Tuesday, October 15, 2019

ẢNH HƯỞNG CỦA TRUNG HOA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN TRONG LƯU VỰC SÔNG LANCANG VÀ HẠ MEKONG


(China’s Influence on Hydropower Development in the Lancang River and Lower Mekong River Basin)


Nathaniel Matthews và Stew Motta – Bình Yên Đông lược dịch
CGIAR Challenge Program on Water and Food – July 2013


Mạn Loan, đập đầu tiên trên sông Lancang ở Trung Hoa [Ảnh: Mapio.net]


Tại sao Trung Hoa phát triển thủy điện trong lưu vực sông Lancang và Hạ Mekong?

Trung Hoa dẫn đầu thế giới trong việc xây dựng thủy điện.  Trong Kế hoạch 5 Năm thứ 12 (2011-2015), Trung Hoa loan báo ý định bành trướng khả năng thủy điện của mình qua việc phát triển 8 vùng thủy điện với trên 60 dự án thủy điện đại qui mô, nâng tổng số công suất thiết trí của thủy điện lên đến 284 GW (GEV 2011).

Một bộ phận quan trọng của việc phát triển thủy điện ở trong nước và chiến lược năng lượng của Trung Hoa là việc xây dựng chuỗi Lancang nằm trong tỉnh Vân Nam.  Sông Lancang1, chính là Sông Mekong khi chảy ra khỏi biên giới phía nam của Trung Hoa, có một tiềm năng thủy điện 30.000 MW.  Để khai thác cái tiềm năng nầy, chánh phủ Trung Hoa có kế hoạch xây dựng một chuỗi gốm 8 đập trên dòng chánh Lancang, với 5 đập đang hoạt động.  Khi hoàn tất, chuỗi đập nầy có thể sản xuất 15.720 MW hay 52,4% tiềm năng thủy điện của Lancang (Grumbine, Dore and Xu, 2012).  20 đập khác đang được dự trù hay xây cất trên các phụ lưu của Lancang (Kummu and Varis, 2007).

Với điện giá rẻ, việc phát triển thủy điện dọc theo Lancang tạo cơ hội cho việc phát triển kinh tế ở các thành phố kỹ nghệ như Côn Minh (Kunming) và Quảng Châu (Guangzhou).  Thủy điện là một trong 5 trụ cột của kinh tế Vân Nam.  Nó được xem như là nguồn năng lượng sạch và một bộ phận quan trọng để Trung Hoa giảm bớt sự lệ thuộc nặng nề vào nhiên liệu hóa thạch và việc phóng thích CO2, hiện cao nhất trên thế giới.  Theo Thống kê Nhanh của Kỹ nghệ Điện lực Quốc gia, công suất thủy điện thiết trí trong năm 2010 chiếm 22,18% tổng số năng lượng cung ứng.

Nhưng ảnh hưởng thủy điện của Trung Hoa không giới hạn ở Lancang.  Trung Hoa cũng là một diễn viên chánh trong việc phát triển thủy điện ở Hạ lưu Mekong (Lower Mekong Basin (LMB)).  Qua các công ty như Công ty Điện Nước Quốc tế Trung Hoa (China International Water and Electric Coorporation), HydroLancang và Sinohydro, Trung Hoa đang tham gia vào hàng chục đập ở LMB gồm có đập Hạ Sesan 2 (400 MW) ở Cambodia vừa mới loan báo.  Những đập nầy tạo cơ hội cho Trung Hoa xuất cảng chuyên môn, gia tăng ảnh hưởng chánh trị, phát triển liên lạc mậu dịch, và tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp nhà nước (state-owned enterprises (SOEs)).  Đối với các quốc gia chủ nhà, những dự án nầy bơm tài chánh vào nền kinh tế quốc gia, và cung cấp hạ tầng cơ sở và điện lực.  Những đập nầy, do đó, được các nhà phát triển Trung Hoa xem như là những dự án “ai cũng có lợi (win-win).”

Kết luận: 
Chuỗi đập Lancang là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch của Trung Hoa để phát triển năng lượng giá rẻ, tái tạo và ít carbon để cung ứng cho nhu cầu điện năng ngày càng tăng ở trong nước.  Phát triển thủy điện ở LMB tạo cơ hội cho Trung Hoa gia tăng ảnh hưởng chánh trị và kinh tế của mình trong lưu vực và để các SOEs tăng lợi nhuận và xuất cảng chuyên môn về thủy điện.

Vài nét về Phát triển Thủy điện Lancang

Phát triển thủy điện trên Lancang bắt đầu từ năm 1956, khi Công ty Kiến tạo HydroChina Kunming (HydroChina Kunming Engineering Corporation (HCKEC)) khởi sự nghiên cứu vị trí đập.  Từ 1957-58, HCKEC xác định 21 vị trí có tiềm năng dọc theo sông, và hoạch định sơ khởi cho đập Tiểu Loan (Xiaowan).  Do bất ổn chánh trị và kinh tế vì Bước Nhảy Vọt (Great Leap Forward) và Cách mạng Văn hóa (Cultural Revolution), quy hoạch thủy điện được tạm ngừng cho đến cuối thập niên 1960s.

Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, năm 1988, việc xây cất bắt đầu ở đập Mạn Loan (Manwan), đập đầu tiên trên dòng chánh Lancang-Mekong, mà không được thông báo với các quốc gia ở hạ lưu.  Từ thập niên 1990s đến 2000s, việc phát triển thủy điện của Trung Hoa dọc theo sông Lancang đã tiến triển nhanh chóng, và đến năm 2008, có 4 đập trên dòng chánh đã hoạt động: Mạn Loan (1.550 MW) bắt đầu hoạt động từ năm 1992; Đại Chiếu Sơn (Dachaoshan) (1.350 MW) trong năm 2003; Cảnh Hồng (Jinghong) (1.750 MW) năm 2008 và Tiểu Loan (4.200 MW) năm 2010.  Tính đến tháng 6 năm 2013, Nọa Trác Độ (Nuozhadu (5.850 MW) đã hoạt động, nhưng chưa vận hành tất cả máy phát điện, và Công Quả Kiều (Gongguoqiao) (750 MW) đang được xây cất.

Sự phát triển nhanh chóng của Lancang từ năm 2000 trùng hợp với việc thành lập Công ty Phát triển Thủy điện Yunnan Lancang (Yunnan Lancang Hydropower Development Corporation (YLHDC) vào năm 2001.  Trước năm 2001, trách nhiệm phát triển Lancang được chia sẻ bởi Hội đồng Quy hoạch Phát triển Tổng hợp Yunnan Lancang (Yunnan Provincial Lancang Integrated Development Planning Commission), Bộ Năng lượng (Ministry of Energy (MoE)) và Công ty Đầu tư Năng lượng Trung Hoa (China Energy Investment Corporation).  Vào năm 2001, YLHDC có trách nhiệm tổng quát trong việc phát triển chuỗi đập Lancang.  Vào năm 2002, YLHDC được đổi tên là Công ty Thủy điện Sông Lancang Huaneng (Huaneng Lancang River Hydropower Corporation (HLHC).

HLHC là một công ty cổ đông của Tập đoàn Huaneng Trung Hoa (China Huaneng Group (CHG)), Tập đoàn Hongta (Hongta Group (HG)) và Công ty Đầu tư Vân Nam (Yunnan Investment Corporation (YIC)).  CHG là một công ty quốc doanh dưới quyền của Chánh phủ Trung ương Trung Hoa, và là một trong 5 công ty lớn nhất trong ngành thủy điện.  HG là một công ty quốc doanh cùng với Tobacco Trung Hoa (China Tobacco).  HG kiểm soát một số hiệu thuốc lá lớn nhất ở Vân Nam và có danh sách đầu tư ngày càng tăng bao gồm năng lượng, xây dựng, an ninh, sản suất giấy, dược phẩm, hóa học nhẹ, và tiếp tân.  Trong Phúc trình Doanh nghiệp Mạnh nhất 2010 của Trung Hoa, HG đứng đầu ở Vân Nam và thứ 104 trên toàn quốc (ETMOC 2010).  YIC là một công ty đầu tư của Tỉnh Vân Nam.

Kết luận
Sự phát triển nhanh chóng của chuỗi đập Lancang từ năm 2000 trùng hợp với sự hoán chuyển trách nhiệm từ Hội đồng Quy hoạch Phát triển Tổng hợp Yunnan Lancang, Bộ Năng lượng và Công ty Đầu tư Năng lượng Trung Hoa qua Công ty Thủy điện Sông Lancang Huaneng (HLHC).  HLHC là một công ty quốc doanh có thế lực với một danh sách đầu tư đa dạng.

Hậu quả của thủy điện Lancang đối với chánh trị, kinh tế và môi trường ở hạ lưu ra sao?

Mặc dù Trung Hoa có quan hệ chánh trị, kinh tế và môi trường với LMB, tất cả các đập hiện hữu trên Lancang được hoàn tất đơn phương mà không có tham vấn với hạ lưu.  Điều nầy khiến cho các quốc gia ở hạ lưu lên tiếng phản đối.  Những phản đối nầy lên đến cực điểm trong mùa khô 20102, khi mực nước sông Mekong xuống thấp ở hạ lưu Trung Hoa trùng hợp với việc trữ nước ở các đập Lancang (Hirsch 2010).  Trung Hoa nói mực nước thấp là do hiện tượng thời tiết khô bất thường chứ không phải do các đập, nhưng đồng ý gia tăng chia sẻ dữ kiện về lưu lượng và việc xả nước, và cải thiện đối thoại với các quốc gia duyên hà ở hạ lưu.

Goh (2009) thừa nhận rằng việc phát triển chuỗi đập Lancang của Trung Hoa có những hậu quả chánh trị và sinh thái đối với các cộng đồng ở hạ lưu.  Nhưng Trung Hoa vẫn khẳng định rằng “bất cứ hoạt động nào nhằm khai thác tiềm năng của Mekong thuần túy là chuyện nội bộ” (Dupont 2001:129).

Tuy nhiên, những phản đối ở hạ lưu năm 2010 khiến cho Trung Hoa phải chánh thức tuyên bố rằng bất cứ việc phát triển thủy điện trên sông sẽ cứu xét kỹ lưỡng ảnh hưởng ở hạ lưu (China Daily 2012).  Tuyên bố còn thêm rằng lợi ích của đập gồm có ngừa lụt và cải thiện việc sử dụng nước và cứu hạn ở hạ lưu bằng cách trữ nước trong mùa mưa và xả nước trong mùa khô (China Daily 2012).  Trung Hoa có luật lệ rộng rãi để giám sát việc phát triển thủy điện, gồm có Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Đánh giá Ảnh hưởng Môi trường, Luật về Nước của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (People’s Republic of China (PRC)), Luật Bảo tồn Đất và Nước của PRC, và Quy định về Tài nguyên Thiên nhiên của PRC.  Nhưng những luật lệ nầy không có mấy điều khoản nói về ảnh hưởng xuyên biên giới của các đập thủy điện.

Tuy thế, một số nghiên cứu cho thấy chuỗi đập của Trung Hoa sẽ làm mực nước giảm 30% đến tận thành phố Vientiane của Lào PDR (People’s Democratic Republic (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân)), gia tăng sự xâm nhập của nước mặn vào châu thổ và ngăn chận phù sa, ảnh hưởng sâu xa đến ngư nghiệp, nông nghiệp và đời sống trong toàn thể LMB (Kummu and Varis 2007; Räsänen et al. 2012; etc.).

Lưu vực Lancang là một nguồn phù sa quan trọng của LMB.  Gần ½ chiều dài của sông Mekong chảy qua Trung Hoa.  Nó chiếm 35% lưu lượng trong mùa khô và trên 55% lượng phù sa, do đó thiết yếu cho hệ sinh thái của toàn lưu vực (Kummu and Varis 2007; CPWF SOK Mekong Sediment Basics 2013).  Đặc điểm của thủy học Mekong là những nhịp lũ (flood-pulse) đẩy phù sa giàu dinh dưỡng qua hệ thống trong mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10.  Chất dinh dưỡng nầy hỗ trợ cho các dịch vụ sinh thái và sản suất nông nghiệp của khu vực mà đa số người dân trong vùng tùy thuộc vào (Kummu and Varis 2007).  Trên lý thuyết, 8 đập của chuỗi Lancang có thể giữ lại 94% lượng phù sa của sông (Kummu and Varis 2007).

Bồi lắng cũng là yếu tố quan trọng đối với những người thiết kế đập vì nó làm giảm tuổi thọ và khả năng vận hành của đập do khả năng chứa nước bị giảm.  Độ xói mòn trong lưu vực Lancang rất cao, ảnh hưởng đến tuổi thọ của đập dọc theo sông.  Lượng phù sa ở Mạn Loan rất cao, 1,21 kg/m3 (Plinston and Damming, 1999:238).  Nếu không can thiệp, dung tích “chết” của hồ Mạn Loan sẽ đầy trong vòng 15-20 năm, nhưng việc xây đập Tiểu Loan ở thượng lưu sẽ kéo dài tuổi thọ của Mạn Loan vì khả năng giữ phù sa của đập nầy (ibid).

Sự bồi lắng cũng có thể gây thiệt hại cho máy phát điện, mà việc sửa chữa rất tốn thì giờ và tiền bạc.  Các cửa xả phù sa có thể được thiết trí để tống phù sa xuống hạ lưu, nhưng chúng phải được lưu ý ngay từ đầu.  Chúng cũng tốn kém và có thể làm giảm tiềm năng thủy điện của dự án (Xin xem chi tiết về bồi lắng và ảnh hưởng trong lưu vực Mekong ở CPWF SOK Mekong Sediment Basics).

Về chánh trị, chuỗi đập Lancang cho phép Trung Hoa kiểm soát số lượng nước chảy xuống LMB.  Điều nầy cực kỳ quan trọng đối với sinh kế, an ninh lương thực và kinh tế của Lào, Cambodia và Việt Nam.  Räsänen et al. (2012) nhận thấy rằng chuỗi đập Lancang gia tăng lưu lượng trong mùa khô từ 34 đến 155% và giảm lưu lượng trong mùa mưa từ 29 đến 36%, do đó, thay đổi thời biểu và biên độ của nhịp lũ.  Ảnh hưởng của các đập hiện hữu đối với ngư nghiệp và thủy học, trong lưu vực và ở châu thổ, chưa được hiểu rõ, nhưng sẽ được các quốc gia ở hạ lưu theo dõi sát sao trong nhiều năm sắp tới.

Chưa có những thỏa thuận chánh thức giữa chánh phủ Trung Hoa và các nước ở hạ lưu về việc quản trị lưu vực.  Trung Hoa chỉ có “tư cách đối thoại” với Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)), là tổ chức lưu vực sông (river basin organization (RBO)) chánh yếu trong khu vực, được chia sẻ dữ kiện thủy học của Lancang, nhưng cho đến nay vẫn từ chối tham gia như một thành viên.  Mặc dù lập trường về chuỗi đập Lancang là một vấn đề quốc gia và không muốn thảo luận, Trung Hoa vẫn tiếp tục giao kết với các quốc gia ở hạ lưu trong chánh sách phát triển thủy điện.

Các chánh phủ ở hạ lưu cũng miễn cưỡng thảo luận với Trung Hoa về ảnh hưởng của chuỗi đập Lancang vì thế lực quân sự và chánh trị của nước nầy cùng với những khoản đầu tư và viện trợ khổng lồ vào LMB.

Kết luận: Trung Hoa dàn dựng việc phát triển thủy điện như một tình huống có lợi cho họ và các quốc gia ở hạ lưu.  Chuỗi đập Lancang ngăn chận phù sa và cho phép Trung Hoa kiểm soát lưu lượng trong mùa khô.  Điều nầy có thể có hậu quả nghiêm trọng về chánh trị, kinh tế và sinh thái của các quốc gia hạ lưu.  Trung Hoa đã gia tăng sự minh bạch và chia sẻ dữ kiện với các quốc gia ở hạ lưu, nhưng vẫn chưa có thỏa thuận chánh thức về việc quản trị lưu vực.

Ảnh hưởng thủy điện của Trung Hoa ở Hạ Lưu vực Mekong như thế nào?

Vai trò của Trung Hoa như một nhà tài trợ và phát triển đập ở LMB đã gia tăng đáng kể trong thập niên vừa qua.  Động lực chánh của việc bùng phát thủy điện gần đây ở Trung Hoa gồm có mối quan hệ mật thiết với các nước láng giềng, mở rộng thị trường cho các SOEs, an ninh năng lượng, mục tiêu cắt giảm phóng thích khí nhà kiếng, và chi phí gia tăng cho các vấn đề xã hội và môi trường ở trong nước.  Từ năm 2000, Bắc Kinh gia tăng ảnh hưởng trong khu vực qua các chánh sách khuyến khích đầu tư ở nước ngoài.

Trung Hoa tích cực cải thiện và tăng cường quan hệ với Đông Nam Á (ĐNA), đặc biệt với LMB vì có cùng biên giới.  Việc cải thiện quan hệ sẽ giúp Trung Hoa củng cố sức mạnh chung quanh vì lý do an ninh quốc gia và kinh tế.  Sau cuộc xung đột với Việt Nam trong năm 1979, gián đoạn ngoại giao với Lào PDR từ 1979 đến 1999, và hỗ trợ cho Khmer Đỏ ở Cambodia, Trung Hoa có nhiều việc phải làm để phục hồi niềm tin của các láng giềng trong khu vực.  Quan hệ giữa Trung Hoa với Cambodia và Lào PDR được bình thường hóa vào năm 2000, khi cựu chủ tịch Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) trở thành chủ tịch đầu tiên đến thăm hai nước nầy (Thayer 2001).

Tuy nhiên, sự biến chuyển từ thù sang bạn rất đáng kể và kịp lúc, hầu hết do các sáng kiến chánh trị và kinh tế của Bắc Kinh trong thập niên qua.  Một số thay đổi chánh trị đáng chú ý như sau:

·        Trung Hoa không phá giá đồng Nhân dân tệ (Renminbi) trong những xáo trộn của cuộc khủng hoảng tài chánh Á Châu và thay vào đó là cung cấp hỗ trợ tài chánh (Thái Lan nhận trên 1 tỉ USD; Halloran 1998).
·        “Chánh sách Đi ra Ngoài” của Trung Hoa, được đề ra trong Kế hoạch 5 Năm lần thứ 10 (2001-2005) và đặt căn bản cho việc đầu tư nước ngoài trực tiếp của Trung Hoa.
·        Trung Hoa, Cambodia, Lao PDR, Thái Lan và Việt Nam được thu nhận vào Tổ chức Mậu dịch Thế giới (World Trade Organization (WTO)).
·        Soạn thảo và ký kết Thỏa ước Mậu dịch Tự do Trung Hoa ASEAN (China ASEAN Free Trade Agreement (CAFTA)) thiết lập khu vực tự do mậu dịch lớn thứ ba trên thế giới vào ngày 1 tháng 1 năm 2010 (Tong 2010).
·        Sáng kiến Chiang Mai, chú trọng đến an ninh tiền tệ trong khu vực, do Trung Hoa tiên phong vào đầu thập niên 2000s.
·        Chương trình Đại Phân vùng Mekong của Ngân hàng Phát triển Á Châu cũng khuyến khích việc liên lạc qua các dự án hạ tầng cơ sở khổng lồ trong khu vực (Cronin 2012).

Những chánh sách nầy phản ánh một sự chuyển tiếp của Bắc Kinh sang việc hợp tác khu vực và cho thấy tham vọng mở rộng thị trường, chống lại ảnh hưởng của Tây phương ở trong vùng, và tạo vị thế lãnh đạo ở ĐNA và toàn cầu.  Những chánh sách đã có hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu, và cung cấp cho các quốc gia LMB một giải pháp thay thế cho Tây phương – thường với điều kiện cao – đầu tư.

Sáng kiến chánh trị của Bắc Kinh ở LMB song hành với động lực phát triển kinh tế của Trung Hoa.  Trung Hoa là đối tác mậu dịch lớn nhất của Myanmar, Việt Nam và Lào PDR; lớn thứ nhì của Thái Lan, và thứ ba của Cambodia (Gronholt-Pederson 2013; Chen Y.W. 2012; Heng 2012).  Trên căn bản quốc gia, trị giá mậu dịch của Trung Hoa trong năm 2010 là 46 tỉ USD với Thái Lan, 27,3 tỉ USD với Việt nam, 4,7 tỉ USD với Myanmar, 1,3 tỉ USD với Cambodia và 1 tỉ USD với Lào.  Trung Hoa cũng xây hầu hết các hạ tầng cơ sở của Cambodia và là nước viện trợ và đầu tư lớn nhất.  Chương trình viện trợ của Trung Hoa cho Lào PDR, Cambodia và Myanmar hiện lớn hơn viện trợ của Hoa Kỳ (Kurlantzick 2007).  Để hiểu chính xác ảnh hưởng của Trung Hoa ở LMB, mậu dịch, viện trợ và đầu tư phải được xem như một gói thay vì những sáng kiến riêng rẽ.  Urban et al. (2013:312) mô tả cách các bộ phận nầy được gói chung trong việc giao dịch ở LMB:

Người Trung Hoa thường gộp chung viện trợ, mậu dịch và đầu tư bằng cách cung cấp, thí dụ, cả đầu tư và các khoản nợ để xây đập và liên kết với việc xuất cảng điện, nhập cảng hàng hóa của Trung Hoa, và các thỏa thuận mậu dịch cho các công ty Trung Hoa.

Phát triển thủy điện của Trung Hoa trong LMB đem lại nhiều lợi ích hơn đối với an ninh năng lượng khi so sánh với các dự án xây đập ở nơi khác.  Một trong những khác biệt chủ yếu giữa phát triển thủy điện trong LMB và các dự án ở Phi Châu hay Nam Mỹ là sự nối kết với lưới điện của Trung Hoa.  Vị trí lân cận của LMB cho phép Trung Hoa nhập cảng điện đến các trung tâm đô thị đang lớn nhanh (Urban et al. 2013).  An ninh năng lượng là mối quan tâm chánh của giới chức Trung Hoa, đặt chỉ tiêu 15% cho năng lượng không phát xuất từ nhiên liệu hóa thạch vào năm 2015, với ½ được dự trù từ thủy điện (CEP 2012).  Những mục tiêu năng lượng năng nổ nầy được mô tả trong Kế hoạch 5 Năm thứ 12 (2011-2015) đã kích thích sự náo động của việc xây cất đập lớn và chuỗi đập.  LMB hiện đang trãi qua một đợt dự án đập lớn, với hơn 50 đập đang được các công ty Trung Hoa tiến hành (trên 50 MW), và nhiều đập khác được đề nghị (Urban et al. 2013).

Sự phân phối các đập lớn của Trung Hoa trong khu vực như sau: Myanmar 30, Lào PDR 13, Cambodia 7, Việt Nam 3, và Thái Lan với một vài dự án đập nhưng dưới 50 MW (Urban et al. 2013).  Những dự án nầy được tài trợ, phát triển, xây cất và hợp đồng với SOEs của Trung Hoa.  Sinohydro đóng ít nhất 1 vai trò trong số 30% dự án đập lớn ở LMB, và chịu trách nhiệm về tài trợ, phát triển và xây cất 5 trong số 13 đập lớn của Trung Hoa ở Lào PDR (Urban et al. 2013).  SOEs như Sinohydro thường có khả năng và qui mô lớn hơn, được sự ủng hộ chánh trị mạnh hơn, có kinh nghiệm nhiều hơn từ các dự án xây cất ở trong nước, và thường xây đập với giá rẻ hơn các đối thủ (McDonald et al. 2009).  Những dự án qui mô lớn nầy thường đòi hỏi sự chấp thuận ở cấp cao nhất ở Bắc Kinh và các quốc gia LMB, và vì thế giao tiếp với quốc gia là một lợi thế.  Ở LMB, hầu hết các dự án xây đập quan trọng đều có liên hệ đến SOEs của những người khổng lồ nổi tiếng toàn cầu, nhưng Myanmar cho thấy sự tương phản với các công ty nhỏ và ít nổi tiếng hơn (Urban et al. 2013).

Kết luận: Qui mô rộng lớn của các dự án đập Trung Hoa trong LMB là kết quả của các mục tiêu chánh trị, kinh tế, an ninh năng lượng, và cắt giảm phóng thích khí nhà kiếng.  Tất cả dấu hiệu hướng về sự gia tăng trong việc xây đập và “gộp” việc hợp tác kinh tế qua các SOEs lớn trong những năm sắp tới.  Câu hỏi quan trọng là làm thế nào để SOEs của Trung Hoa quản lý những ảnh hưởng xã hội và môi trường của các dự án trong LMB.

Chánh sách đối ngoại của Trung Hoa về xã hội và môi trường liên quan đến thủy điện như thế nào?

Trung Hoa đã nhiều lần tuyên bố rằng họ tuân thủ luật lệ và chánh sách của các quốc gia nơi họ đầu tư và phát triển dự án.  Điều nầy gồm có chánh sách không can thiệp vào nội bộ bị xã hội dân sự chỉ trích vì thiếu sự bảo vệ xã hội và môi trường (Xem WWF 2008 và International Rivers 2012).  Vào năm 2012, có lẽ để trả lời cho những chỉ trích và quan tâm của Trung Hoa đối với thanh danh của mình,  Hội đồng Điều hành Ngân hàng Trung Hoa (China Banking Regulatory Commission) sửa đổi Quy định Tín dụng Xanh (Green Credit Guidelines) về điều hành hoạt động môi trường của các ngân hàng Trung Hoa.  Ngày nay, những quy định nầy bắt buộc các ngân hàng phải cải thiện việc quản lý môi trường và rủi ro xã hội cho các dự án ở nước ngoài và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế.

Bước tiếp theo trong việc quản lý môi trường được thể hiện vào tháng 2 năm 2013, khi Bộ Thương mại và Bảo vệ Môi trường công bố Hướng dẫn về Bảo vệ Môi trường trong Đầu tư và Hợp tác Hải ngoại (Guidelines on Environmental Protection in Foreign Investment and Cooperation).  Những hướng dẫn nầy khuyến khích các công ty Trung Hoa “nhận diện và tiên đoán những rủi ro môi trường kịp lúc, giúp các công ty của chúng ta tích cực hoàn thành nhiệm vụ xã hội trong việc bảo vệ môi trường, tạo một hình ảnh tốt đẹp cho các công ty Trung Hoa ở nước ngoài và hỗ trợ phát triển khả chấp của các quốc gia chủ nhà.” (Xem chi tiết về Trách nhiệm Xã hội của Doanh nghiệp Trung Hoa (CSR) ở CPWF SOK: Trách nhiệm Xã hội của Doanh nghiệp trong việc Phát triển Thủy điện Mekong (CPWF SOK: Corporate Social Responsibility in Mekong Hydropower Development).

Vào năm 2011, Sinohydro soạn thảo Khuôn khổ Chánh sách cho Phát triển Khả chấp (Policy Framework for Sustainable Development) quy định các tiêu chuẩn môi trường, xã hội và an ninh, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm sự đồng ý trước và tự do của người dân bị ảnh hưởng.  Những chánh sách và tiêu chuẩn nầy sẽ được thực hiện đến đâu trong lưu vực Mekong thì chưa được rõ; tuy nhiên, nó cho thấy một triễn vọng, theo sau bước muộn màng của Trung Hoa trong việc phát triển thủy điện khả chấp.

Kết luận: 
Ban đầu, Trung Hoa theo đuổi chánh sách không can thiệp, hạn chế cam kết với các diễn viên và các biện pháp bảo vệ xã hội và môi trường được quy định bởi luật lệ và chánh sách của các quốc gia chủ nhà.  Gần gây,  Trung Hoa đã cải thiện trong việc đối thoại với các diễn viên trên khắp Mekong và tăng cường luật lệ bảo vệ môi trường và xã hội và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cho các dự án quốc tế.

Kết luận Tổng quát

Trung Hoa có những lợi ích kinh tế và chiến lược đáng kể trong lưu vực Lancang và Mekong, trong đó thủy điện là một bộ phận then chốt.  Việc phát triển thủy điện của Trung Hoa trong lưu vực Mekong được đón nhận một cách e dè bởi các quốc gia tìm kiếm đầu tư cho nguồn nước và việc phát triền kinh tế đi cùng với nhà nước Trung Hoa và các SOEs.  Những đầu tư nầy, tuy nhiên, bị các tổ chức xã hội dân sự và giới học thuật chỉ trích vì thiếu sự bảo vệ xã hội và môi trường.  Mặc dù không có sự giao kết với xã hội dân sự, giới học thuật và cộng đồng khu vực hay quốc tế trong quá khứ, Trung Hoa và các SOEs càng ngày càng được chú ý vì những rủi ro và ảnh hưởng xã hội và môi trường liên quan đến những dự án hạ tầng cơ sở đại qui mô.  Vì thế, Trung Hoa và SOEs đã tích cực tham gia đối thoại với các quốc gia ở hạ lưu qua MRC, ASEAN, NGOs và các diễn đàn như Diễn đàn về Nước, Thực Phẩm và Năng lượng (Mekong Forum on Water, Food and Energy (MFWFE)) của Chương trình Thách thức về Nước và Thực phẩm (Challenge Program on Water and Food (CPWF)) ở Phnom Penh trong năm 2011 và ở Hà Nội trong năm 2012.  Thí dụ, HLHC đã thử nghiệm Thể thức Đánh giá Tính Khả chấp của Thủy điện (Hydropower Sustainability Assessment Protocol) cho đập Cảnh Hồng và trình bày kết quả ở MFWFE.  Trung Hoa tiếp tục và gia tăng liên lạc với nhiều diễn viên và sự tuân thủ các tiêu chuẩn và hướng dẫn của các SOEs sẽ là thuốc thử cho lời hứa thúc đẩy phát triển khả chấp “ai cũng có lợi”.

Tài liệu tham khảo

EMTOC.2010. China’s 500 Strongest Enterprises was announced and Hongta Group ranks the first in tobacco industry. (2010, September 14). Tobacco Market of China. Retrieved from: http://www.etmoc.com/eng/looklist.asp?id=178

CEP. 2012. Energy Policy. Retrieved from: www.cep.ca/docs/en/policy-917-e.pdf
China Daily. 2012. Largest hydropower station on Mekong River starts operation. Retrieved from: http://www.chinadaily.com.cn/business/2012-09/07/content_15742514.htm

Chen, Y.W. 2012.Sino-Thailand Trade and Economic Relations Analysis and Prospect. Paper Presented to First Thai-Chinese Strategic Research Seminar, Bangkok, 24-26.

Cronin, R. 2012. China and the Geopolitics of the Mekong River Basin: Part 1. World Politics Review. Retrieved from: http://www.worldpoliticsreview.com/articles/11761/china-and-the-geopolitics-ofthe-mekong-river-basin-part-i

Dupont, A. 2001. East Asia Imperilled: Transnational Challenges to Security. Cambridge: Cambridge University Press, 2001.

Goh, E. 2009.China in the Mekong River basin: the regional security implications of resource development on the Lancang Jiang.

Grumbine, R.; Dore, J. and Xu, J. 2012. Mekong hydropower: Drivers of change and governance challenges. Frontiers in Ecology and the Environment 10(2): 91-98.

Gronholt-Pederson. 2013. Chinese Investment in Myanmar Falls Sharply. The Wall Street Journal.

Halloran, Richard. 1998.China’s Decisive Role in the Asian Financial Crisis. Global Beat Issue Brief No. 24.27 January 1998. CRS Report: The 1997 Asian Financial Crisis. Retrieved from: http://www.bu.edu/globalbeat/pubs/ib24.html

Heng, P. 2012 Cambodia–China Relations: A Positive-Sum Game?.Journal of Current Southeast Asian Affairs, 31.

Hirsch, P. 2010. The changing political dynamics of dam building on the Mekong.Water Alternatives 3(2): 312-323.

Information Office of the State Council 2012. Full text: China’s Energy Policy. China Internet Information Center.

International Rivers. 2012. The New Great Walls: A Guide to China’s Overseas Dam Industry. Retrieved from: http://www.internationalrivers.org/resources/the-new-great-walls-a-guidetochina%E2%80%99s-overseas-dam-industry-3962

Kummu M. and Varis O. 2007. Sediment-related impacts due to upstream  reservoir trapping, the Lower Mekong River. Geomorphology (85):275–93.

Kurlantzick, J. 2007. Charm Offensive: How China’s Soft Power is Transforming the World. New Haven: Yale.

McDonald, K., Bosshard, P., and Brewer, N. 2009. Exporting dams: China’s hydropower industry goes global. Journal of Environmental Management, 90, S294–S302.

Plinston, D. and H. Daming. 1999. Water resources and hydropower. Chapter in: Policies and Strategies for the Sustainable Development of the Lancang River Basin, Project TA 3139-PRC. 235-266

Räsänen, T. A., J. Koponen, et al. 2012. Downstream Hydrological Impacts of Hydropower Development in the Upper Mekong Basin. Water Resources Management: 1-19.

Tong S., and Keng, C. 2010. China-ASEAN Free Trade Area in 2010: A Regional Perspective”, EAI Background Brief no. 519: 7–8.

Thayer C. 2001. China and ASEAN: Developing Multilateral Cooperation. Comparative Connections: An E-Journal on East Asian Bilateral Relations, 3:3:71-9

The Daily Mail. 2013. China invades India: Tensions mount as platoon of soldiers slip across border to claim disputed territory. Retrieved from: http://www.dailymail.co.uk/news/article-2318389/Two-Chinese-incursion-leaves-India-verge-crises.html#ixzz2XEVUjC3D

The Diplomat. 2013. How Involved is Xi Jinping in the Diaoyu Crisis?.

Urban, F., Benders, R. M. J., and Moll, H. C. 2009. Renewable and low-carbon energy as mitigation options of climate change for China. Climatic Change,94(1–2), 169–188.

WWF. 2008. Rethinking Investments in Natural Resources: China’s Emerging Role in the Mekong Region. Policy Brief.Retrieved from: http://awsassets.panda.org/downloads/final_cc_reportlowres_3.pdf




No comments:

Post a Comment