Sunday, August 30, 2020

TIN CẬY LÀ CHÌA KHÓA CỦA HỢP TÁC LANCANG-MEKONG


(Trust key to Lancang-Mekong cooperation)

Tian Fuqiang, Liu Hui and Lu Hui – Bình Yên Dông lược dịch
China Daily – August 24, 2020

Một người dân làng chèo thuyền trên sông Mekong ở ngoại ô Luang Prabang, Lào 
ngày 5 tháng 2 năm 2020.

Lời người dịch:  Bài viết nầy là phần đối đáp mới nhất của phía Trung Hoa  trong trận chiến thông tin giữa các chuyên viên của Hoa Kỳ và Trung Hoa về tình trạng hạn hán trong lưu vực Lancang-Mekong.  Nó nêu lên những khuyết điểm quan trọng trong nghiên cứu của phía Hoa Kỳ ảnh hưởng đến kết quả nó nó.

Hạn hán xảy ra trong lưu vực sông Mekong trong năm 2019 làm mực nước trong dòng sông vĩ đại nầy xuống đến mức thấp nhất trong hơn 100 năm, gây thiệt hại đáng kể cho người sử dụng nước ở thượng lưu lẫn hạ lưu.

Mực nước thấp chưa từng thấy ở trong sông đã thu hút nhiều sự chú ý từ các quốc gia duyên hà Lancang-Mekong và xa hơn, kể cả một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu của Eyes on Earth và Global Environmental Satellite Application (EoE) cho rằng hạn hán là do các đập của Trung Hoa ở thượng lưu giữ lại nước.  Nhưng một nhận xét sau đó của Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) nêu lên những nghi ngờ quan trọng về phương pháp và dữ kiện dùng trong nghiên cứu của EoE.

Phúc trình của MRC kết luận rằng hạn hán năm 2019 phần lớn là do lượng mưa ít trong mùa mưa và mưa chấm dứt sớm, cùng hiện tượng El Nino làm cho nhiệt độ và độ bốc thoát cao bất thường.  Nó cũng cho rằng kết luận về tình trạng thiếu nước cấp thời ở hạ lưu vực Mekong trong năm 2019-20 là do các đập của Trung Hoa giữ lại nước là không đúng.

Được cỗ vũ bởi phúc trình của MRC, chúng tôi thực hiện một nghiên cứu nhằm mục đích định lượng thêm các đặc tính hạn hán trong lưu vực Lancang-Mekong và vai trò có thể có của việc điều hành hồ chứa.

Kết quả được duyệt xét nhóm và chia sẻ rộng rãi trong một buổi hội thảo trên mạng trong tháng 7, thu hút nhiều học giả nổi tiếng từ Đại học Oxford, Đại học Illinois-Champaign, MRC, Đại học Chulalongkorn, Thủy điện & Đập Quốc tế và Viện Nghiên cứu Thủy lợi phía Nam của Việt Nam, cùng các chuyên viên khác từ 6 quốc gia Lancang-Mekong.

Các chuyên viên quốc tế kết luận rằng nghiên cứu của chúng tôi đã trình bày một cách chính xác các đặc tính hạn hán của lưu vực Lancang-Mekong, nguyên nhân của đợt hạn hán 2019 và thành phần khu vực của lượng chảy tràn dọc theo sông Mekong bằng cách sử dụng các mô hình mới nhất, các phương pháp và dữ kiện tổng thể trong nghiên cứu.  Các chuyên viên cũng nói rằng phúc trình của chúng tôi mô tả ảnh hưởng giảm nhẹ của các hồ chứa ở thượng lưu đối với hạn hán nói chung.

Từ các bài viết được công bố của ông, chúng tôi biết tác giả chánh của phúc trình Eoe đã phát triển một chỉ số độ ướt có tên là Chỉ số độ ướt Basist, và lưu ý trong các bài viết của ông rằng chỉ số nầy không thể áp dụng cho các vùng núi có cây cối rậm rạp.

Nhưng lưu vực Lancang là một cùng núi có cây cối rậm rạp.  Có nghĩa là nghiên cứu EoE không chính xác và tệ hơn là dựa trên một tiền đề sai.

Trong một bài báo trên Bangkok Post, các tác giả EoE đưa ra một vấn đề lũ lụt mới.  Họ nhấn mạnh đến ưu thế tuyệt đối của nhịp lũ đối với đời sống của người dân ở hạ lưu phụ thuộc vào nó, đó là, kỹ nghệ đánh cá Tonle Sap, bằng cách cáo buộc rằng “không có trường hợp lũ lụt nghiệm trọng giết chết hàng ngàn người, chứ đừng nói hàng triệu”.

Nhưng sự việc là lũ lụt đã gây nhiều thiệt hại kinh tế và nhân mạng trong 6 quốc gia Lancang-Mekong.  Hàng trăm người chết khi lũ lụt lớn tàn phá lưu vực Mekong trong năm 2000-14 với tổng số người chết trên 2.000 – có thể giảm thiểu phần lớn nhờ vào hạ tầng cơ sở kiểm soát lũ lụt có hiệu quả.

Để xác định ảnh hưởng của các đập Lancang đối với nhịp lũ Tonle Sap, cần phải biết mức đóng góp của sông Lancang vào lưu lượng trong mùa mưa ở Stung Treng – vào khoảng 14% trong nghiên cứu của chúng tôi (16,8% theo phúc trình của MRC).  Cũng cần phải biết rằng dòng chảy đảo ngược vào (chảy vào) hồ Tonle Sap chiếm khoảng 15% lưu lượng của dòng chánh Mekong trong thời gian nầy.  Do đó, mức đóng góp của sông Lancang đối với việc đảo ngược dòng chảy vào hồ Tonle Sap chỉ vào khoảng 2%.  Cứu xét phần kiểm soát của các đập Lancang đối với dòng chảy sông Lancang, ảnh hưởng của việc điều hành các đập Lancang đối với nhịp lũ của hồ Tonle Sap không quá 2%.

Là những người nghiên cứu, chúng tôi đã tham gia vào nhiều hoạt động hợp tác liên quan đến sông Lancang-Mekong trong hơn 10 năm qua.  Chúng tôi chứng kiến các quốc gia Lancang-Mekong cam kết hợp tác nguồn nước ở cấp cao qua MRC và cơ chế Hợp tác Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)).  Theo chỗ chúng tôi được biết, chìa khóa của việc quản lý nguồn nước xuyên biên giới là hành dộng tập thể.  Theo ngôn từ của Elinor Ostrom, người đoạt Giải Nobel 2009 về Kinh tế, bồi đấp kiến thức và sự tin cậy rất cần thiết để giải quyết các vấn đề một cách tập thể.

Kinh nghiệm của đợt hạn hán 2019 và tất cả các đợt hạn hán trước đó kêu gọi hành động có phối hợp hơn giữa các bên liên hệ để giảm nhẹ hạn hán và các mối nguy thủy học cực đoan khác.  Điều nầy không dễ dàng.  Chia sẻ kiến thức, đặt nền tảng trên sự hiểu biết khoa học vững chắc, có thể là bước đầu trong chiều hướng đó.

Để kết thúc, chúng tôi muốn chia sẻ kết quả chánh của nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục đích xây dựng kiến thức và tin cậy.  Lưu vực Lancang-Mekong đang trải qua hạn hán thường xuyên – đáng kể trong mùa khô hơn trong mùa mưa.  Hạn hán năm 2019 là một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong thế kỷ qua, và vùng bị ảnh hưởng nặng nhất là Lancang đến thượng lưu Mekong (Nong Khai).

Từ khi hạn hán nghiêm trọng trong năm 2019 được xác định là do ít mưa vào đầu mùa mưa, việc điều hành các hồ chứa trong lưu vực Lancang-Mekong có thể đóng một vai trò tích cực trong việc đối phó với hạn hán trong lưu vực.  Chúng tôi hy vọng tất cả các quốc gia duyên hà có những nỗ lực nghiêm chỉnh để đối mặt với thách thức chung để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.

Sơ lược về tác giả

Tian Fuqiang là giáo sư ở Trung tâm nước Xuyên Biên giới và An ninh Sinh thái, Đại học Tsinghua (Thanh Hoa); Liu Hui là kỹ sư trưởng của Nha Thủy lực, Viện Nghiên cứu Nguồn Nước và Thủy điện Trung Hoa; và Lu Hui là phó giáo sư ở Trung tâm nước Xuyên Biên giới và An ninh Sinh thái, Đại học Tsinghua.


.

No comments:

Post a Comment