Saturday, October 28, 2017

Vấn đề nông dân - di cư là... cơ hội của ĐBSCL

Chủ Nhật,  15/10/2017

ĐBSCL dễ bị tổn thương hơn trước các thiên tai như bão tố, lụt lội. 
Ảnh: LÊ HOÀNG VŨ





(TBKTSG) - Sự thay đổi cực đoan của các yếu tố thời tiết như nhiệt độ, mưa, gió (biến đổi khí hậu), nước biển dâng và việc các quốc gia phía thượng nguồn sử dụng nguồn nước cho thủy điện, nông nghiệp, công nghiệp đã làm cho đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đối diện thường xuyên với các vấn đề như hạn hán, mặn xâm nhập, ngập lụt, lún sụt mặt đất, thiếu hụt phù sa gây ra sạt lở bờ sông, bờ biển, làm xáo trộn đời sống kinh tế - xã hội và suy thoái tài nguyên thiên nhiên.
Những thách thức này gây ra việc di cư của nông dân trong thời gian qua. Nhiều làng xã ở ĐBSCL hiện nay chỉ còn người già và con nít ở lại. Điều này càng làm ĐBSCL dễ bị tổn thương hơn trước các thiên tai như bão tố, lụt lội.

Nếu phân tích kỹ những người ra đi tìm nguồn thu nhập khác trong thời gian qua, thì nông dân canh tác lúa chiếm tỷ lệ cao nhất. Nông dân trồng lúa ở những vùng trũng như Đồng Tháp Mười hay Tứ giác Long Xuyên luôn đối diện với rủi ro ngập lụt; còn nông dân trồng lúa ở các tỉnh ven biển và bán đảo Cà Mau thì luôn phải chống chịu với hạn hán và mặn xâm nhập.
Thiệt hại thường xuyên là vậy, nhưng Việt Nam chưa bao giờ thiếu gạo ăn và luôn luôn là nước đứng vị trí thứ 2-3 về xuất khẩu gạo trên thế giới. Rõ ràng là sức sản xuất lúa của ĐBSCL đã vượt hơn nhu cầu gạo ăn của người dân cả nước.
Do đó, cần tính toán lại “nhu cầu gạo” cho cả nước, để có thể quy hoạch và đầu tư đúng mức vùng trồng lúa an toàn tuyệt đối không bị lũ lụt hay hạn mặn uy hiếp. Cũng có nghĩa là sẽ “cởi trói” cho những diện tích đất còn lại đang bị bắt buộc phải làm nhiệm vụ “an ninh lương thực”, được chuyển sang nuôi trồng những cây - con khác phù hợp hơn với thị trường.

Quan trọng hơn là làm sao “cởi trói” người nông dân ra khỏi mảnh đất của họ, bằng một nguồn thu nhập khác ổn định hơn mà không sợ bị bão tố, nắng mưa, lũ lụt hay hạn, mặn đe dọa mỗi năm. Hiện nay chúng ta đang có cơ hội để làm điều này. Đó là việc những người nông dân đã đi làm xa (nông dân - di cư) ở những nơi mà sản xuất công nghiệp - chế biến - dịch vụ đang phát triển mạnh như TPHCM, Bình Dương hay Cần Thơ.
Tuy nhiên, các mảng công nghiệp - chế biến - dịch vụ này phần lớn là do khối tư nhân điều hành với quy mô nhỏ và vừa, do đó khó có khả năng những nông dân - di cư này sẽ nhận được lương cao. Vì vậy, họ đã chọn cách là đi làm xa một mình, để cha mẹ già và con trẻ ở lại nhà. Quá trình này đang diễn ra mãnh liệt, càng làm cho ĐBSCL dễ bị tổn thương hơn khi có thiên tai bão lũ xảy ra vì thiếu nguồn nhân lực khỏe mạnh.
Tập trung người dân quá đông trên một vùng đất dễ bị tổn thương sẽ đặt nơi đây vào hoàn cảnh luôn luôn bị đe dọa.

Nếu Nhà nước kết hợp với các doanh nghiệp tư nhân làm ăn hiệu quả bằng cách tổ chức đào tạo nông dân có tay nghề chuyên môn mà các doanh nghiệp cần, xây nhà ở xã hội bán trả góp, hỗ trợ giáo dục và y tế cho con em họ, thì có khả năng các nông dân - di cư này sẽ mang theo cả gia đình đến chỗ mới an toàn, nơi mà họ đã có thu nhập đủ sống và ổn định.

Được như vậy thì các doanh nghiệp khỏi phải lo lực lượng công nhân của họ bị xáo trộn thường xuyên; con em nông dân sẽ được học hành đàng hoàng, khỏi lo nơm nớp chuyện tránh lũ tránh bão phải bỏ học nửa chừng; con cái được gần gũi cha mẹ ông bà nên nền tảng văn hóa gia đình không lo bị mai một... Quan trọng hơn là khi chúng được học hành tử tế thì cái vòng luẩn quẩn nghèo đói - thất học - thất nghiệp sẽ không còn lặp lại.
“Cởi trói” nông dân ra khỏi mảnh đất của họ cũng là cơ hội cho các “doanh nhân nông nghiệp” muốn đầu tư sản xuất lớn vào ĐBSCL, trong đó nông dân góp quỹ đất để trở thành cổ đông của doanh nghiệp cũng là một khả năng. Quan trọng là nông dân sẽ không phải lo “nuôi con gì, trồng cây gì” trên từng mảnh đất của mình nữa, Nhà nước cũng không còn lo “giải cứu” cho hàng hóa nông sản mỗi khi được mùa - rớt giá.
Bây giờ việc xây dựng những công trình lớn như kênh, đê, kè, cống, đập sẽ không còn vì mục tiêu chống lũ, hạn, mặn để “bảo đảm tính mạng và tài sản người dân”, mà là để “trồng cây gì, nuôi con gì” theo kế hoạch sản xuất của các doanh nghiệp. Chi phí đầu tư hạ tầng này sẽ được Nhà nước, doanh nghiệp cùng làm và được tính toán cụ thể để sản xuất cái gì có thể thu hồi lại vốn. Vì mục tiêu cạnh tranh toàn cầu nên các doanh nghiệp phải chọn con đường sản xuất “thuận thiên” để có sản phẩm sạch. Không có hóa chất độc hại thì môi trường tự nhiên sẽ phục hồi và các loài hoang dã sẽ dần dà quay lại.
Do đó, việc xây dựng những công trình lớn ở ĐBSCL khi mà phương thức sản xuất và thị trường tiêu thụ chưa được xác lập rõ ràng là chưa hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Việc giữ chân người nông dân mà chưa có phương thức sản xuất hiệu quả thì họ sẽ tiếp tục phụ thuộc vào cây lúa, lại tiếp tục bấp bênh và như vậy ĐBSCL sẽ chưa thể phát triển bền vững trong tương lai!  

Vì vậy, vấn đề nông dân - di cư cần được nhìn nhận như một cơ hội của ĐBSCL. Bởi vì tập trung người dân quá đông trên một vùng đất dễ bị tổn thương sẽ đặt nơi đây vào hoàn cảnh luôn luôn bị đe dọa, trong đó có đe dọa của biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng và nguồn nước thất thường của sông Mê Kông. 

Dương Văn Ni

Source:


No comments:

Post a Comment