(China’s its own worst
enemy in regional relations)
Thitinan Pongsudhirak – Bình Yên Đông lược dịch
East Asia Forum -31 March 2016
Đảo Phú Lâm trong Quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông
Thái độ ứng xử của Trung Hoa trong khu vực càng ngày càng tập
chú trong thời gian gần đây. Họ ít chú
trọng đến việc duy trì “nguyên trạng”, và chú trọng nhiều hơn đến việc sửa lại
động lực và tình huống trong khu vực theo ý họ.
Chủ thuyết sửa đổi nầy có lẽ là căn nguyên chính yếu của những căng
thẳng và tiềm năng xung đột ở Đông Nam Á (ĐNA).
Không nơi nào mà những người sửa đổi Trung Hoa nhắm đến rõ
ràng hơn Biển Đông và thượng nguồn Sông Mekong, chảy qua miền nam Trung Hoa,
Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam.
Ở Biển Đông, căng thẳng đang lên cao vì Bắc Kinh công bố chủ
quyền trên nhiều đảo san hô, đá ngầm và vùng đánh cá ở gần Philippines, Việt
Nam và Indonesia hơn lục địa Trung Hoa.
Trung Hoa đã xây cất những đảo nhân tạo trên đá ngầm, trang bị khí cụ
quân sự và sử dụng chúng cho các chuyến bay dân sự như một cách để củng cố chủ
quyền.
Philippines đã công khai chống lại Bắc Kinh, nhưng Việt Nam
vẫn không chạm trán vì Hà Nội lệ thuộc nặng nề vào Trung Hoa về mậu dịch, đầu
tư và phát triển kinh tế. Những quốc gia
còn lại trong Biển Đông – Đài Loan, Brunei và Indonesia – hầu hết đều tránh
đụng chạm trực tiếp với Trung Hoa.
Nhưng Indonesia không còn đứng ngoài vòng xung đột. Vào ngày 19 và 20 tháng 3, lực lượng
Indonesia bắt giữ 1 tàu đánh cá và 8 thủy thủ Trung Hoa vì vi phạm đặc khu kinh
tế của Indonesia ở phía nam quần đảo Natuna.
Để đáp lại, Tuần duyên Trung Hoa đã can thiệp và đâm vào tàu của
Indonesia để cứu tàu đánh cá. Tai nạn đã
gây công phẩn ngoại giao từ Jakarta, làm mất mặt người Trung Hoa.
Tai nạn là một phần của chiều hướng gia tăng chiến tranh của
Trung Hoa được biểu lộ bởi thái độ không muốn tham dự vào việc soạn thảo Quy
tắc Ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct in the South China Sea) giữa ASEAN [Association
of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các Quốc gia ĐNA)] và Trung Hoa.
Ở khu vực Mekong của lục địa ĐNA, Trung Hoa cũng tự đơn
phương trao uy quyền chánh trị cho mình bằng cách uốn nắn các thủy lộ thiên
nhiên qua việc xây cất một loạt đập ở thượng nguồn.
Khi các quốc gia Hạ lưu Mekong bị thiệt hai vì trận hạn hán
tồi tệ nhất trong nhiều thập niên, Trung Hoa đã xả nước từ đập Cảnh Hồng gần 1
tháng từ 15 tháng 3 như là một hành động nhân từ. Nhưng quyết định nầy có toan tính, ít nhất là
một phần, để bôi trơn lễ khai mạc thượng đỉnh Hợp tác Lancang-Mekong
(Lancang-Mekong Cooperation (LMC)) của 6 lãnh đạo quốc gia Đại Phân vùng
Mekong.
Mặc dù việc xả nước của Trung Hoa tạm thời giúp cho các nước
ở hạ lưu, nó cho thấy khu vực hạ lưu Mekong đã trở nên lệ thuộc vào thiện chí
và lòng rộng lượng của Trung Hoa.
Sông Mekong, người Trung Hoa gọi là Lancang (Lạn Thương), là
con sông dài nhất ĐNA. Nó là mạch sống
và nơi cư trú của các cộng đồng và đời sống hoang dã ven sông với hơn 60 triệu
người trong các quốc gia Mekong.
Việc xây đập của Trung Hoa ở thượng lưu Mekong từ lâu đã được
xem là một nguy cơ địa chánh trị đối với các quốc gia ở hạ lưu và là tiềm năng
cho xung đột cho toàn Đại Phân vùng Mekong.
Nguy cơ nầy trở nên nghiêm trọng vì thay đổi khí hậu và sự phát triển
nhanh chóng của vùng Mekong đòi hỏi nhiều nước hơn bao giờ.
Với ưu thế đối với các quốc gia ở hạ lưu, Trung Hoa đã hăm hở
triệu tập thượng đỉnh LMC ở Tam Á, Hải Nam (Sayna, Hainan). Bắc Kinh công bố một tổ hợp nợ và tín dụng
lên đến 11,5 tỉ USD cho các dự án phát triển trong khu vực Mekong từ đường sắt
đến khu kỹ nghệ. Bắc Kinh cũng thiết lập
một trung tâm thủy lợi và tài trợ các dự án xóa đói giảm nghèo trị giá 200
triệu USD, với 300 triệu USD khác cho việc hợp tác khu vực trong 5 năm tới.
Thủ tướng Trung Hoa Lý Khắc Cường (Li Keqiang) nói rằng các
kế hoạch nầy là một phần của chiến lược phát triển Vành đai và Con đường (Belt
and Road Initiative (BRI)), và kêu gọi tăng cường niềm tin giữa Trung Hoa và
các nước hạ lưu Mekong.
Cái quan trọng ở đây là thượng đỉnh LMC đã gạt qua một bên Ủy
hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) đã có từ lâu. MRC được thành lập bởi Cambodia, Lào, Thái
Lan và Việt Nam vào năm 1995, với chuyên môn và tài trợ quốc tế, để quản lý nguồn
nước dựa trên các quy ước quốc tế và thủ tục quản lý các dòng sông toàn
cầu. Myanmar và Trung Hoa là đối tác đối
thoại của MRC nhưng Bắc Kinh đã cố tình gạt ra ngoài lề và chỉ chú trọng đến
phiên bản LMC của họ.
Với tầm cở và vị trí ở bên trên cửa sông, Trung Hoa có thể
ngăn chận thủy lộ Mekong theo ý muốn.
Trung Hoa đã hoàn tất 6 trong số 15 đập dự trù. Các chánh phủ ở hạ lưu, đặc biệt là Cambodia
và Việt Nam, hoặc phải chịu ơn hay lệ thuộc vào lòng rộng lượng và chánh sách
của Bắc Kinh để không phản đối. Dĩ
nhiên, các quốc gia khác kể cả Lào, cũng xây đập trên sông Mekong. Đập Mekong không chỉ đơn thuần là việc Trung
Hoa áp đặt thế lực lên các quốc gia còn lại.
Nhưng với sự lệ thuộc kinh tế ngày càng tăng của Lào vào
Trung Hoa, và chánh phủ quân sự Thái có cử chỉ thân Bắc Kinh, Trung Hoa đã trở
thành một thứ ông trùm trong khu vực Mekong.
Tương tự, Cambodia tùy thuộc vào Trung Hoa về viện trợ phát triển và đầu
tư nước ngoài. Riêng Việt Nam vẫn giữ im
lặng về Biển Đông lẫn Mekong.
Myanmar là một nhịp cầu trong thiết kế Mekong của Bắc
Kinh. Dưới chánh phủ dân cử mới được bầu
cử, lãnh đạo bởi Aung San Suu Kyi, chánh quyền ở Naypyitaw dường như chưa sẵn
sàng.
Mặc dù khó để phủ nhận rằng lục địa Mekong quả thật là sân
sau của Trung Hoa, tình thế có thể thay đổi nếu Thái Lan dân chủ trở lại và hợp
tác với Myanmar.
Với thái độ gây hấn ở cả lục địa Mekong và Biển Đông, Trung
Hoa có thể bắt buộc các quốc gia nhỏ hơn mốn tránh xung đột kết hợp thành một
đồng minh khu vực để chống lại họ. Để
tránh kích động sự chống đối của láng giềng đoàn kết, Bắc Kinh phải đóng một
vai trò quan trọng trong việc thiết lập quy tắc và tổ chức trong sự hòa hợp với
các quốc gia khác trong khu vực.
Sơ lược về tác giả
Thitinan Pongsudhirak là Phụ giảng và Giám đốc Viện Nghiên
cứu An ninh và Quốc tế, Khoa Khoa học Chánh trị, Đại học Chulalongkorn.
.
No comments:
Post a Comment