Sunday, May 23, 2021

NÔNG DÂN CAMBODIA KHÔNG THỂ DỰA VÀO HỒ TONLE SAP NỮA

 (Cambodian farmers can no longer rely on the Tonle Sap lake)

Gerald Flynn and Phoung Vantha – Bình Yên Đông lược dịch

The Third Pole – May 10, 2021

Nông dân phun thuốc trừ sâu trên đồng lúa ở Raeng Kesei trong tỉnh Battambang, phía tây Cambodia. [Ảnh: Alamy]

 

Ngập lụt theo mùa của hồ nước ngọt lớn nhất Á Châu đang bị xáo trộn bởi các đập ở thượng lưu và thay đổi khí hậu – và ảnh hưởng đến 4,8 triệu người.

“Tôi thấy sản lượng của nông trại của tôi thấp hơn mỗi năm kể từ năm 2017 hay 2018 – không có đủ nước,” Yoeum Yoeut nói.

Yoeut, 52 tuổi, là một cư dân lâu đời của huyện Baran thuộc tỉnh Battambang ở tây bắc Cambodia.  Cuộc sống của bà luôn luôn dựa vào lũ lụt tự nhiên của hồ Tonle Sap và các phụ lưu của nó, nhưng thay đổi khí hậu, thời tiết cực đoan và các đập ở thượng lưu đã chấm dứt điều đó.

“Năm ngoái, mùa màng không tăng trưởng như thường lệ.  Sản lượng của tôi có thể bằng 70% cái mà tôi mong mõi – và năm ngoái còn tồi tệ hơn năm 2019.  Mỗi năm, mưa khó đoán hơn, có ít nước trong sông Sangke và chúng tôi đều nhận thấy,” Yoeut nói.  Bà thêm rằng người dân ở phía tây của Quốc lộ 5, một con đường chạy dọc theo bờ phía nam của Tonle Sap, “không còn nước nữa”.

“Họ có kinh và mương thủy nông, nhưng chúng khô cạn trước mùa thu hoạch.”

Không có mưa trong 6 tháng qua, Yoeut phải bơm nước từ sông Sangke, một phụ lưu dài 250 km chảy vào hồ Tonle Sap.  Dùng máy bơm dầu và mương do bà đào, Yoeut chuyển nước từ sông Sangke ở xa ½ km vào một ao chứa nước.

Có lúc, bà nhớ lại, lúa có thể trồng trong mùa mưa và khô.  Nhưng nay trong mùa mưa, từ tháng 10 đến tháng 4, Yoeut phải quay sang trồng xoài và các hoa màu khác cần ít nước.

“Kể từ khi có Covid-19, không có chợ.  Giá xoài sụt giảm và chưa có mưa để trồng lúa, vì thế mỗi 2 ngày tôi phải chi 100.000 riel [khoảng 25 USD] cho dầu chạy máy bơm.  Tôi đang chật vật để không bị lỗ.”

Nhịp bất thường của Tonle Sap

Từng là xương sống của kinh tế Cambodia, tổng sản lượng quốc gia (GDP) của nông nghiệp giảm từ 47% trong năm 1995 xuống còn 20% trong năm 2019.  Nhưng năm ngoái, Covid-19 đã ngăn trở những thành phần khác của kinh tế, khiến cho Hun Sen, thủ tướng của Cambodia, khuyến khích việc trở lại đồng ruộng trong tháng 8 năm 2020.  Viện Hàn lâm Hoàng gia Cambodia tiên đoán rằng nông nghiệp có thể đóng góp 32% GDP trong năm nay.

Tuy nhiên, việc lệ thuộc vào canh tác bị cản trở bởi các đập thủy điện ở thượng lưu ở Trung Hoa và Lào, đã thay đổi lớn lao nhịp tự nhiên của nguồn nước trong khu vực.

Trung Hoa có 11 đập đang hoạt động trên sông Mekong trong lãnh thổ của họ, được gọi là Lancang.  Thêm 11 đập trên dòng chánh trong các giai đoạn khác nhau từ hoạch định đến hoàn tất ở Lào và Cambodia, 10 trong số đó liên quan đến đầu tư của Trung Hoa.

Mỗi năm, lũ lụt Mekong và đảo ngược dòng chảy của sông Tonle Sap, khiến cho hồ Tonle Sap phình ra 5 lần lớn hơn diện tích trong mùa khô và tạo nên hồ và thủy sản nước ngọt lớn nhất Á Châu.  Chu kỳ tự nhiên nầy, đã đến muộn trong 2 năm qua, gây thiệt hại cho thủy sản và ảnh hưởng đến nông nghiệp.

Kong Chhum, 71 tuổi, sống cả đời trong tỉnh Battambang – khoảng 70 km từ bờ hồ Tonle Sap trong huyện Thma Koul.  Mặc dù mùa khô nầy đem lại cho Chhum sản lượng lúa tốt, ông lo ngại về mùa bất thường.

Cái may mắn của Chhum là ở gần hồ chứa nước Pheas, ở đông bắc của hồ Tonle Sap.  Trong những năm gần đây, hồ chứa nước Phaes đã được phục hồi, vì thế nó rộng đến 300 hectares trong mùa khô và 500 hectares trong mùa mưa.  Nó phục vụ 9 huyện trong Battambang, kể cả Thma Koul.  Đối với Chhum, điều nầy có nghĩa là việc trồng lúa đã trở thành hoạt động quanh năm, cung cấp ổn định cần thiết.  Nhưng những nông dân khác trên khắp huyện Aek Phnum và Thma Koul, nhiều người ở trong khu vực Tonle Sap, đã bị thiệt hại nặng nề vì lũ lụt sụt giảm.

Bốn năm trước, nguồn nước suy yếu dần đã thay đổi cộng đồng của Chhum, khi nhiều người tìm cách di chuyển đến gần hồ hơn.  “Có những xung đột…  các cộng đồng đánh nhau vì nước khi các dòng suối [các nhánh cùa sông Sangke] bắt đầu khô cạn.  Không có đủ nước cho mọi người,” Chhum nói.

Vấn đề thêm phức tạp vì đe dọa ngày càng tăng đối với số cá từ các đập ở thượng lưu.  Trước đây, việc đánh cá có thể bổ túc cho canh tác và bù trừ cho những mất mát tài chánh và sinh kế do các hiện tượng thời tiết cực đoan.  Nay, tất cả nguồn nước của Cambodia – duy trì việc đánh cá và canh tác chung quanh lưu vực Tonle Sap – đang lâm nguy, tạo vấn đề cho 4,85 triệu người Cambodia sống trên khắp 8 tỉnh trong khu vực Tonle Sap.

‘Không có cá, lũ lụt, du khách hay việc làm ở nước ngoài’

“Đại dịch, mực nước lũ thấp, giá cả lên cao cùng với việc đánh cá và canh tác – tất cả có ảnh hưởng tiêu cực đối với cộng đồng ở đây,” Hou Savy, trưởng Hiệp hội Du lịch Kampong Khleang ở tỉnh Siem Reap, nói.  Ông nói ông đã thấy cộng đồng chật vật qua đại dịch Covid-19, nhưng trước virus rất lâu, họ đã đối mặt với mối đe dọa thầm lặng và từ xa khác.

“Người dân rất lo ngại về các đập.  Mặc dù Covid-19 đã giết chết du lịch và giá nông sản, các đập đang giết chết Tonle Sap.  Người dân từng có thể đi sang Thái Lan, nơi luôn có việc làm, nhưng hiện nay không còn,” ông nói.

Không có di dân hay du lịch, Savy nói, người dân của huyện Kampong Khleang chú ý nhiều hơn đến mực nước tụt giảm gần đây.

“Đây không phải là đe dọa ở xa – nó đang xảy ra.  Mực nước thấp đã là vấn đề trong nhiều năm, nhưng nay không có thị trường cho bất cứ sản lượng mà chúng tôi có thể sản xuất,” ông nói.

“Không có cá, không có lũ lụt, không có du khách và không có việc làm ở nước ngoài – thật là khó khăn.  Tôi sẽ bán cá hay hoa màu của tôi với giá thấp,” ông nói thêm.  “Giá cả chúng tôi bán không thể chấp nhận được, nhưng nếu có người mua, chúng tôi sẽ bán.  Tất cả chúng tôi đều có nợ phải trả và họ [các tổ chức tài chánh] muốn tiền lời của họ.”

Nợ của Savy có khoảng 400 USD tiền lời mỗi tháng.  Nhưng ông không đơn độc trong việc trả các khoản nợ dùng để tài trợ các hoạt động canh tác: chi phí canh tác gia tăng, nhất là nước dẫn thủy, đã ăn bớt lợi tức của nhiều nông dân.

Ly Map cũng sống trong huyện Kampong Khleang.  Mùa lúa trong mùa khô của bà đã thất bại từ năm 2017 và nay, với thu hoạch trong mùa mưa chỉ đủ để trả lại cho ngân hàng.

“Tôi vay 10.000 USD cho nông trại của tôi, nhưng những ngày nầy tôi dùng nhiều phân bón và thuốc trừ sâu.  Sản lượng càng ngày càng tệ.  Tôi có khoảng 40 hectares, nhưng tôi cho mướn một phần,” bà nói.  “Tôi lỗ khoảng 7.000 USD với sản lượng hàng năm mang lại khoảng 23.000 USD.  Tôi vẫn phải trả tiền lời cho khoản nợ,” bà nói.

Trên đồng lụt, nhiều người địa phương tin rằng vấn đề của họ bắt đầu ở thượng lưu.  “Những ngày nầy, người dân nói nó là do các đập, các đập ở Trung Hoa, đang chận nước…  Nếu tôi không thể canh tác, tôi không biết phải làm gì – tương tự với mọi người ở đây,” Map nói.  “Không có hỗ trợ, ngay cả các NGOs.”

Dẫn tưới một quốc gia

Sự lệ thuộc ngày càng tăng trên dẫn thủy và ảnh hưởng theo sau trên khắp khu vực Tonle Sap rất khó để đo lường.  Nghiên cứu năm 2019 cho thấy rằng gần 30% nông trại trên cả nước dựa vào thủy nông, mặc dù việc xếp loại theo hoa màu thay vì khu vực khiến rất khó để biết việc lệ thuộc vào thủy nông của Tonle Sap khu vực Tonle Sap đã thay đổi như thế nào.

Năm 2019, hạn hán tồi tệ nhất thế kỷ đã xảy ra.  Sau đó, trong tháng 2 năm 2021, Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)), một hội đồng cố vấn khu vực gồm đại diện của Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, tường trình rằng mực nước thấp trong sông – dẫn vào hồ Tonle Sap và hỗ trợ nông nghiệp của các đồng lụt – rất “đáng ngại” sau khi nhiều khúc sông Mekong trở màu xanh.

“Cả các dự án hạ tầng cơ sở trong sông lẫn thay đổi khí hậu góp phần làm cho mực nước thấp,” Khoy Rada, một cố vấn nghiên cứu chuyên về phát triển nông nghiệp của Angkor Research and Consulting, nói.  Thay đổi khí hậu, Rada nói, có nghĩa là nhiệt độ cao hơn, hạn hán nặng nề hơn và ít mưa.  Điều nầy đưa đến mực nước ngầm thấp và độ bốc hơi cao hơn trong các nguồn nước hiện hữu – tất cả phức tạp thêm vì thay đổi cách sử dụng đất.

Các cộng đồng dọc theo Mekong, nhất là các cộng đồng dựa vào Tonle Sap, tất cả đều bị ảnh hưởng, Rada nói.  Ông ca ngợi các nỗ lực của chánh phủ để cải thiện lề lồi canh tác nhưng ít lạc quan về cơ hội của Cambodia để ảnh hưởng thay đổi ở thượng lưu.

“Đối với hạ tầng cơ sở trên dòng nước, nó là một vấn đề xuyên biên giới.  Các quốc gia [ở hạ lưu] đã cố gắng để ngăn chận việc xây đập hay yêu cầu các quốc gia ở thượng lưu hợp tác, nhưng điều đó có vẻ không có hiệu quả,” ông nói.

Yin Savuth, giám đốc Nha Thủy học và Công tác Sông của Bộ Thủy lợi và Khí tượng Cambodia, thừa nhận các vấn đề của thay đổi khí hậu và mưa ít, nhưng cũng ghi nhận rằng các đập đã góp phần vào những thách thức mà nông dân Cambodia phải đối phó.

“Như những năm trước đây, chúng tôi ghi nhận rằng lượng mưa rất thấp trong vùng Mekong, nhưng nước của Cambodia thường đến từ mưa và nước ở thượng lưu, vì thế chúng tôi không thể kết luận rằng mực nước thấp là do thiên tai hay chỉ các đập – mà cả hai,” ông nói.

Xung đột nước

Bất kể nguyên nhân gốc, xung đột liên quan đến nước đang gia tăng, với nông dân đào các mương dẫn thủy để dẫn nước vào nông trại của họ.

“Người dân ở chung quanh Tonle Sap bị siêu áp lực nước,” Brian Eyler, giám đốc chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Stimson, nói.  Eyler nói nông dân ở xa bờ hồ hơn đang nhận thức rằng lũ lụt có thể không đến nữa và buộc phải ngân chận nước trước khi nó chảy vào hồ Tonle Sap từ các phụ lưu.

Sự phát đạt của các đập nhỏ thường được xây, ông nói, mà không có sự chấp thuận của chánh quyền, đã tạo nên một chu kỳ ăn trộm nước.

“Làng kế cận ở hạ lưu bị ăn trộm nước.  Các dòng suối không thể chuyển nước và tôi nghe nói rằng nó đang trở nên đáng sợ vì hiện tượng ăn trộm nước đã xảy ra trong cả thập niên qua,” ông nói.

Đáp lại với những lo ngại của quần chúng, trong năm 2020, Cambodia đã trì hoãn 10 năm việc xây đập trên dòng chánh Mekong.

Với Trung Hoa đồng ý chia sẻ thêm dữ kiện ở thượng lưu và theo dõi dữ kiện tức thời qua Theo dõi Đập Mekong (Mekong Dam Monitoring), hiện đang có nhiều tin tức hơn bao giờ về ảnh hưởng của các đập trên dòng chánh.

“Chúng ta sắp có dữ kiện để biết và xác định làm thế nào việc điều hành đập ở thượng lưu ảnh hưởng đến nhịp lũ của Mekong.  Có thể trong 6 đến 12 tháng, chúng ta sẽ biết chắc chắn làm thế nào các đập nầy làm giảm cường độ của nhịp lũ, trên khối lượng thật sự,” Eyler nói.  “Khoa học đang bắt đầu để đồng ý rằng ảnh hưởng lâu dài của việc điều hành đập ở thượng lưu sẽ sâu đậm hơn ảnh hưởng của thay đổi khí hậu.”

Eyler nói Cambodia có ít lựa chọn nhưng hợp tác với láng giềng Việt Nam ở hạ lưu và thăm dò các nỗ lực phối hợp để tái kiến tạo các đập hiện hữu ở hạ lưu để tạo nên nhịp lũ nhân tạo.

Nhưng để làm điều nầy, Eyler cảnh báo, Cambodia trước hết phải thừa nhận đe dọa của các đập của Trung Hoa – cái mà ông công nhận là sẽ khó khăn về mặt chánh trị, vì một số viên chức chánh phủ tiếp tục bác bỏ vấn đề một cách công khai.

Sơ lược về tác giả

Gerald Flynn là một phóng viên độc lập ở Cambodia.  Ông phụ trách các vấn đề môi trường và xã hội, cộng tác với Mongabay, New Naratif, VOD English, Cambodianess và Southeast Asia Globe.

Phoung Vantha là một phóng viên Cambodia ở Phnom Penh.  Ông tường trình cho Cambodianess và là phóng viên độc lập về các vấn đề xã hội, nhân quyền và môi trường, gồm có ảnh hưởng đến sức khẻ, các giải pháp thay đổi khí hậu và đốn gỗ trái phép.

.

No comments:

Post a Comment