Bilahari
Kausikan
Xuân Lan
biên dịch.
3/8/2020
Bài viết
trích từ bài phát biểu tại Diễn đàn ASEAN về Phát triển Tiểu Vùng được tổ chức
bởi Bộ Ngoại giao Việt Nam ở Hà Nội, ngày 14/7/2020 của ông Bilahari
Kausikan, cựu Thư ký Thường trực Bộ Ngoại giao Singapore.
Một người phu nữ bán hàng rong trên thuyền, trên sông Mekong, ở Mỹ
Tho,
Việt Nam, 2016. (Ảnh: Filipe.Lopes/Shutterstock)
Số hội viên
của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được phân chia đồng đều giữa các
quốc gia đất liền và ven biển. Tuy nhiên, phương hướng chiến lược của ASEAN từ
lịch sử đã hướng ra biển. Bốn trong số năm thành viên sáng lập là các quốc gia
vùng biển. ASEAN được lập nên để ổn định vùng duyên hải của tuyến đường biển sống
còn nhằm ngăn chặn các nước bị cuốn vào cuộc Chiến tranh Lạnh trên đất liền.
Việc mở rộng
ASEAN thời hậu Chiến tranh Lạnh với các quốc gia đất liền còn lại đã không thay
đổi chiến lược hướng ra biển của tổ chức này. ASEAN đã giành rất nhiều thời
gian thảo luận vấn đề biển Đông vì đó là một vấn đề quan trọng, không chỉ với
khu vực, mà còn với toàn thế giới. Tuy nhiên, ASEAN hầu như chưa bao giờ thảo
luận về vấn đề sông Mekong, vậy mà đây lại là con sông chạy qua một nửa số nước
thành viên của ASEAN.
Các diễn đàn
và tổ chức lưu vực sông Mekong chỉ có mối quan hệ lỏng lẻo với ASEAN. Các thành
viên ASEAN không ở ven sông chỉ quan tâm nếu có việc liên quan tới họ và cơ bản
là không tham gia. Các thành viên bên trong lục địa đã nhiều lần cố gắng thu
hút sự quan tâm của các nước ASEAN còn lại tới vấn đề sông Mekong nhưng chỉ nhận
được sự quan tâm khách sáo. Điều này cho thấy một lỗ hổng nguy hiểm trong chiến
lược của các nước thành viên ASEAN không ở ven sông. Họ cần từ bỏ tư duy hạn hẹp
này và nghĩ về Đông Nam Á một cách toàn diện như một đấu trường chiến lược.
Sông Mekong
kết nối Đông Nam Á với lục địa châu Á. Con sông tác động mạnh tới gắn kết địa
chính trị của các nước vùng lục địa Đông Nam Á đa dạng về chính trị, văn hoá và
phân biệt họ với vùng đất liền châu Á không định hình rộng lớn hơn. “Vùng đất
liền Đông Nam Á” có thể được gọi một cách thích hợp là “Mekong của Đông Nam Á”.
Cuối cùng dòng sông chảy vào biển Đông, nối vùng đất với vùng biển. Sự phân
chia giữa đất và biển chỉ là do con người đặt ra và không bền vững.
Một trong những
chức năng chính của ASEAN là giúp các nước Đông Nam Á duy trì quyền tự chủ
trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh giữa các cường quốc trên thế giới. Đó là một
trong những thực tiễn không thể tránh khỏi của khu vực. ASEAN đang thực hiện những
điều này: Thứ nhất, điều hoà quan hệ giữa các thành viên để giảm thiểu cơ hội bị
các siêu cường lớn lợi dụng vấn đề trong khu vực để thúc đẩy lợi ích của riêng
họ. Thứ hai, quan trọng hơn, cổ vũ cho “sự cân bằng” giữa các siêu cường vì các
nước nhỏ chỉ có thể duy trì quyền tự chủ bằng cách điều hướng những lỗ hổng
trong quan hệ của các siêu cường.
“Sự cân bằng”
không được hiểu chỉ là cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc, mặc dù hiện nay quan hệ
Mỹ – Trung đang là vấn đề trung tâm, nhưng nó không phải là toàn thể thực tế.
“Sự cân bằng” mà ASEAN tìm kiếm thúc đẩy là một mối quan hệ đa hướng và đa cực
bao trùm quan hệ Mỹ – Trung, gồm tất cả các nước có lợi ích ở Đông Nam Á. Quan
trọng nhất là Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Hàn Quốc, Nga và một vài nước châu Âu.
Mỹ và Trung
Quốc rõ ràng là một phạm trù tách biệt với những quốc gia này. Nhưng một sự cân
bằng đa hướng và đa cực đã mở rộng tối đa không gian vận động cho các nước nhỏ,
vượt xa cấu trúc lưỡng cực đơn thuần, ngay cả khi các cực không quan trọng như
nhau. Các diễn đàn do ASEAN dẫn dắt như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị
thượng đỉnh Đông Á và Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng, đều cổ vũ kiểu
cân bằng này vì chúng mang lại cho các nước ngoài Đông Nam Á một cơ hội tốt để
duy trì hiện diện trong khu vực.
ASEAN đã làm
tốt trên biển hơn trên đất liền. Tình hình ở biển Đông là một thế bí. Trung Quốc
vẫn đưa ra những yêu sách thái quá không có cơ sở luật pháp quốc tế. Cảnh sát
biển và lực lượng hải quân Trung Quốc thường tỏ thái độ hung hãn. Nhưng Trung
Quốc không ngăn cản được Mỹ và đồng minh của họ hoạt động qua lại trên biển
Đông nhằm hỗ trợ trật tự dựa trên nguyên tắc pháp trị. Gần đây, việc triển khai
hai tàu khu trục Mỹ là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng Trung Quốc không thể ngăn
chặn họ mà không vấp phải nguy cơ chiến tranh. Ngày càng có nhiều nước trên thế
giới bày tỏ quan ngại về hành vi của Trung Quốc. Biển Đông hiện nay đang là một
mối quan tâm quốc tế và không một quốc gia có yêu sách nào của ASEAN có thể bị
cô lập và bị buộc từ bỏ những yêu sách của họ.
Điều này
không hoàn toàn là nỗ lực của ASEAN. Tuy nhiên, việc ASEAN vẫn duy trì một sự đồng
thuận tối thiểu chính thức về vấn đề biển Đông, bác bỏ tư tưởng nguy hại rằng
đường thuỷ chỉ liên quan tới các quốc gia duyên hải, và chống lại sức ép của
Trung Quốc trong các diễn đàn do ASEAN dẫn dắt, chắc chắn đã góp phần vào kết
quả này. Sự bế tắc chiến lược tại biển Đông không phải lý tưởng nhưng đủ tốt.
Địa chính trị của vùng châu thổ sông Mekong
Ngược lại,
những vấn đề địa chính trị vùng lưu vực sông Mekong có xu thế bất lợi đối với
các quốc gia ASEAN ven sông. Sự kiểm soát của Trung Quốc vùng đầu nguồn Mekong
và các con đập họ xây dựng hoặc đang xây dựng đã đem lại cho Trung Quốc lợi thế
quan trọng. Điều này phải trở thành mối quan tâm của cả ASEAN như một vấn đề
chung. Nếu Trung Quốc nắm giữ yết hầu của một nửa ASEAN trong tay, “vai trò
trung tâm” của ASEAN, vốn đang là một vấn đề còn nghi vấn, sẽ trở nên mong
manh. Các tổ chức và diễn đàn vùng lưu vực sông Mekong không thúc đẩy kiểu cân
bằng đa cực thường thấy trong các diễn đàn ASEAN. Làm thế nào các nước có thể
quản lý tốt quan hệ với nhau trong bối cảnh nhiều quốc gia có các dự án thuỷ điện
trên sông Mekong đang gây ra mối đe dọa tới các nước khác giống như các con đập
của Trung Quốc, cũng còn là vấn đề.
Hầu hết tất
cả các tổ chức quanh dòng Mekong đều xoay quanh vấn đề địa chính trị cốt lõi:
quản lý nguồn nước. Điều này tác động đến một loạt vấn đề quan trọng, đặc biệt
là an ninh lương thực. Uỷ ban sông Mekong liên quan tới quản lý nguồn nước, nhưng
Trung Quốc không phải là thành viên và uỷ ban thực sự không có quyền lực. Nhận
thức quốc tế về các vấn đề vùng lưu vực sông Mekong còn thấp, ngoại trừ giữa một
nhóm hạn chế các chuyên gia chủ yếu trao đổi với nhau.
Diễn đàn
tích cực nhất liên quan đến Mekong – Hợp tác Mekong – Lancang (LMC) lại bị
Trung Quốc chi phối. Bắc Kinh sử dụng LMC và Hành lang Thương mại đất – biển quốc
tế mới của họ như một phần của Sáng kiến Vành đai và Con đường để nối miền tây
Trung Quốc với ASEAN. Điều này có thể có lợi cho ASEAN nếu được thực hiện trong
bối cảnh cân bằng chiến lược và trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, cho phép các
quốc gia ASEAN ven bờ giữ được lập trường của họ và không bị lấn át.
Mỹ, Nhật,
Hàn Quốc và Úc đều có lợi ích ở vùng lưu vực sông Mekong. Ấn Độ là một cường quốc
lục địa gần kề. Nhưng do những hạn chế địa lý và những ưu tiên khác của họ, những
nước này chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với Trung Quốc. Nhưng nếu họ phối hợp những
nỗ lực chung tốt hơn, vai trò của họ không phải là không quan trọng. Vì ở biển
Đông, thậm chí một sự cân bằng đa cực bất đối xứng cũng có thể tạo ra không
gian vận động cho ASEAN. Nhưng ASEAN không thể mong đợi bất cứ nước nào trong
những quốc gia trên phối hợp tốt hơn hoặc tăng cường cam kết của họ với vùng
lưu vực Mekong trừ phi ASEAN tự hành động như một chỉnh thể.
Lợi ích chiến
lược chủ yếu của Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ và các nước khác ở Đông Nam Á là tự do
hàng hải cho tàu dân sự và quân sự giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Họ có
thể bảo đảm tốt quyền lợi đó bằng cách làm việc với nhau hoặc đơn phương. Mỹ có
khả năng làm việc này một mình và các nước khác có thể được hưởng lợi. Điều những
nước này hiện đang ủng hộ ASEAN không phải một sự cần thiết mà là một lựa chọn.
Nếu một nửa ASEAN nằm trong tay Trung Quốc và nếu cân nhắc thấy ASEAN có thể
không mấy giá trị, họ có thể có những lựa chọn khác.
Tầm vóc và
tình trạng cận kề luôn đem lại cho Trung Quốc ảnh hưởng đáng kể trên đất liền.
Đây là một thực tế. Nhưng ASEAN không nên ngồi im trong vô vọng để bị cho là yếu
thế, mà luôn cần làm điều gì đó. Điều hiển nhiên là các nước nhỏ khi đối đầu với
một nước lớn thì nên kết thêm nhiều bè bạn.
Có ba điều ASEAN
có thể làm cùng nhau:
Đầu tiên, đẩy
mạnh giai đoạn tiếp theo của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và xúc tiến các cải
cách kinh tế quốc gia, để tăng cường và củng cố vai trò của Đông Nam Á như một
giải pháp thay thế phần nào cho Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Về mặt
địa chính trị, một AEC thực chất và những cải cách kinh doanh thân thiện sẽ là
những mỏ neo quan trọng để giữ các nước lớn khác tham dự vào khu vực chúng ta.
Điều này cho phép ASEAN thu hoạch lợi ích của việc ở gần Trung Quốc trong khi
giảm tới mức thấp nhất mối nguy đối với quyền tự chủ.
Thứ hai,
ASEAN nên dẫn đầu trong việc thiết lập sự gắn kết chiến lược theo cách mà các Đối
tác Đối thoại của chúng ta chú ý tới Đông Nam Á trên đất liền và trên biển.
ASEAN nên khuyến khích họ xem xét Đông Nam Á như một khu vực chiến lược. Nếu
ASEAN không làm vậy thì ai sẽ làm? Để bắt đầu, vì sao không thảo luận về quan hệ
địa chính trị mật thiết của các vấn đề lưu vực Mekongvà biển Đông trong ARF,
EAS và ADMM mở rộng?
Thứ ba, và
quan trọng nhất, những hiệp định đa phương và song phương tập trung vào sông
Mekong nên được đặt trong khuôn khổ luật quốc tế rộng lớn hơn, đặc biệt liên
quan tới quản lý vùng nước. Công ước của Liên Hợp quốc về luật sử dụng dòng nước
quốc tế phi điều hướng là một khuôn khổ như vậy. Nhưng ở ASEAN, chỉ có Việt Nam
là thành viên. Sự bàng quang rõ ràng của các nước ASEAN khác ven bờ Mekong đối
với Công ước này của LHQ đang gây trở ngại. Vì những lý do rõ ràng, Trung Quốc
không tham gia và thích xử lý những vấn đề như vậy trên cơ sở song phương.
Nhưng ASEAN nên ủng hộ một khuôn khổ luật quốc tế rộng lớn hơn, như ASEAN ủng hộ
UNCLOS tại biển Đông.
Một nghiên cứu
khoa học gần đây đã tuyên bố những con đập của Trung Quốc đã ngăn nước và gây hạn
hán nghiêm trọng ở Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Cho dù người ta có đồng
ý với kết luận này hay không, nghiên cứu ít nhất cho thấy rằng khả năng này có
tồn tại. Sông Mekong tác động đến những vấn đề sống còn. Và điều này đặc biệt
đúng đối với những nền kinh tế đất liền nhỏ hơn, như Lào và Campuchia. Cho dù
thể hiện mối quan hệ tốt đẹp đến đâu đi nữa, sẽ là cực kỳ khinh suất khi tin tưởng
việc kiểm soát những vấn đề sống còn hoàn toàn dựa trên sự cho phép và ủng hộ của
một nước khác.
Mười bảy quốc
gia Á Âu có những con sông bắt nguồn từ lãnh thổ Trung Quốc. Nhiều nước lo ngại
vì Trung Quốc kiểm soát ở đầu nguồn những dòng sông này. Thay vì lảng tránh
Công ước của LHQ, các quốc gia ASEAN ven sông nên tham gia vào và đi đầu trong
cố gắng khuyến khích điều này và những nước đủ điều kiện khác làm theo. Đây là
một nhóm hỗ trợ tự nhiên có khả năng được huy động trong những trường hợp khẩn
cấp. Tối thiểu, nỗ lực này sẽ làm sáng tỏ vấn đề lưu vực Mekong dưới sự giám
sát quốc tế, để không ai phải chết khát trong tăm tối.
Bilahari
Kausikan, cựu Thư ký Thường trực Bộ Ngoại giao Singapore.
Bài viết trích từ bài phát biểu tại Diễn đàn
ASEAN về Phát triển Tiểu Vùng được tổ chức bởi Bộ Ngoại giao Việt Nam ở Hà Nội,
ngày 14/7/2020.
Xuân Lan
biên dịch.
.
SOURCE:
https://vietluan.com.au/31705/tai-sao-asean-nen-doi-xu-voi-van-de-song-mekong-nhu-doi-voi-bien-dong
No comments:
Post a Comment