Monday, January 29, 2024

MẶT TRÁI CỦA THỦY ĐIỆN

(The Dark Side of Hydropower)

Tobias Landwehr et al. – Bình Yên Đông lược dịch

Pulitzer Center – November 24, 2023

 

Các đập đang cung cấp nhiều điện tái tạo hơn bao giờ.  Nhưng một điều tra của SZ với sự hợp tác của Pulitzer Center cho thấy cái giá cao như thế nào – và năng suất năng lượn không được bảo đảm như mong đợi.

Hầu như không còn bất cứ sông dài nào trên thế giới vẫn còn chảy không bị xáo trộn từ nguồn đến cửa của nó.  Hầu hết nay bị cắt ngang bởi các đập lớn.  Khoảng 10.500 của những kiến trúc nầy hiện cung cấp điện, làm cho chúng là nguồn cung cấp điện quan trọng nhất cho đến nay.  Trái đất của chúng ta cho thấy những đập lớn nhất với công suất thiết trí trên 100 MW trong những lưu vực sông quan trọng.

Các đập thật sự là phúc lành: Chúng không những sản xuất năng lượng mà còn bảo vệ toàn thể khu vực khỏi bị lũ lụt.  Chúng giúp cho nông dân qua những lúc hạn hán và cung cấp nơi cư trú cho cá – tất cả với một chi phí khá thấp.  Nhưng cái giá thì cao.

Những vấn đề thường bắt đầu ở các phụ lưu, như được thấy trên Mississippi. “Sông Cả” là một lưu vực lớn nhất trên thế giới: Tổng cộng, nó và các phụ lưu thoát nước cho 1/3 của toàn thể USA.

Trên một số phụ lưu của Mississippi, đập nầy đến đập khác nồi tiếp nhau như một chuỗi ngọc trai.  Những cái được gọi là chuỗi nầy là một khái niệm cổ điển của thủy điện.  Chúng lý tưởng để sản xuất năng lượng, nhưng biến một dòng sông thành một vùng nước hầu như ứ đọng.

Đó là vì các đập chẳng hạn như Gavins Point trên sông Missouri là những kiến trúc khổng lồ - là một sự can thiệp vào thiên nhiên lớn lao.

Hàng tấn phù sa cũng bị chận lại với nước: Đá, bùn và cát bị kẹt lại sau các kiến trúc.  Vì hồ chứa càng ngày càng bị lấp đầy, năng suất năng lượng sụt giảm.  Mặc dù càng ngày càng có thêm đập được xây trên toàn thế giới và khối lượng của hồ chứa được xây do đó phải gia tăng, khối lượng của hồ chứa có sẵn thật sự của các hồ bị giảm.

Nhưng chưa hết: Đồng thời, phù sa bị thiếu trong sông và đồng bằng, gây ra sạt lở.

Việc bồi lắng nầy xảy ra không thể thấy và không báo trước bởi nhiều người.  Nó chậm chạp, những thành phần của nó tí hon và nó xảy ra ở hàng chục đến hàng trăm m ở dưới nước.

Ngay cả vệ tinh cũng không thể nhìn vào chiều sâu của hồ chứa.  Nhưng chúng có thể làm cho bồi lắng thấy được ở nơi khác: trong các đồng bằng sông, nơi nước sông chảy ra biển và tạo nên một vùng thiên nhiên và kinh tế đặc thù.

Vì càng ngày càng có ít phù sa đi đến đó, sóng làm sạt lở các đồng bằng – với những hậu quả tàn phá cho người dân và thiên nhiên.

SZ đã phân tích các hình ảnh của 11 đồng bằng và thấy những thay đổi của bờ biển.  tất cả ngoại trừ 1 bị thu hẹp có thể nhìn thấy.

Một thí dụ gây ấn tượng là cửa sông của Rio São Francisco ở Brazil, một trong 25 sông dài nhất trên thế giới.  Từ giũa thế kỷ 20th, nhiều đập to lớn đã được xây trên hành trình của nó.  Đây là lý do vì sao hồ chứa Sobradinho được tạo nên, ngay cả có thể nhìn thấy từ không gian.

Đồng bằng của Rio São Francisco ở trên bờ biển đông bắc của Brazil đã thay đổi lớn lao trong những thập niên tiếp theo, như phân tích SZ thấy.

Đến cuối năm 2022, đồng bằng sẽ bị mất 8 km2 đất so với năm 1984.  Đó là gấp đôi English Garden của Munich.  Cabeço đã chìm xuống biển từ lâu, hải đăng của nó nay đứng ở giữa biển.  Một đơn kiện chống lại công ty điều hành các đập đang tiến hành nhiều thập niên và có thể tạo ra một tiền lệ.

Nhưng vấn đề ở đồng bằng ở Brazil không phải là một trường hợp cô lập.  Hiện tượng có thể được quan sát trên toàn thế giới.

Các đập khổng lồ cũng có ảnh hưởng lớn lao đến người dân và thiên nhiên ở Âu Châu, thí dụ như Rio Ebro, sông dài thứ 2nd ở Spain.

Chỉ có đồng bằng Nile lớn hơn đồng bằng Ebro ở Địa Trung Hải.  Nó có thể chứa toàn thể Munich.  Thay vì là một khu đô thị, tuy nhiên, nó là nơi cư trú của một trong những vùng trồng lúa lớn nhất ở Spain: 135.000 tấn một năm được trồng ở đồng bằng.  Ngoài ra, một trong những nơi trú ẩn quan trọng của chim ở Âu Châu nằm ở mũi.

Khu bảo tồn thiên nhiên ở gần tam giác Isla de Buda đặc biệt có nguy cơ biến mất.  Nếu không có những biện pháp chống lại, đồng bằng sẽ không còn hiện diện trong 20 năm, các nhà hoạt động nói.  So với năm 1984, đồng bằng đã mất 5 km2.

Những vấn đề tương tự cũng xảy ra ở phía bên kia của thế giới, ở Đông Nam Á (ĐNA):

Mekong chảy qua Trung Hoa, Myanmar, Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam.  Từ thập niên 2000s, gần 50 đập với công suất trên 100 MW mỗi đập được xây sông và nhiều phụ lưu của nó.

Nếu chúng chạy tối đa, chúng có thể cung cấp trên ½ điện mà Đức cần đến.  Và những siêu đập mới dăng được xây cất từ lâu.

Thượng Lào và nam Trung Hoa được phát triển rất nặng nề.  Toàn thể các phụ lưu chẳng hạn như Ou ở Lào đã được biến thành chuỗi đập.

Việc tương tự áp dụng cho thượng lưu Mekong ở Trung Hoa, nơi một số nhà máy thủy điện cao nhất và giàu năng lượng nhất trên thế giới đã được xây.  Phù sa rất hiếm khi được cứu xét.

Ảnh hưởng đối với cửa sông, nơi trên 20 triệu người sinh sống, cũng lớn lao tương tự.  Việc trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long vô cùng quan trọng đối với an ninh lương thực của ĐNA.

Phần trẻ nhất của cực nam đồng bằng gồm có tỉnh Cà Mau ở Việt Nam.  Nó vẫn lớn ra trong thập niên 1990s.

Ngày nay, sạt lở đang gia tăng ở đây.  Bờ biển thụt lùi trên 50 m mỗi năm ở nhiều nơi.  Về phía tây của mũi Cà Mau, điểm lục địa cực nam của Việt Nam, đồng bằng vẫn lớn ra – nhưng rất chậm so với trước đây.

Đồng bằng chánh ở phía bắc đã lớn ra từ lâu.  40 năm trước, chỉ có 1 đập lớn trên một phụ lưu của Mekong.  Sông từng là một trong những sông chảy tự do lớn nhất trên thế giới.  Bờ biển vô cùng phì nhiêu đã di chuyển ra biển đến 80 m mỗi năm. 143 triệu tấn đất đi đến cửa sông mỗi năm, nhiều khoảng 1/5 của tất cả các tòa nhà ở New York.

Ngày nay, biển đang gặm nhấm vào đồng bằng.  Mặc dù nhiều đập vẫn còn trẻ, khỏng 40 đến 50 đập đã hoạt động trong 15 năm qua.  Kết quả là, 1/3 lượng phù sa ban đầu vẫn đến cửa sông.  Vào năm 2040, tuy nhiên, nó được tiên đoán chỉ còn 3%.

Trong nghiên cứu nầy, SZ phân tích một số sông, diện tích lưu vực và dồng bằng của chúng và tính phạm vi ảnh hưởng của các đập đối với bờ biển.

Mặc dù với tất cả những vấn đề nầy, thủy điện là một nguồn rất quan trọng của năng lượng.  Với trên 4.300 TWh mỗi năm, nó cung cấp nhiều điện hơn các nguồn năng lượng tái tạo khác gộp lại.  Nhưng làm thế nào để tránh vấn đề bồi lắng trong hồ chứa?

Đã có những cái có thể làm, các nhà nghiên cứu nói.  Thí dụ, phù sa có thể được tháo ra qua những cửa ở dưới thấp, tuy nhiên, nó làm giảm năng suất năng lượng.  Hay một phần của sông mang nhiều đất có thể được chuyển đi.  Nó cũng có thể được cho vào ống ngầm và đưa qua đập.  Tuy nhiên, phương pháp nầy không thích hợp cho tất cả phù sa.

Tuy nhiên, những kỹ thuật nầy hiếm khi được thực hiện, ngay cả trong những đập mới, kỹ sư thủy lực George Annandale nói.  Lý do chánh là vì những lợi ích kinh tế chỉ trở nên rõ ràng sau 50 đến 80 năm.  “Đó là vấn đề lớn của tôi với phân tích kinh tế của những dự án khổng lồ nầy được giả sử kéo dài nhiều thế kỷ.  Nó là một suy nghĩ ngắn hạn cho những dự án dài hạn.”

No comments:

Post a Comment