Sunday, April 7, 2024

Ý KIẾN: LÀM THẾ NÀO ĐỂ MỞ KHÓA NĂNG LƯỢNG SẠCH Ở NAM VÀ ĐÔNG NAM Á

(Opinion: How to unlock clean energy in South and Southeast Asia)

Shatanu Srivastava – Bình Yên Đông lược dịch

The Third Pole – March 25, 2024

 

Các turbines gió ở gần Jaisalmer, Ấn Độ ở bìa sa mạc Thar. [Ảnh Jeremy Sutton-Hibbert]

 

Các chánh phủ trong khu vực phải sửa lại những khuôn khổ kiểm soát mù mờ của họ để sử dụng các mô hình tài chánh sáng tạo, nhà phân tích Shantanu Srivastava nói

 

Cả Nam và Đông Nam Á (ĐNA) đều cung cấp những cơ hội đáng kể cho hành động khí hậu toàn cầu, với nhiều chánh phủ đặt tham vọng vào các mục tiêu 0 ròng.  Tiềm năng phát triển thủy điện, điện mặt trời và điện gió có thừa.

Để đạt được những mục tiêu nầy, việc sử dụng năng lượng tái tạo, nhất là điện gió và mặt trời, phải gia tăng 5 lần vào năm 2030.  Đầu tư Á Châu trong năng lượng tái tạo đã gia tăng lũy tiến kể từ năm 2004, với mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 23%, đạt đến 345 tỉ USD trong năm 2022, phần lớn thức đẩy bởi Trung Hoa, chiếm đến 80%.

Mặc dù  sự đa dạng của vùng trong hạ tầng cơ sở, phát triển kỹ nghệ và tài nguyên tài chánh, có nhiều bài học cần được học từ những nỗ lực gây quỹ tư nhân và công cộng thành công ở trong nước lẫn quốc tế.

 

Tài trợ ở trong nước

Đầu tư hạ tầng cơ sở trong các nền kinh tế Nam và ĐNA có truyền thống dựa vào tài trợ công cộng ở trong nước.  Tuy nhiên, các hệ thống tài chánh phần lớn là ngân hàng trong khu vực cho thấy có ít ham muốn để tài trợ các dự án năng lượng tái tạo, thường được xem là rất rủi ro để đầu tư.  Hơn nữa, bản chất ngắn hạn của tài chánh ngân hàng khiến cho nó không thích hợp với các dự án năng lượng lâu dài.

Các nền kinh tế Nam và ĐNA cũng chật vật với không gian tài chánh có giới hạn, với mức nợ nần cao tương đối với thu nhập thuế.  Thí dụ, Bangladesh có một tỉ số thuế đối với GDP chỉ có 8,5% trong tài khóa 2012-22, thấp hơn tỉ lệ được Ngân hàng Thế giới đề nghị là trên 15% để duy trì tăng trưởng.  Để so sánh, tỉ số trung bình của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) đại diện cho 38 nền kinh tế lớn nhất, là 34% trong năm 2022.

Nếu những ngân hàng công ở trong nước xem các dự án tái tạo có rủi ro cao, cũng như các nhà đầu tư tư nhân, vì thế các dự án tái tạo tìm sự giúp đỡ của những diễn viên có thể làm tốt hơn với rủi ro, thường là chánh phủ.  Nhưng ở Myanmar, các nhà phát triển năng lượng tái tạo đối mặt với những chướng ngại trong việc hỗ trợ của chánh phủ, chẳng hạn như bảo đảm chủ quyền hay thỏa thuận chia sẻ rủi ro, cần thiết cho việc bảo đảm đầu tư của họ.  Ngoài ra, các thị trường vốn ở trong nước chưa phát triển hạn chế cơ hội cho những doanh nghiệp địa phương để gây quỹ qua giấy nợ, làm tồi tệ thêm những thách thức trài trợ.

 

Những thách thức tài chánh quốc tế trong các nền kinh tế ít phát triển nhất ở Á Châu

Tài trợ song phương hay đa phương là những nguồn vốn ngoại quốc quan trọng để tài trợ hạ tầng cơ sở trong các nền kinh tế ít phát triển nhất ở Á Châu.  Thí dụ, Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB) tài trợ cho nhà máy điện mặt trời đầu tiên của Cambodia, trong khi những dự án quan trọng ở Lào, kể cả nhà máy điện gió lớn nhất của khu vực, cũng nhận trợ giúp từ ADB, cũng như Ngân hàng Thế giới (WB).  Tương tự, Nepal đã có nhiều cố gắng trong năng lượng tái tạo với những dự án cũng được hỗ trợ bởi WB và các dự án được ADB hỗ trợ.  Tuy nhiên, tùy thuộc nặng nề vào sự hỗ trợ đa phương đã đưa đến nợ nần bên ngoài cao và những thị trường tài chánh chưa phát triển ở trong nước.

Tài chánh tư nhân quốc tế cũng đóng một vai trò đáng kể, nhất là ở Lào, nơi đa số các dự án hạ tầng cơ sở được thực hiện bởi các thực thể quốc tế.  Tuy nhiên, đầu tư tư nhân hải ngoại vẫn thận trọng trong việc đầu tư trong các thị trường Á Châu mới nổi lên do việc chuyển chánh sách tiềm tàng và những khuôn khổ kiểm soát không tin cậy.

Những tiến trình chấp thuận mất thì giờ, các thủ tục mù mờ và trĩ hoãn, chẳng hạn như đã xảy ra ở Lào và Bangladesh, làm cản trở đầu tư.  Cũng thế, việc thực hiện bị trì hoãn của thuế khuyến khích năng lượng tái tạo (feed-in-tariff) ở Việt Nam đã làm chậm các dự án năng lượng tái tạo.  Những thách thức cũng kéo dài trong việc bảo đảm rằng các nhà máy năng lượng tái tạo có khả năng chuyển giao điện.  Ở Myanamr, một lưới điện hạn chế và lỗi thời, dựa vào những đường dây 230 kV nhỏ hơn, đưa đến mất mát đáng kể với những khoảng đường xa.  Các kế hoạch cho đường dây 500 kV nối Yangon và Mandalay đã có tiến bộ hạn chế vì địa thế lồi lõm và hạ tầng cơ sở lưới điện không thích hợp.

 

Nâng cao thị trường năng lượng tái tạo ở Nam và ĐNA

Hai quốc gia, Ấn Độ và Malaysia, nổi bật về tổ chức tiêu chuẩn hóa và đấu giá năng lượng tái tạo minh bạch.  Những sáng kiến nầy đã nâng cao sự tin tưởng đầu tư qua gia tăng minh bạch và chánh sách trước sau như một, thu hút vốn.  Ngược lại với điều nầy là loan báo của Indonesia về một kế hoạch thuế dựa trên đấu giá cạnh tranh, đã đối mặt với những trở ngại vì tính phức tạp của việc kiểm soát và những thay đổi pháp lý thường xuyên, nhất là trong việc sản xuất năng lượng mặt trời quang điện.  Và ở Myanmar và Bangladesh, thiếu các tiến trình cạnh tranh hay thỏa thuận mua điện tiêu chuẩn hóa (PPAs) cho năng lượng tái tạo, làm nãn lòng đầu tư ngoại quốc, thích minh bạch và tính có thể đoán trước.

Một tiến trình mua bán được thiết kế hoàn hảo có thể giảm rủi ro cho những nhà đầu tư vào hạ tầng cơ sở năng lượng tái tạo.  Thí dụ, Ấn Độ đã thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư trong thành phần điện mặt trời bằng cách thúc đẩy Tổ hợp Năng lượng Mặt trời Ấn Độ (Solar Energy Corporation of India (SECI)), như một trung gian với mức tín dụng cao hơn các hội đồng điện cấp nhà nước.  Sự hiện diện của SECI như người bảo đảm nâng cao sự tin tưởng của nhà đầu tư trong khả năng trả nợ, do đó hạ thấp rủi ro đầu tư.  Mô hình mua bán tập trung nầy tùy theo mức tín dụng vững chắc của thực thể, một trở ngại đối mặt bởi các công ty phân phối của nhà nước như Perusahaan Negara ở Indonesia và Hội đồng Phát triển Điện lực Bangladesh.  Tài chánh giới hạn, họ không thể làm tròn vai trò trung gian mà SECI ở Ấn Độ đã làm.

Một cách khác để nới rộng thị trường cho điện tái tạo là cho phép những khách hàng kỹ nghệ và thương mại lớn mua điện trực tiếp từ các nhà máy điện, đi vòng qua các trung gian của nhà nước.  Philippines và Malaysia đã chấp thuận đường lối nầy, khuyến khích việc phát triển các nhà máy năng lượng tái tạo của kỹ nghệ tư nhân.  Tuy nhiên, Việt Nam hiện đang thiếu những khuyến khích như thế.

 

Vẫn còn nhiều việc để làm, nhưng thành tựu nằm trong tầm tay

Ưu thế của thành phần ngân hàng ở Nam và ĐNA nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc đề cập cấu trúc của ngân hàng để tài trợ có hiệu quả các dự án năng lượng tái tạo.

Một đường lối là thiết lập những nhà chuyên cho vay, như các Công ty Tài chánh Không phải Ngân hàng (NBFCs) chuyên về lãnh vực then chốt.  NBFCs chú trọng đến thành phần điện đóng một vai trò đáng kể, với 6 NBFCs quan trọng nơi rộng 1.500 tỉ INR (18 tỉ USD) trong việc tài trợ cho thành phần tái tạo trong năm 2023.  Quan trọng nhất, những người chuyên cho vay nầy có thể cung cấp nơ dài hạn hơn các ngân hàng, giải quyết một đòi hỏi then chốt của thành phần hạ tầng cơ sở.  Bangladesh cũng có Công ty Phát triển Hạ tầng cơ sở (IDCOL), một tổ chức tài chánh không phải ngân hàng quốc doanh để tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo.  Ngân hàng NMB của Nepal đã đi một bước xa hơn và đã bảo đảm một khoản nợ xanh 25 triệu USD từ Tổ hợp Tài chánh Quốc tế (IFC).

Để có ảnh hưởng lớn hơn. các chánh phủ cần vận dụng tài chánh công để khuyến khích đầu tư vốn tư nhân, thường có hoàn trả cao hơn đơn giản dùng tài trợ công để xây hạ tầng cơ sở.

Thành công của Kế hoạch Tài chánh Kỹ thuật Xanh (GTFS) của Malaysia – cung cấp trợ cấp cho vay cho các dự án tái tạo – là một bài học.  Từ năm 2010 đến 2017, 28 tổ chức tài chánh hỗ trợ 319 kế hoạch qua GTFS, trị giá tổng cộng 1,6 tỉ USD, với kết quả là hoàn tất các dự án sản xuất 532,9 MWh điện mỗi năm.  Vào tháng 3 năm 2019, Bộ Tài chánh chấp thuận một kế hoạch cập nhất, GTFS 2.0, cung cấp trợ cấp tiền lời 2% mỗi năm cho 7 năm đầu cho các nhà phát triển dự án, với chánh phủ cung cấp bảo đảm 60% tài chánh của dự án.

Khi nhu cầu của năng lượng tái tạo tiếp tục thúc đẩy sáng tạo trong khu vực, những thí dụ như thế sẽ trở nên phổ biến hơn.  Tuy nhiên, những câu chuyện thành công đã có đủ cho nhiều quốc gia học hỏi và hành động để tài trợ cho tương lai tái tạo của họ một cách không chậm trễ.

No comments:

Post a Comment