổ về nhà”. Nhưng về được tới
nhà mà chưa có linh dược thì chết tức tốc còn gì!
Thêm
vào đó người ta còn chết vì bệnh. Dưới chân thì đất khô cằn, chai cóng, trên đầu
thì nắng thiêu nóng bức. Thiếu nước uống, thiếu thuốc men. Nạn lam chướng trong
rừng che đá vách làm sao mà tránh. Bởi vậy nhiều người phải bỏ việc mà trốn, mặc
dù sự trốn xâu lậu thuế là điều không ít nguy hiểm.
Hầu
hết các bô lão miền Hậu Giang không ai lạ gì với những điều tôi vừa kể qua.
Chính tổ tiên của phần đông các vị ấy là nạn nhân của đương thời. Sự bỏ trốn
làm xâu như vậy, theo họ, vẫn là nguy quá. Nhưng sự ham sống sợ chết đã thúc đẩy
mọi người hành động để chọn lấy con đường tương đối dễ bảo đảm cho cái sống
hơn. Nếu lính canh bắt được một người trốn xâu thì người ấy phải bị phạt đòn,
phạt làm việc gia bội và sau đó còn bị phạt tù. Mà tù rất nặng, rất khó sống vì
phải làm xâu thâu đêm và phải khổ sai liên tục, không cho mãn phiên. Nếu may mà
thoát khỏi tay lính canh, thì còn sợ lạc vào rừng chết đói và chết vì ác thú. Nếu
cả hai cái nguy kể trên đều được tai qua nạn khỏi thì khi về tới Vàm Nao, họ
còn sợ nạn cá mập là khủng khiếp hơn cả.
Vàm
Nao là một nhánh sông ăn thông giữa Tiền và Hậu Giang, giữa địa giới Long Xuyên
– Châu Đốc, nơi từng chứng kiến biết bao thảm kịch lịch sử trong thời chiến
tranh Xiêm Việt, chiến tranh Miên Việt.
Một
nơi nước xoáy cuộn vòng cầu, đánh đắm nhiều thương thuyền và trong năm 1700, nó
từng được Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tứ danh là “Thuận Vàm” với ứơc mong tai
nạn nhân dân giảm thiểu . Sông Vàm Nao hồi ấy hẹp, nhưng độ sâu đáng sợ. Cá mập
tránh sóng to của đại giang, vào trầm mình ở đó vô số. Sưu dân đa số là người ở
miệt dưới, tức Sa Đéc, Long Hồ, Trà Vang … Họ muốn trốn phải về đường đó, vì đường
đó rừng bụi nhiều và nó là nẻo tắt, cách xa đường dịch trạm (tức công lộ),
không có đồn ải ngăn chặn. Người ta đợi giữa đêm khuya, họp thành đàn cho đông,
mỗi người ôm một cây chuối để làm ống nổi rồi nhảy ào xuống nước một lượt mà lội
để cho cá không ăn kịp. Họ tính cao như vậy mà khi đáo bỉ ngạn, mười người chỉ
còn sống sót được có năm ba và có khi tay chân còn bị cụt mất nữa là khác.
Khi
đào kinh xong và được tâu lên, vua Minh Mạng mừng, giáng chỉ khen ngợi công khó
của Bảo Hộ Thoại, ban thưởng tiền bạc the lụa cho ông, đồng thời sắc cho quan hữu
tư địa phương làm bia dựng ở bờ sông để đánh dấu cho một công tác lớn lao của
Nguyễn Văn Thoại.
Nguyên
trước kia, vì đã lấy tên là Thoại Ngọc Hầu mà đặt tên cho kinh và núi (Thoại Hà
và Thoại Sơn) sau khi ông đào xong kinh Đông Xuyên – Kiên Giang, nay không lẽ lại
cho lặp lại cùng một tên cũ. Nhà vua xem thấy bên bờ kinh mới đào có núi Sam y
như bên bờ kinh trước kia có núi Sập, lại xét thấy Thoại Ngọc Hầu phu nhân,
dòng họ Châu Vĩnh, nhũ danh Thị Tế, vốn là người đàn bà đức độ, từng tận lực
giúp chồng trên đường công bộc, cho nên ban đặt tên kinh là Vĩnh Tế Hà và tên
núi ở bờ kinh là Vĩnh Tế Sơn.
Đó
là một tưởng thưởng trọng đại mà Thoại Ngọc Hầu đã tiếp nhận với một niềm sướng
thoả vô biên.
Ta
hãy đọc ông trong bia Vĩnh Tế Sơn, đoạn nói về núi:
“Khi
được lên bản ngọc, vua xem qua, ban cho tên tốt để đặc biệt nêu lên, thật là một
chuyện ít có. Huống gì núi ở cõi Phiên, nơi ranh giới xa xôi hoang rậm, thì lại
càng thêm đặc biệt lắm. Triều đình nghiêm đặt đồn doanh tại địa giới Châu Đốc để
khống chế nước Phiên. Phía sau đồn có núi, mà lời tục thường quen gọi núi Sam.
Nơi đây, đầm ao rừng rú mênh mông rậm rạp, cũng là chỗ Thổ dân, Khách trú, người
Lào nương ngụ. Tuy có cảnh đẹp chuyện hay, nhưng cũng vẫn là một nơi rừng sâu,
đá rối, nổng gò mà thôi. Chừng như đất trời có hẹn, nên mới khiến xui sắp bày những
điều tốt đẹp, mới lạ như vậy chăng?”
Nguyễn
Văn Thoại cũng cho ta biết rõ nguyên do vì sao mà tên của Thoại Ngọc Hầu phu
nhân lại được tứ danh cho sông lẫn núi:
“Thần
vẽ hoạ đồ dâng lên, ngưỡng mong vua soi xét. Năm trước đây thần phụng mạng xem
sóc việc đào kinh Đông Xuyên, vua đã lấy danh tước thần nêu lên bên bờ kinh núi
Sập , đặt là núi Thoại. Đến nay hoàng ân lại xét đến lòng thần, cho là bíêt tề
gia hợp hoà khí, lại hạ cố tới vợ thần là Châu Thị Tế, rằng có đức dày trong đường
lễ giáo, bên trong biết giúp đỡ chồng, một lòng trung thành bền chặt, có chút
công lao, nên xuống lệnh ban cho tên núi Sam là núi Vĩnh Tế.
Người
nhờ núi nêu danh mà trâm tóc vẻ vang, ân vua gội rửa, núi nhờ người được hiệu
mà cỏ hoa tươi tốt, ân chúa thấm nhuần. Trước ân đức cao thâm đó, nhỡn não thần
mở rộng, tâm quan thần thầm ghi. Thật là: vận núi được hội tốt tao phùng, lão
thần có duyên may tế ngộ. Nếu không phải vậy, núi vì đâu mà được thiêng liêng
như thế?”.
Và
đây là đoạn cuối bài bia tả cảnh đẹp trên kinh:
“Đến
nay, ánh sáng sớm sương tan, bóng chiều tà ráng rọi, cây rậm rạp khoe xanh, cỏ
là đà phô thắm. Bụi sạch trên đường lên cao ngắm nghía dòng sông trải lụa,
khách đi qua buông chèo nhàn ngoạn, tay trỏ non xanh cùng nói với nhau: Đây là
núi Vĩnh Tế, do vua ban tên đó”.
Bia
Vĩnh Tế Sơn dựng vào tháng 9 năm Minh Mạng thứ 9 (1828), sau khi kinh được đào
xong 4 năm. Bấy giờ Thoại Ngọc Hầu đã 67 tuổi. Bà Nhất phẩm Phu nhân Châu Thị Tế,
ngươn phối của ông đã mất trước đó 2 năm và được an táng tại triền núi Sam. Tấm
bia đá to và cao ngang đầu người, khắc 730 chữ, đã sửa soạn từ lâu. được đem cắm
trong vòng lăng mộ, lúc đó đã được chôn Thoại Ngọc Hầu phu nhân, và cũng là nơi
dự định làm chốn yên nghỉ cuối cùng của ông sau nầy.
Ngày
làm lễ cặm bia hình như đã được chọn cùng lúc với một ngày cải táng tập thể các
binh dân tử nạn trong việc đào kinh. Chính trong ngày ấy, Thoại Ngọc Hầu cũng đứng
ra chủ tế các cô hồn tử sĩ và một bài văn tế nhan đề: Thừa đế lịnh, tế cô hồn
Vĩnh Tế tân kinh, cũng gọi là Tế nghĩa trủng văn, được đem tuyên đọc.
Độc
giả theo dõi công việc đào kinh Vĩnh Tế, tất đã biết sự tổn hại nhân mạng là bởi
nguyên do nào.
Chính
vì có sự tổn hại đó mà cùng một lúc với việc khen thưởng công lao của người
còn, triều đình đã biểu lộ cái trắc ẩn chi tâm đối với kẻ khuất.
Một
sắc chỉ ban xuống cho Thoại Ngọc Hầu, đương kim Thống chế Bảo Hộ Cao Miên quốc,
lại có trách nhiệm trấn giữ đồn Châu Đốc, kiêm quản quân vụ trấn Hà Tiên, nhân
danh chánh quyền lấy cốt tất cả những mồ mả của những người dân binh đã chết vì
thừa hành công vụ đào kinh.
Công
việc bốc mộ phải đi thuyền tìm kiếm từ vàm kinh ở hữu ngạn Hậu Giang (Châu Đốc)
đến ngả ba Giang Thành (Hà Tiên) gần 100 cây số. Tôi không rõ có bao nhiêu ngôi
mộ được bốc lên. Nhưng bằng vào những mồ mả còn thấy chung quanh lăng mộ Thoại
Ngọc Hầu, nơi được xem là vị trí cải táng các “nghĩa trủng”, thì ít nhất cũng
phải có đến hàng bốn, năm chục.
Ngày
nay, quan sát kỹ lưỡng các mồ mả ấy, chúng ta biết có một số đã bị nắng mưa làm
lì mất, một số được đắp lên bằng vôi cát và nước cây ô dước theo kiểu hình con
voi phục. Trừ vài ngôi mộ của mấy người có thể lực, được đem chôn lẫn vào đó
sau nầy (một Pháp kiều và vài phú gia), chúng ta có đếm được 55 ngôi mộ. Trong
số đó không nhất thiết là mồ mả của những người đã chết vì nghĩa vụ đào kinh,
mà còn có những người thân tín của Thoại Ngọc Hầu được cho chôn ở đó. Mồ mả được
trùng tu lượt, nên có cái tuy dáng dấp còn theo xưa, mà hồ tô mả đã là xi măng
với cát. Dù sao, trong tất cả những ngôi mộ còn lại nầy, chắc chắn có lối một nửa
là nghĩa trủng.
Như
tôi đã nói, một bài văn tế đã được lệnh soạn ra để cho Thoại Ngọc Hầu đứng chủ
tế các chiến sĩ, các sưu dân đã bỏ mình trong công tác đào kinh Vĩnh Tế. Trong
dịp tế cáo nầy, vì phải “thừa đế lịnh”, lại phải làm một cuộc cải táng tập thể,
cho nên chắc phải được tổ chức chu đáo và to. Nhưng tôi đã tra tìm trong các
tài liệu liên hệ, không thấy có bút tích nào nói đến địa điểm cuộc hành lễ, do
quân binh và sưu dân tử nạn đã được tạm chôn, nay đem đi di táng ở đâu. Tôi đã
căn cứ vào nhiều lẽ để suy đoán, thứ nhất là khu mộ nói trên và nội dung bài Tế
Nghĩa Trủng văn để mà quyết định được sự kiện.
Mở
đầu bài tế, ta thấy ngay cái bơ vơ của các cô hồn.
Trời xanh thẳm
mồ hoang lợp lợp,
Trăng soi nhoà
mấy lớp bia tàn!
Mây che bao nắm
đất vàng,
Sương sa sao
giọi, gò hang đổi dời!
Máy tạo thể trò
chơi lũ trẻ,
Bóng quang âm
như kẻ qua đường.
Lúc sanh khi lớn
không tường,
Là trai hay gái
khó lường họ tên?
Hiền hoặc dữ, hư
nên nào rõ,
Cha anh đâu, còn
có cháu con?
Việc ngươi ta
hiểu chưa tròn,
Xưa làm chi đấy,
hãy còn nghĩ suy!
Đào kinh trước
mấy kì khó nhớ,
Khoác nhung y
chống đỡ biên cương.
Bình man máu
nhuộm chiến trường,
Bọc thây da ngựa
gởi xương xứ nầy.
Rồi
sau đó một đoạn, Thoại Ngọc Hầu kể đến công đức của vua cho lệnh cải táng, để
cho các cô hồn từ
rày được thụ hưởng việc thờ phượng, cúng lễ.
Nếu không gặp
được ông Tây Bá,
Nắm xương khô
tan rã khắp đồng.
Giờ ta vâng lệnh
bệ rồng,
Dời người an
táng nằm chung chốn nầy.
Chọn đất tốt thi
hài an ổn,
Cảnh trời thanh
vui nhộn cùng nhau.
Hằng năm cúng tế
dồi dào,
Tràn trề lễ
trọng dám nào để vơi.
Nơi
đoạn cuối bài tế, người đứng chủ tế vừa nói lên cái tình cảnh ngậm ngùi đối với
kẻ chết, vừa gián tiếp chỉ điểm địa chỉ cuộc hành lễ cải táng:
Mắt chạm thấy
lòng càng tưởng nhớ,
Dầu đưa tay vớt
đỡ được đâu!
Tỏ lòng ghi nhớ
ơn sâu,
Điếu người thiên
cổ mấy câu ca rằng:
“Đỉnh núi Sam
gió xuân thổi ngót,
Triền núi Sam
móc ngọt đượm nhuần.
Hợp nơi mồ vắng
reo mừng,
Hồn ơi! Hồn hỡi!
mựa đừng luyến xa.
Cỡi văn báo hay
là xe ngựa,
Cảnh chia ly gợi
ứa lệ hồng.
Phương tây thoả
dạ ruổi dong,
Núi Sam sừng
sựng như mong hồn về”.
Nhờ
có bài Tế Nghiã trủng văn, khiến chúng ta xác nhận được nhiều sự kiện. Việc trước
hết là Thoại Ngọc Hầu vâng chỉ đào kinh, quả thật có chết mất nhiều người
(Thiên nhai lạc lạc, khách trủng luy luy) và có mất lòng dân như tương truyền.
Ông bẩm tính siêng năng, cả quyết, làm việc gì cũng cầu toàn, cho nên việc đào
kinh vì quá hăng say với công tác, chắc không thể không mắc vào sự chuyên quyết
như những việc làm 1úc ông bảo hộ Cao Miên mà trong Đại Nam chính biện liệt
truyện, quyển 27, từng nói đến. Việc tế cáo nầy là một “trắc ẩn chi tâm” và
cũng là một trong những chính sách làm yên lòng người.
Việc
thứ hai là trong số người đào kinh, ngoài binh và dân, còn có cả đàn bà con gái
phụ trách những việc nhẹ nhàng như nấu ăn, gánh nước, mà tai nạn có khi đã đưa
đến cho họ (Vi nam vi nữ, tánh thậm danh thuỳ). Điều nầy được soi sáng thêm vào
việc vua khen bà Châu Thị Tế đã từng giúp chồng nhiều việc cho nên chồng mới được
cái vinh dự thành công và bà mới được lấy tên đặt cho kinh cho núi (tất nhiên
công tác của bà phải có nữ giới trợ lực).
Việc
thứ ba là xác nhận cuộc cải táng tập thể, trong đó có cả lính lẫn dân. Mà trong
số quân lính đó, trước kia họ đã từng góp công giúp triều đình vào việc chinh
phạt (Sung biên chi hộ, bình man chi sư. Sa trường huyết chiến, lý dĩ mã bì).
Và
việc sau cùng cũng đã cho ta biết quả quyết địa điểm hành lễ cũng như nơi cải
táng hài cốt của các “nghĩa trủng” không đâu khác hơn là tại khu lăng mộ Thoại
Ngọc Hầu ngày nay (Sam sơn chi thượng hề, xuân phong xuy. Sam sơn chi hạ hề,
cam lộ ti. Sam sơn chi tây hề, khả dĩ toại xu trì).
Sự
tiện lợi của con kinh Vĩnh Tế càng về lâu càng thấy rõ. Do đó mà sau khi Thoại
Ngọc Hầu mất được bảy năm, đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) khi triều đình cho lệnh
đúc Cửu đỉnh để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, vua
cho chạm hình kinh Vĩnh Tế vào Cao đỉnh.
Cao
đỉnh là một trong số chín cái đỉnh hiện nay còn để trước nhà Thế miếu tại Đại nội
của cố đô Huế. Tất cả các đỉnh đều có tên riêng: Huyền, Tuyên, Nghị, Chương,
Cao. Nhơn, Anh, Thuần, Dụ. Tám chiếc đặt thẳng một hàng ngang và đều khoản, đứng
ra hai bên, riêng Cao Đỉnh được đặt ở chính giữa, ngay đường vào Thế miếu và được
đưa về phía trước các đỉnh kia.
Trên
Cao đỉnh, hình kinh Vĩnh Tế được chạm vào hông rất mỹ thuật. Dãy Thất Sơn lô
nhô trùng điệp, có điểm lác đác những gò đất, lùm cây và lạch nước Vĩnh Tế lăn
tăn gợn sóng. Trên bờ kinh, dưới chân núi, ba chữ Vĩnh Tế Hà khắc theo Hán tự
khá sắc sảo và rõ ràng, phô lộ tầm quan trọng của một việc làm bất hủ.
Cho
đến ngày nay, kinh Vĩnh Tế vẫn là một thủy đạo hữu ích lớn cho việc thông
thương vận tải. Từ vàm kinh ở bờ Hậu Giang (Châu Đốc) thẳng đến cửa Giang Thành
(Hà Tiên), dài 98.300m, sở dĩ lưu thông được, là nhờ nơi dòng nước đào tay nói
trên.
Tổ
tiên ta chỉ bằng những khí cụ thô sơ: Một ít cây sào tre đầu có lửa đuốc để nhắm
hướng; năm ba cuộn dây thừng để đo chiều dọc, chiều ngang va bề sâu cho mỗi
phiên xâu; một số cuốc, xuổng, chày vồ do dân xâu tự túc để tự tay đào đất.
Công quĩ thì chỉ giúp cho muối, gạo và một ít tiền. Thế mà đã thành công tốt đẹp
và để lại sự tiện lợi mãi mãi cho chúng ta về sau.
Ngày
nay, những buổi chiều đẹp trời hay những đêm trăng sáng, nếu ta thả thuyền trên
kinh hoặc trèo lên trên chót vót các ngọn núi Sam, núi Cấm hay một trái núi cao
nào khác ở vùng Thất Sơn mà ngắm dòng nước dưới kinh, thả hồn mơ về cố sự, chắc
chúng ta không khỏi bồi hồi thán phục người xưa đã chịu khổ công khai phá cõi
hoang vu cho thành nơi lưu thông trù mật, và nhất là đường kinh thẳng tắp,
không thua gì nhắm bằng máy nhắm của khoa học bây giờ…
(Trích
trong tác phẩm cùng tên. Chương XI: Đào Vĩnh Tế Hà)
6/2006
Nguồn:
http://www.vanchuongviet.org/
Kênh
Vĩnh Tế
Bà
là vợ ông Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829), một võ quan, một nhà doanh điền lớn,
một danh tướng của triều Nguyễn. Ông sinh ngày 25 tháng 11 năm 1761 tại Diên
Phước, tỉnh Quảng Nam, được phong tước Ngọc Hầu và mất ngày 6 tháng 6 năm 1829.
Ông là người đã chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà... để phát triển nông
nghiệp và mở đường từ Châu Đốc đi núi Sam, Châu Đốc đi Lò Gò và Sóc Trăng. Ông
có công lớn trong việc mở mang khai phá nhiều vùng đất phía Tây Nam Việt Nam.
Từ
nguyên quán ở Quảng Nam, do loạn lạc nên gia đình ông di trú vào Nam tại cù lao
Dài trên sông Cổ Chiên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long. Do công phò tá Gia Long, ông
dần được thăng chức đến Trấn thủ Vĩnh Thanh (nay là địa bàn thuộc các tỉnh An
Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Kiên Giang). Ở chức vụ này, ông đã có công lớn
trong việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất
Tây Nam. Các công trình lớn của ông để lại cho đời sau là:
Đắp
lộ Núi Sam - Châu Đốc, dài 5 cây số trong năm 1826 - 1827, huy động gần 4.500
nhân công. Đoạn nằm trong nội ô thị xã Châu Đốc hiện nay vẫn còn mang tên Ông.
Đào kinh Thoại Hà dài hơn 30.000m ở núi Sập (Thoại Sơn) vào năm 1818 với khoảng
1.500 nhân công. Triều đình đã lấy tên Ông để đặt cho tên núi, tên sông.
Những
công trình trên được xem là cơ sở kinh tế để người Việt đặt chủ quyền lâu trên
vùng đất mới này. Ngoài những sắc phong của triều đình nhà Nguyễn và các văn
bia Thoại Sơn, Vĩnh Tế Sơn, còn có bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng
tại núi Sam năm 1828 nhằm kỷ niệm ngày hoàn thành con lộ Châu Đốc - Núi Sam,
ngày nay không còn nữa nhưng văn bia văn còn ghi trong sử sách.
Riêng
kinh Châu Đốc - Hà Tiên dài gần 100km. Nó vừa là sông, tiện cho giao thông vận
tải, vừa làm sạch phèn, đưa nước ngọt vào tưới cho một diện tích lớn trồng cấy ở
Hà Tiên - Rạch Giá. Kinh dài theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc - Hà Tiên
nối lưu thông sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan, dài hơn 90 cây số, huy động trên
80.000 nhân công thực hiện từ năm 1819 - 1824.
Vì
bà Châu Thị Vĩnh Tế có công tận tụy giúp đỡ chồng trong việc xây dựng công
trình thuỷ lợi này nên vua Minh Mạng cho lấy tên bà đặt cho kênh Châu Đốc - Hà
Tiên là kênh Vĩnh Tế. Bà cũng được vua Minh Mạng phong là Nhất phẩm Phu nhân.
Sau
khi bà Châu Thị Vĩnh Tế và chồng qua đời, nhân dân đã lập miếu thờ ở chân núi
Sam, cạnh đường Châu Đốc - Tịnh Biên (nay thuộc tỉnh An Giang) để ghi nhớ công
lao của ông bà. Năm 1836, nhà vua cho đúc 9 cái đinh lớn đặt ở Huế làm quốc bảo,
hình con kênh Vĩnh Tế được chạm vào Cao đỉnh.
Ngoài
bà Vĩnh Tế, Thoại Ngọc hầu còn người vợ thứ là Diệc phẩm phu nhân Trương Thị Miệt
(?-1821). Lăng mộ của Thoại Ngọc hầu và nhị vị phu nhân được xây dựng đối diện
với điện thờ bà chúa xứ núi Sam. Khu vực này được nhà nước Việt Nam xếp hạng Di
tích lịch sử cấp quốc gia và được xem là một trong những địa điểm du lịch hành
hương lớn trong cả nước.
Thoại Ngọc Hầu Và Những Cuộc Khai
Phá Miền Hậu Giang
No comments:
Post a Comment