(The struggle for the
soul of the Mekong River)
Brian Eyler, Alan Basist, Courtney Weatherby and Claude
Wiiliams –
Bình Yên Đông lược dịch
The Bangkok Post – 31 July 2020
Vào tháng 6 năm nay, phúc trình thường niên về Tình trạng
Thủy sản và Nuôi cá Thế giới của FAO (Food and Agriculture Organization (Tổ
chức Lương Nông Thế giới)) xếp lưu vực Mekong vào hàng có thủy sản nước ngọt
phong phú nhất trên thế giới, chiếm trên 15% sản lượng cá nước ngọt đánh được
hàng năm. Trong lúc đó, các nhà nghiên
cứu của WWF (World Wildlife Fund (Quỹ Đời sống Hoang dã Thế giới)) ước tính
rằng sự đóng góp thật sự chiếm ¼ số cá nước ngọt đánh được trên thế giới. Thủy sản nội địa đồ sộ nầy rất cần thiết cho
an ninh lương thực của hàng chục triệu người ở Cambodia, Thái Lan và Việt Nam,
và được châm ngòi bởi chu kỳ dòng chảy tự nhiên của sông Mekong. Thông thường, sự biến đổi giống như kim đồng
hồ vào lúc nầy trong năm, từ mùa khô với lưu lượng tương đối thấp sang mùa mưa
rất ẩm ướt, mang nước lũ nuôi dưỡng toàn thể lưu vực.
Hàng năm, nhịp lũ nầy đẩy nước từ Mekong qua một nhánh ở
Phnom Penh, nối với hồ Tonle Sap ở Cambodia và làm cho hồ nầy phình ra trên 5
lần diện tích trong mùa khô. Tonle Sap
là đặc tính cá biệt nhất của Mekong và là nền tảng cho thủy sản lớn lao của
sông. Hồ phình ra rồi thu hẹp lại trong
mùa khô giống như nhịp tim tạo nên 500.000 tấn cá mỗi năm ở trong hồ và đưa cá
đi khắp lưu vực Mekong. Nhịp lũ trong
mùa mưa của Mekong cũng cần thiết cho việc canh tác ven sông, hỗ trợ cho cuộc
sống của hàng triệu người sống ven sông và các phụ lưu. Trên một tầm mức rộng lớn hơn, nước lũ lắng đọng
phù sa giàu chất dinh dưỡng trên các đồng lụt Mekong kéo dài từ tây bắc
Cambodia đến Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam (ĐBSCL). Tuy nhiên, lưu lượng tự nhiên của Mekong và
nhịp tim của Tonle Sap đang bị hủy hoại bởi việc hạn chế nước trong mùa mưa của
các đập ở Trung Hoa và ở hạ lưu trong các quốc gia Mekong. [Lời
người dịch: Biết thế, tại sao các tác giả lại không đá động đến ảnh hưởng của
các đập ở hạ lưu Mekong? Hỏi tức là trả
lời!] Khi lượng mưa trong mùa mưa
thấp, như hiện nay, việc hạn chế nước ở thượng lưu làm yếu thêm nhịp đập của
Mekong. Năm nay, lũ lụt hàng năm của
Mekong một lần nữa lại đến trễ.
Đầu tháng nầy, các nhà nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu
và học thuật nổi tiếng của Trung Hoa, gồm có Đại học Tsinghua (Thanh Hoa), công
bố một nghiên cứu (được gọi là nghiên cứu của Tsinghua) cho rằng, trong mùa
mưa, việc hạn chế của các đập Trung Hoa ở thượng lưu có ảnh hưởng tích cực đối
với Mekong. Nghiên cứu nầy và các kết
luận của nó đóng góp rất nhiều đến nhận thức của quần chúng; tuy nhiên, các tác
giả bỏ qua tầm quan trọng của dòng chảy tự nhiên của Mekong và những gì được
tạo nên từ dòng chảy tự nhiên đó.
Nghiên cứu của Tsinghua được thực hiện để đáp lại nghiên cứu
của Eyes on Earth (EoE) công bố vào tháng 4 năm 2020, được hỗ trợ bởi Hợp tác
Hạ tầng Cơ sở Khả chấp (Sustainable Infrastructure Partnership), là một phần
của Sáng kiến Hạ lưu Mekong (Lower Mekong Initiative (LMI)) của Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ. Nghiên cứu của EoE so sánh dữ
kiện đo đạc của Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) ở trạm thủy
học Chiang Saen, Thái Lan (trạm gần Trung Hoa nhất) với mô hình dòng chảy tự
nhiên ước tính từ chỉ số độ ẩm (wetness index) sử dụng ảnh vệ tinh để đo tất cả
các dạng của độ ẩm bao gồm lượng mưa, tuyết tan, nước ngầm, độ bốc hơi, và
sương. Nghiên cứu của EoE thấy rằng việc
điều tiết các đập của Trung Hoa ở thượng lưu thay đổi mạnh mẽ dòng chảy tự
nhiên của sông và cho thấy một sự hạn chế nước lớn lao trong mùa mưa 2019 vào
lúc các quốc gia ở hạ lưu trải qua đợt hạn hán vì thời tiết. Trong điều kiện tự nhiên, nhịp lũ Mekong phải
được quan sát ở Chiang Saen, tuy nhiên, việc hạn chế của các đập ở thượng lưu
đã triệt tiêu nhịp lũ đó. [Lời người dịch: Điều nầy không đúng với dữ
kiện mực nước đo đạc ở Chiang Saen.]
Nghiên cứu kết luận rằng việc điều hành 11 đập của Trung Hoa ở thượng
lưu làm cho tình hình hạn hán ở hạ lưu thêm nghiêm trọng bằng cách giới hạn
dòng chảy tự nhiên từ Trung Hoa trong mùa mưa.
[Lời người dịch: Lập luận nầy
không có cơ sở khoa học vì các đập thủy điện ở Trung Hoa xả nước xuống hạ lưu
nhiều hơn lưu lượng tự nhiên trong mùa khô.] Việc điều tra tiếp theo của chúng tôi cho
thấy rằng 2 đập lớn nhất ở Trung Hoa, Xiaowan (Tiểu Loan) và Nuozhadu (Nọa Trát
Độ), hạn chế khoảng 20 tỉ m3 nước từ tháng 7 đến tháng 11 năm 2019. Ảnh vệ tinh cho thấy các đập nầy nay đã sẳn
sàng để lặp lại việc hạn chế của năm rồi.
Nghiên cứu của Tsinghua có kết quả và kết luận phù hợp với
nghiên cứu của EoE. Cả 2 nghiên cứu mô
phỏng dòng chảy của sông trong 10 năm từ 2010 đến 2019, cho thấy việc xả nước
quan trọng từ các đập của Trung Hoa trong mùa khô và hạn chế nước đáng kể (so
với dòng chảy tự nhiên) trong mùa mưa.
Nghiên cứu của Tsinghua cũng công nhận rằng việc đo đạc lượng mưa bằng
viễn thám là phương pháp đáng tin cậy để ước tính dòng chảy của sông, nhất là
khi không có cái mà các tác giả gọi là một hệ thống quan trắc trên mặt đất đầy
đủ ở TrungHoa để theo dõi các điều kiện ở thượng lưu trong thập niên vừa
qua. Mặc dù thừa nhận các thiếu sót, các
tác giả sử dụng hệ thống dữ kiện mặt đất hạn chế nầy để xác định rằng khu vực
trải qua đợt hạn hán từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2019. Ngược lại, nghiên cứu của EoE khẳng định rằng
có đủ nước trong thượng lưu Mekong ở Trung Hoa từ tháng 6 đến cuối năm 2019 để
tạo thành nhịp lũ ở Chiang Saen. Các kết
quả nầy được chứng thực bởi dữ kiện viễn thám từ Google’s Earth.
Nghiên cứu của Tsinghua kết luận rằng lưu vực Mekong “đang
trải qua một tần suất hạn hán cao và tỉ lệ hạn hán xảy ra trong mùa khô cao hon
nhiều so với mùa mưa”. Giả thuyết chánh
của nghiên cứu là “việc điều tiết các hồ chứa trong lưu vực Mekong có thể đóng
một vai trò thiết thực trong việc đối phó với hạn hán” và nhấn mạnh vai trò
tích cực của các đập của Trung Hoa ở thượng lưu bằng cách hạn chế một số lượng
nước to lớn trong mùa mưa và xả nhiều nước trong mùa khô. [Lời người dịch: Đây là nguyên tắc thủy học của một đập thủy điện.]
Kinh nghiệm lịch sử của Trung Hoa với sông ngòi được tô vẽ
bởi sự cần thiết để khai thác và thuần hóa các sông của Trung Hoa để tránh lũ
lụt gây thảm họa. Thí dụ, trận lụt trong
sông Yangtze năm 1931 giết chết 3,7 triệu người và tài liệu cho thấy nhiều lần
trong quá khứ ở Trung Hoa lũ lụt làm thiệt mạng trên 1 triệu người. Các thiên tai nầy đã thúc đẩy Trung Hoa phải
chỉnh trị và kiểm soát gần như tất cả các sông chảy tự do. Trong suốt lịch sữ lâu dài của Trung Hoa,
sông được xem như hệ thống hoang dã tự nhiên và nguy hiểm cần phải chế ngự hay
thuần hóa cho lợi ích của nhân loại.
Ngày nay Trung Hoa đang xuất cảng kinh nghiệm lịch sử nầy đến Mekong qua
Cơ chế Hợp tác Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)) và nghiên cứu
như nghiên cứu của Tsinghua. Khẩu hiệu
của LMC là đập và việc điều tiết sông rất cần thiết để kiểm soát lũ lụt và giảm
bớt hạn hán có hiệu quả.
Đây là một khái niệm nguy hiểm cho hệ thống sông trong đó chu
kỳ dòng chảy tự nhiên là trụ cột của an ninh lương thực và kinh tế của
Cambodia, Lào, Việt Nam và Thái Lan.
Mekong là một hệ thống sông rất khác biệt. Tài liệu lịch sử trong lưu vực Mekong cho
thấy không có trường hợp lũ lụt nghiêm trọng giết chết hàng ngàn người, chứ
đừng nói hàng triệu. [Lời người dịch: Đúng là sông Mekong không
có lũ lụt giết chết hàng ngàn người, nhưng có nhiều trận lũ lụt giết chết hàng
trăm người.] Thay vào đó, một ngàn
năm trước, Vương quốc Khmer trỗi dậy trên chu kỳ lũ lụt hàng năm của Mekong và
thực phẩm phong phú mà nó tạo nên ở Tonle Sap.
Mức sản xuất của ĐBSCL, một trong những vùng sản xuất lúa và nông phẩm
quan trọng trên thế giới, tùy thuộc vào lũ Mekong. Lũ lụt cực đoan xảy ra như trong tháng 8 năm
2019 ở đông bắc Thái Lan và hạ Lào, nhưng các cộng đồng ở Mekong thích ứng để
được lợi từ lũ lụt. Một nghiên cứu của MRC
năm 2017 ước tính rằng lũ lụt trong mùa mưa cung cấp một lợi tức hàng năm từ 8
đến 10 tỉ USD, trong khi gây thiệt hại ít hơn 70 triệu USD. Lợi ích của lũ lụt tự nhiên vượt quá thiệt
hại trên 100 lần!
Kết luận của nghiên cứu của Tsinghua, biện minh cho việc
chuyển sự đóng góp của Trung Hoa trong dòng chảy Mekong từ mùa mưa sang mùa
khô, dựa trên một tiền đề sai (và ích kỷ).
Thực tế là đời sống ở Mekong tùy thuộc vào nhịp lũ. [Lời
người dịch: Không ai phủ nhận lũ nhỏ, thường được gọi là mùa nước nổi ở ĐBSCL,
mang lại lợi ích nhiều hơn thiệt hại.
Nhưng lũ ở châu thổ sông Mekong bị chi phối bởi dòng chảy từ các phụ lưu
ở Lào và Việt Nam chứ không phải do dòng chảy từ thượng lưu ở Trung Hoa.] Các nỗ lực để hạn chế nhịp lũ trên danh nghĩa
“ngừa lụt” đe dọa cuộc sống của hàng chục triệu nông dân và ngư dân ở hạ
lưu. Người được lợi duy nhất của việc
hạn chế như vậy là các nhà điều hành đập và thị trường điện ở thượng lưu ở
Trung Hoa.
Brian Eyler là giám đốc và Courtney
Waetherby là phân tích viên nghiên cứu của chương trình ĐNA thuộc Trung tâm
Stimson. Alan Basist lá Chủ tịch của
Eyes on Earth. Claude Williams là Chủ
tịch của Global Environmental Satellite Applications.
.
No comments:
Post a Comment