Thủy điện Rào Trăng 3 trên thượng nguồn sông Bồ nhìn từ máy
bay trực thăng
Không
biết cây rừng – một loại sinh vật không biết nói, không biết than không biết
khóc – ngoài cách phản ứng gián tiếp với con người bằng mặc kệ lũ lụt hoành
hành, còn có cách nào nữa không, nhưng cầm chắc là có biết đi nữa chúng nó cũng
không lường nổi “cái mốc đổi đời 1945” lại đưa cả bà con họ hàng chúng đến chỗ
tuyệt diệt như hôm nay. Trong vài thập kỷ lại đây chúng đã chịu một cuộc “Cải
cách rừng núi” long trời lở đất gấp vạn lần CCRĐ, mà hình như đến giờ này cũng
đâu đã kết thúc.
Hoặc
giả là chúng nó có biết đấy mà chỉ vì cũng giống cột đèn, chúng chẳng có chân
để mà chạy. Chứ nếu mà cây cối cũng có chân thì sao nhỉ?
Thì
chắc là nhà thơ Tố Hữu sẽ không bao giờ còn có dịp viết nổi câu thơ nổi tiếng
này kể từ hồi kháng chiến chống Pháp: “Rừng che bộ đội rừng vây quân
thù”.
Bauxite
Việt Nam
“Nếu
anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”
(Abutalip)
Như
“đến hẹn lại lên” trong hai thập kỷ qua, cứ đến mùa mưa bão thì Miền Trung lại
phải chịu ngập lụt tang thương, năm sau còn tệ hơn năm trước, như một định mệnh
(Karma). Năm nay, hơn một trăm người đã thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà bị vùi
lấp hay ngập sâu, thiệt hại còn lớn hơn cả đại dịch Covid-19. Nhưng
điều
đág nói không chỉ là con số tử vong, gồm hai cấp tướng, hàng chục cấp tá, và
một số cán bộ trung/cao cấp khác, mà là hiểm họa lâu dài về môi trường, kinh
tế,Thì cà an ninh quốc phòng, tiếp theo đại dịch như “thảm họa kép”.
Dư
luận đang bức xúc và ồn ào, nhưng sau đó chắc lại chìm xuống trước một thực tế
mới (a new normal), để sang năm lặp lại “theo đúng quy trình”, mà chẳng thấy ai
chịu trách nhiệm. Không đổi mới thể chế và tư duy, chắc cái vòng luẩn quẩn đó
vẫn cứ tiếp diễn, và người dân luôn là “bên thua cuộc” (born loser). Hãy thử
làm rõ nguyên nhân và hệ quả.
Làm
rõ nguyên nhân
Khi
nói đến nguyên nhân, người ta thường đổ cho “thiên tai” như biến đổi khí hậu.
Điều đó tuy không sai, nhưng ngoài nguyên nhân khách quan (do “thiên tai”) còn
có nguyên nhân chủ quan (do “nhân họa”) mà người ta hay né tránh. Muốn tránh
thảm họa, phải làm rõ nguyên nhân. Trong khi loài người phải làm quen và chung
sống với biến đổi khí hậu (phải đối phó nhưng không chống lại được) thì họ có
thể tìm cách tránh được “nhân họa”.
Theo
ông Nguyễn Văn Lung (Viện trưởng Viện Quản lý Rừng), Việt Nam là một trong sáu
nước trên thế giới chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu trong bốn năm
gần đây. Miền Trung là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất tại Việt Nam. Nhưng
bên cạnh “thiên tai” (như biến đổi khí hậu), còn có “nhân họa” (do lòng tham và
dân trí thấp).
Trong
khi dư luận bức xúc vì đồng bằng sông Cửu Long phải gánh chịu hệ quả khôn lường
(như “vũ khí nước”) do họ làm quá nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn (chủ
yếu là Trung Quốc) thì Miền Trung lại hồn nhiên làm hàng trăm “thủy điện cóc”
(quy mô nhỏ dưới 10 MW) mà không tính đến hệ quả do môi trường tự nhiên bị tàn
phá. Khi chạy các dự án “thủy điện cóc”, mục tiêu của chủ đầu tư không phải là
làm ra điện mà là khai thác gỗ.
Trong
hơn 20 năm qua, Việt Nam đã có chủ trương “xã hội hóa” cho tư nhân làm “thủy
điện cóc” (chẳng khác gì “hội chứng trạm BOT”). Theo chủ trương “phân cấp quản
lý”, các dự án thủy điện công suất trên 10 MW do Bộ TNMT thẩm định phê duyệt,
còn các dự án thủy điện công suất dưới 10 MW do cấp tỉnh phê duyệt. Nhưng chủ
trương “xã hội hóa” và “phân cấp quản lý” đã bị các nhóm lợi ích thao túng, để
“con voi chui lọt lỗ kim”.
Việc
điều tiết thủy điện được “làm theo bản năng chứ không theo dòng chảy”. Các nhà
máy “thủy điện cóc” thường hoạt động tự phát và tùy tiện, không chỉ góp phần
phá hủy mội trường mà còn phá vỡ quy hoạch điện của nhà nước, dẫn đến hệ quả
khôn lường. Các chuyên gia cho rằng “quả bom nước” thủy điện bậc thang ở Miền
Trung có thể nhấn chìm phố cổ Hội An. Tuy các chuyên gia đã cảnh báo, nhưng
dường như không ai lắng nghe.
Theo
số liệu thống kê, Bộ Công thương đã duyệt 21 dự án thủy điện cỡ nhỏ (bình quân
21,4 MW) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên (tổng công suất 450 MW), gồm 5 công
trình: A Lưới, Hương Điền, Bình Điền, A Lin 1 và Tả Trạch. Theo Quyết định
1666/QĐ-UBND (23/7/2008), UBND tỉnh Thừa Thiên đã phê duyệt 11 dự án thủy điện
cóc (dưới 10MW) với tổng công suất 105,8 MW, được khai thác gỗ trong khu bảo
tồn thiên nhiên và rừng đặc dụng.
Trên
thực tế, rừng tự nhiên và rừng đặc dụng đều nằm trong danh sách “chuyển đổi mục
đích sử dụng rừng”. Tính đến cuối năm 2017, hơn 60.000 ha diện tích đất rừng đã
bị chuyển đổi, trong đó có 4 dự án thủy điện nhỏ ở Miền Trung gồm Alin B1, Alin
B2, Rào Trăng 3 và Rào Trăng 4, nằm trong khu vực bảo tồn thiên nhiên Phong
Điền. Đến nay, Miền Trung đã đưa vào vận hành khai thác 54 thủy điện bậc thang
(7.025 MW) và 156 thủy điện nhỏ (1.565 MW); đang thi công 11 dự án bậc thang
(704 MW) và 72 dự án thủy điện nhỏ (859 MW).
Cả
nước có 342 thủy điện nhỏ được đưa vào vận hành phát điện (tổng công suất
3.582MW), có 158 dự án đang được tiếp tục thi công (tổng công suất 2.122MW), có
khoảng 300 dự án đang được nghiên cứu đầu tư (tổng công suất 3.121MW), và có 69
dự án chưa nghiên cứu đầu tư (tổng công suất 622MW). Muốn đầu tư làm dự án thủy
điện nhỏ thường phải có quản trị tốt và giải trình minh bạch. Nhưng ở Việt Nam
các yếu tố đó vẫn chưa có.
Theo
thống kê, cứ 1MW thủy điện sẽ mất 10-14,5 ha rừng. Trung bình mỗi dự án thủy
điện nhỏ sẽ xóa sổ 125 ha rừng tự nhiên. Với hơn 500 dự án thủy điện nhỏ được
phê duyệt, phải đánh đổi 57.000 ha rừng. Nếu bỏ được 463 dự án thủy điện nhỏ
(dưới 30 MW) sẽ cứu được 13.890 ha rừng nguyên sinh. Mỗi ha rừng nguyên sinh
không chỉ bảo vệ đất khỏi bị xói mòn và làm chậm dòng chảy của nước về hạ lưu,
mà còn hấp thụ được 640 tấn khí carbon.
Mỗi
ha rừng nguyên sinh có trữ lượng cây khoảng 300 m3 gỗ. Nếu đốn 13.890 ha rừng
nguyên sinh sẽ thu được 5.167.000 m3 gỗ. Nếu giá một m3 gỗ (nhóm 1) là 50 triệu
VND/m3, giá một m3 gỗ nhóm 4 là trên 8 triệu VND/m3, thì bình quân là 20 triệu
VNĐ/m3. Nếu bán 5.167.000 m3 gỗ người ta sẽ thu được 103.340 tỷ VNĐ. Đó chính
là lý do người ta đua nhau làm thủy điện nhỏ. Nói cách khác, làm thủy điện cóc
là cách “tay không bắt giặc”.
Hệ
quả của thủy điện cóc
Người
ta thường làm dự án thủy điện nhỏ ở sâu trong núi vì ba lý do chỉnh. Một là
tránh xa được tai mắt của nhân dân. Hai là không tốn tiền đền bù và di dời nhà
dân. Ba là có thể tự do khai thác rừng nguyên sinh có nhiều giá trị lâm sản,
tạo ra nguồn tiền đủ để đầu tư làm thủy điện. Vì vậy, làm thủy điện cóc là kênh
đầu tư đem lại nhiều lợi nhuận, mà những yếu tố môi trường, kỹ thuật thiết kế,
xây dựng và vận hành hầu như không bị giám sát.
Có
thể nói thủy điện cóc là các dự án nhỏ nhưng lại có nguồn lợi lớn và tác động
môi trường không hề nhỏ. Các nhóm lợi ích đang tranh nhau làm thủy điện cóc và
thao túng quy trình làm thủy điện, tác động đến đời sống kinh tế, chính trị, và
văn hóa của Việt Nam, với hệ quả khó lường. Tuy các chuyên gia đã cảnh báo về
“quả bom nước” khi mùa lũ tới, nhưng các dự án thủy điện cóc vẫn đua nhau mọc
lên. Hệ quả là các khu rừng nguyên sinh bị khai thác vô tội vạ, rất khó kiểm
soát, vì kiểm lâm thường bị qua mặt hoặc bị mua chuộc.
Hệ
thống đường giao thông Bắc-Nam thường cắt vuông góc với dòng chảy của các con
sông ở Miền Trung. Đường càng cao thì chặn lũ càng nhiều, và hệ thống thoát
nước được thiết kế và thi công không đáp ứng được lưu lượng nước vào mùa lũ,
làm khả năng thoát nước càng chậm. Khi làm con đường HCM, chắc các chuyên gia
không nghĩ đến việc làm con đường đó có chặn mất dòng nước lũ tràn xuống biển
từ sườn phía Đông của dãy Trường Sơn.
Hầu
hết địa hình Miền Trung là đồi núi, có độ dốc cao (từ 15-75 độ). Bộ Công thương
cho biết đã loại khỏi quy hoạch 8 dự án thủy điện bậc thang (655 MW) và 463 dự
án thủy điện nhỏ (1.404,68 MW) do tác động tiêu cực lớn đối với môi trường và
xã hội. Thủy điện Rào Trăng 3 (công suất 11 MW) đã thay đổi thiết kế, nâng công
suất lắp máy lên 13 MW. Dự án này đã được Bộ TN-MT phê duyệt báo cáo đánh giá
tác động môi trường năm 2019.
Ông
Hà Công Tuấn (Thứ trưởng Bộ NN-PTNT) cho rằng một trong hai nguyên nhân cơ bản
khiến rừng tự nhiên bị giảm nghiêm trọng về diện tích và trữ lượng, là do
chuyển đổi mục đích sử dụng rừng để xây dựng thủy điện, thủy lợi, giao thông và
các công trình tái định canh định cư khác. Theo ông Lê Việt Trường (cựu Phó chủ
nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội), cần làm rõ lũ lụt do thiên
tai chiếm bao nhiêu phần trăm và lũ lụt do thủy điện chiếm bao nhiêu phần trăm.
Việc cần phải làm ngay sau vụ Rào Trăng 3 là tạm dừng tất cả các dự án thủy
điện đang triển khai và sắp triển khai để điều tra, đánh giá tổng thể.
Theo
ông Lung, các dự án thủy điện cóc công suất tuy dưới 10 MW, nhưng vẫn chiếm
diện tích lớn rừng được “chuyển đổi mục đích sử dụng”, trong khi các chủ doanh
nghiệp tư nhân làm thủy điện cóc thường trốn lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường. Lỗi không phải do làm thủy điện mà là do cách thức người ta quản trị và
điều tiết như thế nào. Chúng ta đánh đổi môi trường lấy lợi ích kinh tế trước
mắt, hy sinh rừng tự nhiên để làm thủy điện, nhưng không biết cái giá phải trả
lâu dài. Nói cách khác, người ta “đánh bạc với thiên nhiên”.
Theo
các chuyên gia về môi trường, nếu mưa xuống khu vực rừng tự nhiên thì khoảng
90% lượng nước rơi xuống không chảy tràn trên mặt đất, mà được thấm xuống thành
nước ngầm. Hệ thống mạch nước ngầm chằng chịt dưới lòng đất, nên khoan giếng
chỗ nào cũng hầu như thấy nước. Nhưng nếu mưa xuống khu vực đồi trọc hay rừng
mới trồng này thì chỉ có 5% lượng nước được thấm xuống đất, còn 95 % lượng nước
sẽ chảy tràn trên bề mặt, tạo thành lũ ống hay lũ quét. Nhưng hầu hết các chủ đầu
tư thủy điện cóc không quan tâm đến vai trò của rừng tự nhiên trong hệ sinh
thái, mà chỉ muốn phá rừng tự nhiên để khai thác gỗ.
Thế
giới đã khẳng định rừng tự nhiên là nhân tố tốt nhất để chống biến đổi khí hậu.
Các chuyên gia quốc tế khuyến cáo rằng thà giữ 1ha rừng tự nhiên còn hơn phát
triển 10 ha rừng trồng lại. Trong khi thế giới ra sức bảo vệ rừng tự nhiên thì
chúng ta lại hồn nhiên phá rừng tự nhiên để làm kinh tế. Trong khi đánh đổi lợi
ích kinh tế trước mắt lấy rủi ro môi trường lâu dài, thì chúng ta bỏ ngoài tai
các khuyến cáo của các chuyên gia về môi trường.
Theo
nhà báo Lưu Trong Văn, sự hy sinh của 13 sĩ quan trung/cao cấp tại trạm kiểm
lâm 67 gần Thủy Điện Rào Trăng 3, huyện Phong Điền (13/10 ) là một bài học đau
xót cho công tác cứu hộ. Nếu không coi công tác cứu hộ là công việc đầy nguy
hiểm phải có lực lượng cứu hộ chuyên nghiệp và phương tiện chuyên dụng, thì
chính quyền còn phạm nhiều sai lầm khác. Tướng Man, đại tá Hùng và đại tá Quang
từng chỉ huy lực lượng cứu hộ, nhưng lần này không có lực lượng cứu hộ và
phương tiện cần thiết, thì làm sao có thể chỉ huy cứu hộ.
Ông
Lưu Trọng Văn cho rằng: “Nếu không khẩn cấp điều tra hơn 700 thuỷ điện cóc đang
bức tử các dòng sông và các cánh rừng, gây ra hệ quả ghê gớm này để dẹp hết đi
thì sẽ là đồng lõa với tội ác”. Theo ông Văn, cũng như quan điểm của nhiều
người khác, Việt Nam vẫn chưa có đội ngũ cứu hộ chuyên nghiệp được huấn luyện
kỹ và được trang bị đầy đủ, để khi có lệnh là lên đường ngay bằng phương tiện
trực thăng, ca-nô hay xe chuyên dụng.
Tiếp
theo vụ sạt lở đất tại trạm kiểm lâm 67 ở Phong Điền (13/10) làm thiệt mạng 13
sỹ quan, hầu hết là cán bộ trung/cao cấp, vụ sạt lở đất tại khu nhà của sư đoàn
337 làm kinh tế tại Hương Hóa (18/10) đã làm thiệt mạng 22 cán bộ và chiến sỹ.
Tính đến 20/10, đã có 84 người chết, 38 người mất tích, 52.933 nhà bị ngập và
461.627 con gia súc/gia cầm bị chết. Ông Hoàng Đình Bá (cựu trưởng ty Lâm
nghiệp ở Quảng Nam-Đà Nẵng) đã cảnh báo từ hơn hai thập kỷ trước rằng tần suất
lũ lụt sẽ ngày càng tăng, và nguồn nước ngầm sẽ cạn kiệt. Nếu không phục hồi
được rừng đầu nguồn thì phố cổ Hội An không lâu nữa sẽ chỉ còn là phế tích.
Theo
kỹ sư Nguyễn Đức Thắng, một nguyên nhân khác làm lũ lụt Miền Trung gia tăng là
do Tập đoàn Dầu khí (PVN) chủ trương làm xăng E5 (ethanol) và Bộ Giao thông Vận
tải làm các tuyến đường Bắc Nam. PVN đã xây dựng 3 nhà máy ethanol (có tổng
công suất là 3x100.000m3 ethanol/năm) đặt tại ba miền đất nước là Tam Nông (Phú
Thọ), Dung Quất (Quảng Ngãi) và Bình Phước (phía nam), để pha trộn với xăng RON
92 tạo thành xăng E5.
Quyết
định 177/2007/QĐ-TTg cho chuyển đổi 0,73 triệu ha đất rừng thành đất trồng sắn
và xây dựng thêm nhiều nhà máy sản xuất ethanol. Theo thống kê của Bộ NN-PTNT,
trong vòng 5 năm (2010-2014) diện tích rừng ở Tây Nguyên đã giảm tới hơn 0,3
triệu ha, độ che phủ của rừng đã giảm 6,1%. Nguyên nhân chính là do chuyển đổi
rừng và phá rừng tự nhiên để xây thủy điện, hạ tầng giao thông, và trồng cây
cao su...Rừng và thảm thực vật hoạt động như “một cái phanh để giảm lũ”, nhưng
khi nhiều rừng tự nhiên bị tàn phá thì sẽ có lũ quét.
Câu
chuyện cứu trợ
Thảo
luận về “hiện tượng Thủy Tiên”, luật sư Ngô Ngọc Trai cho rằng Việt Nam có Nghị
định 64/2008/NĐ-CP không cho những cá nhân hay nhóm người (như Thủy Tiên) được
tiếp nhận tiền cứu trợ và phân phối hàng cứu trợ. Ông luật sư và Báo Pháp luật
TP.HCM nhận xét rằng nghị định 64 ra đời cách đây 12 năm, nay đã lạc hậu, và đó
là một văn bản dưới luật nên tự thân nó không đảm bảo tính hợp hiến và hợp
pháp. Luật sư Ngô Ngọc Trai và Báo Pháp luật TP. HCM kiến nghị “cần phải nhanh
chóng hủy bỏ Nghị định 64/2008”.
Theo
nhà báo Nguyễn Như Phong, “Làm từ thiện mà cứ giao khoán cho mấy tổ chức đoàn
thể là khéo mất toi. Nói thật là tôi mất niềm tin vào các cơ quan như Mặt trận
Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ... và không bao giờ tôi phối hợp với các
tổ chức này”. Nhà báo Nguyễn Như Phong đã phản ánh khá đúng tâm trạng của công
chúng, và một thực tế đáng buồn là người dân không còn tin vào các cơ quan đoàn
thể ,vì họ đã đánh mất chính danh. Một khi đã đánh mất lòng tin của người dân
thì rất khó lấy lại, làm “khủng hoảng lòng tin”.
Người
ta hay nói “lấy dân làm gốc” nhưng nhiều người quên rằng dân như nước, có thể
“nâng thuyền hay lật thuyền”. Cách đây bốn năm, MC Phan Anh đã quyên góp được
hơn 20 tỷ VNĐ trong vòng một tuần (như một hiện tượng). Nay ca sỹ Thủy Tiên đã
quyên góp được hơn 100 tỷ VNĐ cũng trong vòng một tuần (gấp năm lần Phan Anh).
Nhưng Thủy Tiên còn quyết liệt hơn Phan Anh khi khẳng định rằng cô sẽ làm việc
“theo cái tâm của một cá nhân mong muốn giúp đỡ cộng đồng” với nguyên tắc là
“tiền trao tận tay để giúp đỡ bà con, không thông qua một tổ chức nào cả”, và
nhấn mạnh “cũng sẽ không tạo ra một tổ chức nào cả”.
Hiên
tượng Thủy Tiên thúc đẩy các nghệ sỹ khác tham gia cứu trợ, như một xu hướng
mới của xã hội dân sự. Hiên tượng này chứng tỏ người dân không còn tin vào các
“cơ quan chức năng” của nhà nước (như Mặt trận Tổ quốc, Hội chữ thập Đỏ), mà
chỉ tin vào các cá nhân nào đáp ứng được nguyện vọng thiện nguyện của họ. Tuy
Thủy Tiên được dư luận chung ủng hộ, nhưng một số khác lại có ý kiến trái
chiều, dựa vào các quy định lỗi thời để ngăn cản.
Thủy
Tiên kiệt sức sau 6 ngày đi cứu trợ liên tục.
Thay
lời kết
Tiếp
theo đại dịch Covid-19, lũ lụt năm nay đang tạo ra “thảm họa kép”, với hiện
tượng La Nina gây mưa lớn kéo dài, làm lũ lụt miền Trung vượt mức báo động 3,
tới mức báo động 4 (là mức nguy hiểm nhất tại Việt Nam). Chủ trương “xã hội
hóa” cho tư nhân làm “thủy điện cóc”, và “phân cấp” cho các tỉnh duyệt cấp
phép, trong khi năng lực quản trị yếu và tham nhũng, đã tạo điều kiện cho các
nhóm lợi ích thao túng, làm quá nhiều “thủy điện cóc”, không chỉ chặn dòng chảy
của các con sông, mà còn phá rừng tự nhiên làm đảo lộn hệ sinh thái.
Để
đảm bảo an ninh năng lượng, Việt Nam cần sản xuất thêm nhiều điện, nhưng không
phải các dự án thủy điện phá hủy môi trường, hay các dự án nhiệt điện gây ô
nhiễm không khí. Đã đến lúc Việt Nam phải phát triển các dự án điện gió và điện
mặt trời để sử dụng năng lượng tái tạo, như các nước khác. Việt Nam cần hợp tác
xây dựng các dự án điện khí hóa lỏng (LNG) như dự án “Chân Mây”. Với kết quả
thăm dò thành công trữ lượng khí rất lớn, chất lượng rất tốt, vị trí thuận lợi
tại “Kèn Bầu” (lô 114), Việt Nam có thể hợp tác phát triển các dự án điện khí
lớn, nhằm “mục tiêu kép” về an ninh năng lượng và địa chiến lược tại Biển Đông.
N.Q.D.
23/10/2020
https://boxitvn.blogspot.com/
https://www.baoquocdan.org/2020/10/nguyen-quang-dy-lu-lut-mien-trung.html?fbclid=IwAR2cXFkG5kITMj-V9C-GyG8EgWm4Qv6Efa_Rx2niMf3Dxra6H1WtytZ72pY