(Asia’s Troubled River: Dam(n)ing or Managing the Mekong?)
Frederic Kliem – Bình Yên Đông lược dịch
Journal of Greater Mekong Studies – February 2020
Chừng nào mà chu kỳ thủy học tự nhiên vẫn vận hành, sông nước
ngọt hầu như là một nguồn vô tận. Những
con sông được kết hợp đặc biệt với các hoạt động sinh thái và kinh tế trong lục
địa Đông Nam Á (ĐNA). Sông Mekong và hệ thống phụ lưu của nó là một thành phần
quan trọng đối với an ninh lương thực, năng lượng và kinh tế của khu vực. Nhưng không may, những thủy đạo của Mekong đã
trở thành một chủ đề của sự can thiệp chánh trị tiềm tàng khi chúng xuyên qua
nhiều biên giới quốc gia và nằm dưới sự kiểm soát trên thực tế của Trung Hoa
trong đó nguồn của hệ thống sông nằm ở đó.
Bài viết nầy tìm cách làm nổi bật những rủi ro của việc phát
triển thủy điện chi phối của Trung Hoa dọc theo Mekong và những chi nhánh sinh
thái, kinh tế, và địa chánh trị của nó.
Đề nghị rằng cái cần đến là việc quản lý hợp lý và khả chấp của Mekong
và một bộ quy tắc có tính ràng buộc.
Điều nầy chỉ có thể được thực hiện với sự giúp đỡ của các cơ chế hiện
hữu và ASEAN để thiết lập một kiến rúc quản lý lưu vực sông được tổ chức hóa và
để khuyến khích hợp tác chánh sách liên cơ quan và cộng hưởng tổ chức.
Sự xác nhận Trung Hoa như một đại cường đang lên của Á Châu
đã trở thành một trong những vấn đề quan trọng nhất trong chánh trị toàn
cầu. Liệu sự trỗi dậy của Trung Hoa sẽ
làm xáo trộn hay giúp cho trật tự khu vực hiện nay sẽ là yếu tố quyết định
trong việc xác định liệu khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương đang đi đến một thời kỳ
mất ổn định và xung đột. Ngoài Sáng kiến
Vành đai và Con đường (BRI) và những tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, Mekong đã
trở nên một chỉ dấu vô cùng quan trọng của việc làm thế nào Trung Hoa sẽ thực
hiện liên hệ với các quốc gia láng giềng.
Hậu quả là, nguồn cung cấp nước ngọt cho Đông Dương đã bị chánh trị hóa
cao độ. Các quốc gia ĐNA nhỏ hơn chưa
thể chịu được ảnh hưởng của ảnh hưởng gia tăng của Trung Hoa mặc dù được quân
đội Hoa Kỳ, dòng đầu tư ngoại quốc, và hỗ trợ ngoại giao và pháp lý quốc tế hậu
thuẫn.
Con sông dài nhất ĐNA, Mekong, chảy qua 6 quốc gia. Nó gồm có thượng lưu vực (Trung Hoa và
Myanmar) và hạ lưu vực (Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam). Bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, nó chảy
trên 4.500 km từ miền nam Trung Hoa đến đồng bằng ở Việt Nam, nơi nó đổ ra Biển
Đông. Dọc theo đường đi, Mekong đi qua 5
quốc gia ASEAN và được nuôi dưỡng và nuôi dưỡng một số phụ lưu. Người Thái gọi sông là, Mae Nam Khong, đã được diễn tả gần đúng thành “Mekong” và có nghĩa
là “Mẹ của Nước,” biểu tượng cho tầm quan trọng của nó. Mùa lũ vô cùng quan trọng đối với tính khả
chấp của môi trường và hoạt đọng nông nghiệp trong hạ lưu vực. Trong mùa khô, tuyết tan từ Trung Hoa đóng
góp khoảng ¼ tổng số dòng chảy. Trong
mùa mưa, sông làm ngập những vùng đất ngập nước của nhiều vùng và hỗ trợ một
mức đa dạng sinh học đứng thứ 2nd sau Amazon. Nơi cư trú đất ngập nước dựa vào ngập lụt
trong mùa mưa như đời sống ở dưới nước di cư giữa các hồ, chẳng hạn như Tonle
Sap ở Cambodia, trong mùa khô và những vùng giàu chất dinh dưỡng trong các đồng
lụt ngập nước trong mùa mưa.1
Mekong là một hệ sinh thái đặc thù hỗ trợ không chỉ đời sống hoang dã tự
nhiên mà còn đời sống của khoảng 60 triệu người sinh sống và điều hành những
đường mậu dịch quan trọng.
Ở Cambodia, thủy sản nước ngọt chiếm đến 12% tổng sản lượng
quốc gia và là cơ sở cho an ninh lương thực, chiếm gần 2/3 chất đạm do người
Cambodia tiêu thụ.2 Hồ lớn
nhất ở ĐNA, Tonle Sap, được nuôi dưỡng bởi Mekong và là nguồn cá chánh yếu của
Cambodia từ thời Vương quốc Angkor.
Trong mùa khô [mưa] hồ rộng gấp 4 lần khi nước tràn vào hồ khi sông
Tonle Sap đảo ngược dòng chảy. Mekong có
trách nhiệm cho hiện tượng sinh thái đặc thù của phụ lưu thay đổi chiều chảy
mỗi 6 tháng. Những điều chỉnh nhân tạo ở
thượng lưu vực đe dọa tiến trình sinh thái nầy và đã ảnh hưởng không thể đảo
ngược hệ sinh thái phức tạp và vô cùng quan trọng nầy.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có tầm quan trọng tương tự
cho thành phần nông nghiệp dựa vào lúa của Việt Nam. Gần 80% của tất cả đất có thể canh tác được
dùng để trồng lúa, cung cấp ½ tổng số calorie tiêu thụ ở trong nước. ĐBSCL cũng có trách nhiệm cho tình trạng của
quốc gia sản xuất lúa đứng hàng thứ 5th trên thế giới và vị trí
trong 5 quốc gia xuất cảng lúa hàng đầu.3
Các đập của
Trung Hoa: may mắn hay tai họa
Khoảng ½ của Mekong nằm trong lãnh thổ Trung Hoa, nơi sông
được gọi là Lancang. Ở đây, nó hạ thấp
trên 4.000 m chiều cao từ cao nguyên Tây Tạng đến tỉnh Vân Nam, khiến nó là nơi
lý tưởng cho thủy điện. Trong 2 thập
niên qua, chánh phủ Trung Hoa hoặc trực tiếp xây cất hoặc tài trợ một số đập
thủy điện đại qui mô dọc theo dòng chánh Mekong và các phụ lưu ở Trung Hoa,
Lào, Cambodia và Thái Lan. Tám siêu đập
đã được hoàn tất chỉ trên dòng chánh ở Trung Hoa và trên 20 đập đang được xây
cất hay trong các giai đoạn quy hoạch.
Lào và Cambodia sắp trở nên đông đúc hạ tầng cơ sở thủy điện.
Việc xây cất là một con dao 2 lưỡi. Phát triển thủy điện cung cấp tiềm năng phát
triển đáng kể cho những quốc gia nghèo hơn.
Các chánh phủ muốn tư bản hóa vị trí địa dư của họ dọc theo hệ thống
sông. Những quốc gia nầy có thể đáp ứng
nhu cầu năng lượng của chính họ với thủy điện tương đối rẻ trong khi xuất cảng
điện thặng dư. Lào, thí dụ, có ý định
trở thành “bình điện của ĐNA” như một phương tiện để phát triển kinh tế nhảy
vọt. Các dự án sản xuất năng lượng là
nguồn đầu tư ngoại quốc trực tiếp lớn nhất ở Lào, với Trung Hoa là quốc gia
đóng góp chánh.4 Ở Cambodia,
các tổ hợp quốc doanh Trung Hoa đang đầu tư mạnh mẽ vào thủy điện như đập Hạ
Sesan 2 minh họa. Dự án được tiến hành
mặc dù có những lo ngại môi trường và xã hội.
Nhu cầu năng lượng trên khắp Á Châu đang gia tăng cũng như sự
cần thiết cho những nguồn năng lượng tái tạo để thay thế nhiên liệu hóa
thạch. Trung Hoa là quốc gia hàng đầu
trên thế giới trong việc sản xuất điện tái tạo và có lẽ bành trướng việc cầm
đầu nầy trong trung hạn. Thủy điện đã là
thành phần lớn nhất của hồ sơ năng lượng tái tạo của Trung Hoa và nguồn lớn
nhất của năng lượng sau than đá. Đầu tư
vào thủy điện và kết quả là sự tăng tốc trong phát triển kinh tế là những
nguyên nhân đáng khen ngợi khi nhu cầu năng lượng gia tăng và ảnh hưởng của
thay đổi khí hậu trở nên rõ rệt hơn, mặc dù có nhiều câu hỏi về việc tài trợ
không rõ ràng.
Tuy nhiên, những tích cực như thế được bù trừ bởi vô số bằng
chứng của ảnh hưởng sinh thái và xã hội-kinh tế tiêu cực đáng kể của các đập
Mekong. Việc xây đập nêu lên câu hỏi
liên quan đến an ninh lương thực và môi trường trong tương lai cũng như những
thách thức cho các cộng đồng đánh cá nếu số cá biến mất. Theo các NGOs môi trường, các dự án đập lớn
đã có ảnh hưởng dây chuyền tai hại, ảnh hưởng đến đời sống hoang dã, thay đổi
thể thức dòng chảy và vận chuyển phù sa, gây sạt lở bờ, và gia tăng xâm nhập của
nước mặn vào đất canh tác.5
Ngoài những thách thức sinh thái và xã hội, việc xây đập cũng
tạo ra thách thức chánh trị. Những hậu
quả vô tình gồm có ảnh hưởng có được đối với những quốc gia nhận tiền do số
lượng lớn lao của FDI được cung cấp cũng như khả năng tiềm tàng của quốc gia ở
trên cùng thượng lưu, Trung Hoa, để kiểm soát dòng chảy xuống các quốc gia
duyên hà ở hạ lưu. Các dự án thủy điện
của Trung Hoa đã có ảnh hưởng trực tiếp đối với phẩm và lượng của dòng nước
sông đến lục địa ĐNA. Beijing trên thực
tế có tiềm năng để sử dụng vị trí chi phối trên Mekong như một khí cụ thương
lượng ngoại giao và chánh trị và tạo áp lực lên các quốc gia duyên hà ở hạ lưu.6 Các đập thủy điện đang được xây cất hay tài
trợ ở Lào và Cambodia cộng thêm vào hộp dụng cụ ngoại giao của Trung Hoa, trong
khi một vài dự án đập được đặt ở vị trí chiến lược có tiềm năng cô lập Việt Nam
và hạn chế lớn lao nguồn cung cấp nước ngọt của nước nầy.
Việt Nam nằm ở dưới cùng của Mekong, khi sông chảy đến đồng
bằng. Ở miền nam Việt Nam, những hậu quả
sinh thái và kinh tế-xã hội của việc vận dụng thủy đạo nghiêm trọng nhất về mặt
chi phí xã hội và kinh tế. Những nhà làm
chánh sách và ngoại giao ở Hà Nội lo sợ nhất là ngoại giao nước tiềm tàng của
Beijing biết rõ tính dễ tổn thương chánh trị của Hà Nội. Trong năm 2016, hàng triệu người dân ở hạ lưu
vực bị ảnh hưởng của trận hạn hán tồi tệ nhất ở ĐNA trong nhiều năm. Mực nước thấp khác thường của Mekong gây ra
tình trạng thiếu nước ngọt. Nguồn cung
cấp giới hạn đã có ảnh hưởng tàn phá đối với nông nghiệp lúa, nhất là ở Việt
Nam, vì đồng bằng cạn kiệt trở nên mặn hóa tử Biển Đông. Ở Cambodia, mực nước thấp trong sông Mekong
cũng được cảm nhận vì mực nước của hồ Tonle Sap xuống thấp nhất trong 50 năm.
Beijing nhanh chóng đổ cho hiện tượng thời tiết El Niño,
nhưng để đáp ứng một yêu cầu khẩn thiết từ Hà Nội, họ đồng ý giúp làm giảm tình
trạng thiếu nước. Dưới danh nghĩa
“ngoạii giao nước” nhân từ, Beijing loan báo họ sẽ xả một lưu lượng lớn lao
nước xuống hạ lưu từ đập thủy điện Jinghong
(Cảnh Hồng). Bộ Ngoại giao Trung Hoa
tuyên bố rằng “Trung Hoa và các quốc gia sông Mekong trên Bán đảo Đông Dương là
những láng giềng thân hữu […] được nuôi dưỡng bởi cùng một dòng sông. Họ tiếp tục mà không nói rằng bạn bè phải
giúp lẫn nhau khi cần được giúp đỡ.”7 Một câu nói thay thế, tuy nhiên, rằng việc
nầy làm nổi bật rằng việc xả nước không gây tốn kém cho Beijing, trong khi chỉ
giảm nhẹ một tai họa sinh thái mà ít nhất gây ra một phần bởi việc xây đập của
Beijing từ lúc đầu.8 Quan
trọng nhất, nó nhắc nhở Hà Nội bao nhiêu
ảnh hưởng mà Beijing có đối với an ninh của Việt Nam. Mặc dù không công bằng để cáo buộc những động
lực hoàn toàn ở bên trong, việc xả nước từ đập Jinghong tuy thế nhấn mạnh sức
mạnh của Beijing đối với nguồn nước cùng chia sẻ biên giới và là một nhắc nhở
đến phạm vi mà các quốc gia duyên hà ở hạ lưu lệ thuộc vào lòng tốt của Trung
Hoa.
Quản lý
Mekong
An ninh nguồn nước là một nguồn vô cùng quan trọng của tăng
trưởng kinh tế khả chấp và những xung đột liên quan đến nước. Quản lý đa phương hợp lý của Mekong vô cùng
quan trọng ít nhất vì 2 lý do. Thứ nhất,
tương lai của khu vực có lẽ được xác định bởi kỹ nghệ hóa, tiêu thụ, ô nhiễm,
khan hiếm tài nguyên, và những thay đổi môi trường không thể đoán trước lớn
hơn. Thứ nhì, các dự án đập thủy điện
trên Mekong cộng thêm vào ưu thế sức mạnh đã có của Trung Hoa khi nói đến những
láng giềng ĐNA của họ.
Các cơ chế hiện hữu gồm có Ủy hội Sông Mekong (MRC), được
thành lập vào năm 1995. Nó nhắm để phát
triển khả chấp Mekong trên căn bản của Thỏa ước Mekong bằng cách quy định trách
nhiệm của các quốc gia duyên hà và những quy tắc để sử dụng Lưu vực sông Mekong. Nhưng MRC thiếu các cơ chế có hiệu quả và
những khí cụ pháp lý để thi hành Thỏa ước Mekong và để giải quyết sự lệ thuộc
vào tài trợ của MRC. Tương tự, Phân vùng
Mekong và Phụ cận (GMS), được thành lập năm 1992 với sự hỗ trợ của Ngân hàng
Phát triển Á Châu (ADB), một cơ chế hợp tác khu vực thiếu các quy tắc và quy
định ràng buộc có thể được tuân thủ, trong khi hoàn toàn dựa vào ý chí chánh
trị của các quốc gia duyên hà.
Quan trọng nhất là Hợp tác Lancang-Mekong (LMC), được phát
động trong năm 2015. LMC là một trong
những khí cụ then chốt của ngoại giao láng giềng của Trung Hoa vì nó tăng cường
thêm sự hiện diện và ảnh hưởng của Trung Hoa trong khu vực Mekong. Các cơ chế quốc tế gồm có Sáng kiến Hạ lưu
Mekong (LMI) do Hoa Kỳ khởi động cũng như Chương trình Hợp tác Khu vực
Mekong-Nhật Bản.
Vấn đề chánh của kiến trúc quản lý Mekong hiện nay là thiếu
những cơ chế ràng buộc và thiếu hợp tác chánh sách liên cơ quan và cộng hưởng
tổ chức. Kết quả là, điều cần thiết tối
hậu mà những bên liên hệ có liên can là cần hợp tác chặt chẽ hơn để phát triển
một chiến lược phát triển chung toàn lưu vực Mekong. Chiến lược nầy phải gồm có một bộ quy tắc cho
việc phát triển thủy điện cũng như một chiến lược năng lượng thay thế để làm
giảm ảnh hưởng tai hại của việc xây đập thủy điện. Hơn nữa, ASEAN cần đóng một vai trò trong
tiến trình nầy. Trong năm 2010, Văn
phòng ASEAN và Văn phòng MRC ký một thỏa thuận để tăng cường sự hợp tác của
họ. Tuy thế, không có nhiều điều đã xảy
ra từ lúc đó. Nhưng, ASEAN là một tổ
chức quốc tế duy nhất có tiềm năng để thương thảo nhũng hướng dẫn cho lợi ích
của các quốc gia duyên hà nhỏ ở hạ lưu đối với Trung Hoa.
Như là bước đầu, Trung Hoa và các quốc gia MRC phải đồng ý về
Biên bản Ghi nhớ để cung cấp những hướng dẫn cho việc quản lý Mekong. Việc nầy phải được tiếp tục trong bước thứ
hai để soạn ra một sách quy tắc để xử lý Mekong để cắt bớt sức mạnh độc đoán và
bất cân xứng có thể nắm lấy bởi Trung Hoa như quốc gia ở thượng lưu trên
cùng. Nhà phân tích chánh sách công cộng
Cambodia Vannarith Chheang ám chỉ sách nầy như một Cẩm nang Hành động cho sông
Mekong.9 Có sự cần thiết rõ
ràng cho những hướng dẫn ràng buộc pháp lý như thế.
Hoàn tất những mục tiêu nầy cần đến sự hợp tác của ASEAN và
MRC trên một mặt và LMC của Trung Hoa trên mặt kia. Có thể Trung Hoa có thể đồng ý với sự hợp tác
như thế. Bên trên những tranh chấp lãnh
thổ ở Biển Đông, Trung Hoa nay đang gặp rủi ro phản đối khu vực rộng thêm, có
thể tạo nên một đồng minh để chống lại ảnh hưởng khu vực đang gia tăng hơn bao
giờ của nước nầy. Hợp tác đối với Mekong
chung đại diện một cơ hội lớn cho Beijing để làm tốt những hứa hẹn của họ cho
một “cộng đồng có chung số phận.” Beijing
cũng có quyền lợi nguyên thủy trong phúc lợi kinh tế và sinh thái của khu
vực. Hợp tác LMC-MRC-ASEAN có thể hoạt
động như một diễn đàn Track I tổng thể và đa phương. Cũng có chỗ cho những sáng kiến Track II chú
trọng đến nghiên cứu và cung cấp nhập kiện khoa học, thông tin những quyết định
ràng buộc ở mức Track I. Việc hợp tác tổ
chức hóa nhiều bên liên hệ như thế đại diện một con đường hứa hẹn nhất cho một
Phân vùng Mekong ổn định.
Chú thich
1
Ian Campbell, “Biodiversity of
the Mekong Delta,” in The Mekong Delta
Systems, ed. Febrice G. Renaud and Claudia Kuenzer (Dordrecht: Springer
Science. 2012) page citation needed
2
Food and Agriculture
Organization of the UN, “Fishery and Aquaculture Country Profiles: The Kingdom
of Cambodia,” http://www.fao.org/fishery/facp/KHM/en
3
The World Bank, “The World Bank
In Vietnam,” https://www.worldbank.org/en/country/vietnam;
Ricepedia: Country Profile Vietnam, http://ricepedia.org/vietnam
4
Laos Ministry of Planning and
Investment, Investment Promotion Department 2018: Statistics, http://www.investlaos.gov.la/index.php/resources/statistics
5
International Rivers: Mekong
Mainstream Dams, https://www.internationalrivers.org/campaigns/mekong-mainstream-dams
6
Brahma Chellany, Water: Asia’s New Battleground,
(Washington, D.C.: Georgetown University Press), p. 130.
7
Ministry of Foreign Affairs of
the People’s Republic of China, Foreign Ministry Spokesperson Lu Kang’s Regular
Press Conference on March 15, 2016; http://mprc.gov.cn/mfa_eng/xwfw_665399/s2510_665401/2511_665403/t1347923.shtml
8
Associated Press, “Chinese dams
blamed for exacerbating Southeast Asian drought,” South China Morning Post, April 2, 2016. https://www.scmp.com/news/asia/southeast-asia/article/1932944/chinese-dams-blamed-exacerbating-southeast-asian-drought
9
Vannarith Chheang, “Water
Resource Security in Mainland Southeast Asia: Challenges and Solutions,” in ASEAN Security Connectivity. Regional
Solutions to Regional Security Challenges, ed. Frederick Kliem (Singapore:
Konrad-Adenauer-Stiftung, 2019), p. 80.
No comments:
Post a Comment