.
Mai Thanh Truyết,
Ph.D. (Danlambao) - Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ
(USEPA) định nghĩa asen là một hóa chất bền vững, tích lũy sinh học và độc hại
có khả năng tích lũy trong không khí, đất và nước. Năm 1961, ô nhiễm asen
lần đầu tiên được phát hiện ở Đài Loan, và sau đó là Bỉ, Hà Lan, Đức, Ý,
Hungary, Bồ Đào Nha, Philippines, Ghana, Mỹ, Chile, Mexico, Argentina và Thái
Lan.
Năm 1992, độc tính của asen được tìm thấy là
một thảm họa ở Tây Bengal, Ấn Độ. Gần đây, vấn đề asen ở Bangladesh đã
nghiêm trọng hơn và ảnh hưởng hơn 23 triệu người vào năm 1997, và con số này đã
tăng lên gần 60 triệu vào năm 2005.
Arsen có nguồn gốc từ đâu?
Các nhà khoa học kết luận rằng sự lắng đọng
của arseno-pyrit sâu trong lòng đất hàng triệu năm đã được tiến sâu vào nước
ngầm và các nguồn nước sông.
Trong công nghiệp, asen được sử dụng như một
hợp kim với các kim loại khác như sắt, đồng, chì, thủy ngân, niken và
coban. Nó cũng được sử dụng như một giải pháp chống vi khuẩn để xử lý gỗ
được sử dụng làm cột điện. Asen tinh khiết không độc hại, nhưng khi được kết
hợp với các hợp chất hóa học khác để tạo thành arsenite (As3 +) và asen (As5
+), nó trở nên rất nguy hiểm.
Sự hấp thụ asen của con người thường xảy ra
thông qua nước và thực phẩm.
Bệnh chết người là do ăn thịt động vật, tôm và
cá sống trong môi trường bị ô nhiễm asen. Đồ nấu bằng sứ chế tạo tại Trung
Quốc cũng có thể gây bệnh do sự có mặt của asen. Những người ở Bangladesh
đã sử dụng nước từ các giếng do UNICEF xây dựng trong một phần tư thế kỷ, vẫn
không biết sự hiện diện tai hại của asen trong nước giếng.
Cho đến năm 1988, Ủy ban Arsen Quốc gia ở
Bangladesh được thành lập để giải quyết các vấn đề liên quan đến hơn 4000 ngôi
làng bị ảnh hưởng. Ngay cả quốc gia này cũng có sự hỗ trợ của UNICEF,
UNDP, UNEP và WB, các vấn đề về asen vẫn còn là một tai họa của thế giới hiện
nay.
Quan điểm về sự ô nhiễm asen trong nước ở Việt
Nam, đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long, đã trở thành hiện thực. Vấn đề
hiện tại là tìm cách cứu người Việt Nam vô tội khỏi nguy hiểm có thể ảnh hưởng
đến hàng triệu người như nó đã xảy ra ở Bangladesh.
Theo truyền thống, người Việt Nam sống ở đồng
bằng sông Cửu Long đã sử dụng nước mưa để uống và nước mặt để sử dụng hàng
ngày. Họ cũng sử dụng borax để điều trị sự có mặt của asen trong nước
bùn. Tuy nhiên, từ những năm 1980, để phòng ngừa bệnh tả, kiết lỵ và các
bệnh nhiễm trùng khác ở ống tiêu hóa do nước mặt bị nhiễm, UNICEF đã hỗ trợ và
khuyến khích khoan trên 357.720 giếng (1999) trên toàn vùng ĐBSCL, mang lại
thảm họa của bộ phim truyền hình của Bangladesh để tái diễn tại Việt Nam.
Để tránh những vấn đề mà Bangladesh đã trải
qua trong nhiều thập kỷ, Việt Nam đã giữ cách thức xử lý asen truyền thống của
họ bằng borax và đun sôi nước mưa trước khi uống. Tuy nhiên, sẽ tốt hơn
nếu người dân có thể sử dụng công nghệ hiện đại như hệ thống khử trùng cực tím
để xử lý nước uống.
Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long gồm các
trầm tích Đệ tứ gồm sét, bột sét, cát bột, cát, sạn và sỏi, đôi khi có đá ong
sét nhẹ. Năm 1998, UNICEF (UNICEF) đã tài trợ nghiên cứu khả năng chống
phèn chống phèn ở đồng bằng sông Cửu Long, nhưng kết quả không đạt yêu cầu và
không có bằng chứng ghi nhận sự hiện diện của asen trong nguồn cung cấp nước
của khu vực này.
Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào cho thấy sự
có mặt của asen trong phèn pyrit ở hai vùng đồng bằng, cùng với việc không có
khám nghiệm về ngộ độc asen trên người Việt Nam. Nhưng do tính chất hóa
học và bằng chứng được thử nghiệm trên thế giới, axit sunfat là pyrit, hầu hết
trong số họ tìm thấy dấu vết của asen trong pyrit với nồng độ khác nhau.
Do đó, danh sách từ arseno-pyrit được sinh
ra. Đặc điểm này mang lại bùn và trầm tích cho đồng bằng trên hợp đồng
cũng như mối tương quan về địa chất và kết cấu đất ở Bangladesh và Việt Nam,
vấn đề ô nhiễm asen cần được nâng cao với tính chắc chắn khoa học hơn.
Ô nhiễm asen ở đồng bằng sông Cửu Long
Người dân vùng ĐBSCL có thói quen sử dụng nước
mưa để uống và nấu ăn, và nước mặt cho sinh hoạt hàng ngày. Sử dụng nước
giếng cũng không được sử dụng rộng rãi ở đây, và ngoài ra, kiến thức về ô
nhiễm asen từ nước ngầm không nhận thức được trong tâm trí của người dân trong
khu vực.
Khi thủy triều lên cao, chúng thu nước từ sông
và chuyển sang thùng chứa gốm gọi là “lu”. Sau đó, nước được xử lý bằng
phèn như borax hoặc sulfate và để yên trong khoảng 24 giờ trước khi sử
dụng.
Đây là một phương pháp đơn giản và rẻ tiền
nhất của việc “thanh lọc” asen ở đồng bằng sông Cửu Long cho thế hệ
trước. Về mặt kỹ thuật, borax và muối sắt (II) được sử dụng để chuyển đổi
arseno-pyrit (As-FeS2) trong bùn của nước sông thành lắng đọng kim loại asen ở
đáy container.
Vào đầu những năm 80, Liên Hiệp Quốc thông qua
UNESCO nhận xét rằng dân số sống ở khu vực này đã bị ảnh hưởng của dịch tả,
tiêu chảy, hoặc kiết lỵ vv ... do sử dụng nước sông trên bề mặt chưa được xử
lý. Để kiềm chế những bệnh trên, những người ủng hộ UNESCO giúp mọi người
đào giếng để lấy nước sạch hơn và tránh bệnh do vi khuẩn gây ra. Cho đến
nay, có hơn 357.720 (dữ liệu được thu thập năm 1999 bởi Parker) các giếng hoạt động
được phát triển ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (hiện tại, vào năm 2017, hơn
500.000 tubewells!)
Và đây là một thảm họa, một kịch bản mới của
Bangladesh đang xảy ra ở Việt Nam.
Đã đến lúc UNICEF xem xét lại chương trình
khoan giếng hiện tại của họ để có những cách thức tốt hơn và an toàn hơn cho
Việt Nam và các nước đang phát triển khác trong tương lai.
Lưu ý: Vui lòng truy cập www.weall.care để
biết thêm chi tiết.
* Tác giả là Chủ tịch Hội Khoa học và Công
nghệ Việt Mỹ - VAST, Chủ tịch Hội bảo vệ môi trường Việt Nam - VEPS