Tôi
đọc bài viết “Đê bao đồng bằng sông Cửu Long không sai lầm vĩ đại như tác giả đảng
xanh đã phán” của nhà báo Lê Phú Khải. Ông là nhà báo, nhà văn lăn lộn nhiều năm với
thực tế, có nguồn tư liệu rất phong phú để viết những cuốn sách và bài báo về
con người và cuộc sống của người dân Nam bộ.
Tôi
cũng đã đọc nhiều ý kiến phản biện, tôn trọng lắng nghe ý kiến đa chiều, xin
nói rõ thêm, những vấn đề sau đây: Tháng 10 năm 1996, sau gần chục năm làm việc
ở nước ngoài, tôi về nước làm việc, được Bộ NN & PTNT giao cho làm chủ nhiệm
dự án kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL). Việc đầu tiên, tôi tập trung nghiên cứu Quyết định 99/TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 9/2/1996. Đây là chủ trương đúng đắn được sự đồng thuận
cao của các cấp, các ngành và nguyện vọng của người dân. Để cập nhật các thông
tin tư liệu, đi sâu tiến công vào vùng lũ, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung các
tác động từ phía thượng lưu và ảnh hưởng của xâm nhập mặn trong dự án Quy hoạch
kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu Long.
Trước đó, tỉnh Kiên Giang nhiều đất đai bị bỏ
hoang đã cho công ty Kiên Tài (Đài Loan) thuê 40 nghìn ha đất rừng tràm. Khi
làm quy hoạch, bị vướng hướng thoát lũ do công ty làm các bờ bao khép kín.
Nhùng nhằng rất lâu vì phía Việt Nam muốn thu lại đất nhưng đền bù không thỏa
đáng. Tôi nhớ, hồi đó ông Võ Văn Kiệt phone gọi tôi ra Hà Nội thảo luận tại Văn
phòng chính phủ. Cuộc họp chỉ có 4 người ông Võ Văn Kiệt, Phó Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng và Anh Vũ Đức Đam trợ lý của ông Kiệt. Trước khi ra Hà Nội, tôi đã thảo
luận với chuyên gia của Phân viện Quy hoạch thiết kế nông nghiệp và Phân viện
điều tra quy hoạch rừng để thống nhất phương án hợp lý, hợp tình trình Chính phủ.
Sau đó, công ty Kiên Tài đã trao trả lại đất cho tỉnh Kiên Giang.Quy hoạch kiểm
sóat lũ đồng bằng sông Cửu Long được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1999.
Trong quy hoạch nói rõ chỉ tập trung phát triển 2 vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu,
không khuyến khích làm vụ 3 vì nhiều rủi ro do lũ về và đất cũng như người nếu
khai thác quanh năm sẽ dễ kiệt quệ, làm đê bao sẽ không lấy được phù sa, vệ
sinh đồng ruộng vv…Nói cho công bằng, lúa vụ 3 (còn gọi thu Đông) cũng là phát
kiến của người dân từ thập niên 80 nhưng chỉ làm ở những nơi chủ động được công
tác thủy nông.
Nhờ
Quyết định 99TTg và dự án quy hoạch kiểm soát lũ, hệ thống thủy lợi, giao thông được hình thành
đã làm thay đổi to lớn bộ mặt kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt
vùng tứ giác Long Xuyên. ĐBSCL chỉ chiếm 5% diện tích lưu vực sông Mê Công
nhưng hàng năm phải hứng chịu toàn bộ lượng nước lũ hơn 400 tỷ m3 từ thượng lưu
đổ về để thoát ra biển Đông và một phần ra biển Tây. Lũ ở ĐBSCL ngoài việc mang
lại nguồn lợi phù sa, thuỷ sản, vệ sinh đồng ruộng, nhưng gặp những năm lũ lớn
như 1996, 2000 đã gây ra tổn thất hàng trăm nhân mạng và phá huỷ các cơ sở hạ tầng.
Để kiểm soát lũ ĐBSCL không thể tách rời với các chương trình phòng tránh lũ của
các nước ở thượng lưu. Ngoài các biện pháp phi công trình như dự báo lũ, thay đổi
cơ cấu cây trồng vật nuôi, ĐBSCL đã có các biện pháp công trình kiểm soát lũ
như làm đê bao, bờ bao và hệ thống cống điều tiết lũ. Có thể hiểu đê bao là những
đường, đê được xây dựng vững chắc cao hơn mực nước lũ thiết kế nào đó (chẳng hạn
mực nước đỉnh lũ năm 2000) để sao cho ở các trận lũ lớn nước không tràn qua.
Đê
bao thường sử dụng để bảo vệ các khu dân cư tập trung, các khu thị trấn, thị tứ,
các khu công nghiệp tập trung và các vùng chuyên canh trồng cây ăn trái. Còn bờ
bao là các đường bờ tạm thời với độ cao không vượt quá mực nước lũ tháng tám để
khi thu họach xong lúa hè thu thì cho nước lũ tràn vào để lấy phù sa, thêm nguồn
thủy sản, thau chua rửa phèn và vệ sinh đồng ruộng. Cho đến nay người dân Đồng
bằng đã quen với mùa nước nổi và trong phương châm qui họach, từ Nhà nước tới
nhân dân đều đồng tình phải sống chung với lũ, bảo vệ con người và tài sản, né
tránh các mặt hại và tận dụng các mặt lợi do lũ mang lại. Đê bao, bờ bao cũng nằm
trong các phương châm đó.Đồng bằng sông Cửu Long vừa chịu các tác động của các
họat động phát triển ở thượng lưu làm thay đổi chế độ dòng chảy, vừa phải chịu
biến đổi của khí hậu gây nên các biến đổi trên biển như nước dâng, xâm nhập mặn,
ô nhiễm nước biển do đất liền và khai thác ngòai biển..
Một
số các họat động ở thượng lưu có thể gây ra biến đổi dòng chảy đã được nhắc tới
trong các báo cáo của các nhà nghiên thuộc đòan JICA của Nhật Bản như: xây dựng
các đập thủy điện Manwan, Dachaosan ở Trung quốc, mở rộng các nhà máy thủy điện Nam ngum, Huay
Ho, Nam Leuk ở Lào, mở rộng phát triển
nông nghiệp ở Nong Khai, Nakong Phanom, Mukdakhan, Ubon ở Tháilan,... Hồ Tonle
Sap ở Căm pu chia có vai trò đặc biệt quan trọng trong điều tiết cả dòng chảy
mùa lũ và mùa cạn đối với Đồng bằng. Về mùa lũ , Biển hồ như vùng trữ nước tạo
nên vùng đệm giữ nước làm giảm ngập lụt, và về mùa cạn xả thêm nước xuống Đồng
bằng góp phần giảm xâm nhập mặn. Một ví dụ về vai trò điều tiết của hồ Tonle
Sap là trận lũ 2000, do có hai đỉnh lũ và với đỉnh thứ nhất hồ đã đầy, đến khi
xẩy ra đỉnh thứ hai hồ không còn chỗ chứa, tòan bộ nước lũ từ thượng lưu chảy hết
về Đồng bằng gây ra trận lũ lịch sử như chúng ta đã biết. Từ đó một câu hỏi được
đặt ra là điều gì sẽ xẩy ra cho Đồng bằng nếu chế độ dòng chảy ở thượng lưu
cũng như hồ Tonle Sap thay đổi do các họat
động phát triển. Trên thực tế đã có một số dự án, chẳng hạn dự án quy họach lũ
châu thổ sông Mê kông do Hàn quốc tài trợ qua Ủy hội sông Mê kông, nghiên cứu về
sự thay đổi chế độ dòng chảy khi mở các đường thóat lũ ở phía bắc sông Mê kông
trên đất Căm pu chia xuất phát từ Kompong Cham tới hồ Tonle Sap, đường thóat lũ
(có thể lấy nước phát triển thủy lợi) từ Niek Lương tới đầu sông Vàm Cỏ, đường
thóat lũ từ Cămpuchia qua giữa Đồng Tháp Mười tới sông Tiền. Những tính tóan thủy
lực cho thấy mực nước lũ tại Cần Thơ có thể cao hơn gần một mét.Từ những phân
tích trên, để thích ứng với sự biến đổi do các họat động phát triển ở thượng
lưu, sự biến đổi do thay đổi khí hậu tòan cầu, và chủ động phát triển bền vững cho Đồng bằng cần phải có các chiến lược khôn
khéo, mà đê bao và bờ bao là một trong các chiến lược đó. Phải bảo vệ triệt để
các khu dân cư tập trung, các khu công nghiệp, đồng thời phải lợi dụng được lũ
lấy phù sa, tăng nguồn thủy sản, vệ sinh đồng ruộng. Đê bao nhằm bảo vệ các khu
dân cư, công nghiệp, còn bờ bao chỉ bảo vệ lúa hè thu cho tới tháng tám lại cho
nước lũ vào đồng lấy phù sa và vệ sinh đồng ruộng. Đó là một chiến lược khôn
khéo vừa phù hợp với chiến lược chung của cả lưu vực vừa đáp ứng được yêu cầu bảo
vệ dân sinh, phát triển sản xuất đặc biệt là cây lúa trong vùng ngập lũ. Tuy
nhiên, từ thực tế của các vùng bao triệt để như Chợ mới, vùng Thọai sơn của An giang
cũng vẫn phải có hệ thống cống để điều tiết lũ. Những năm đầu trồng lúa cho sản
lượng cao nhưng nhưng giảm dần do đất không có phù sa bồi bổ. Vì thế, tỉnh và
huyện đã có chương trình rất khôn ngoan là đa dạng hoá cây trồng vật nuôi, kết
hợp mở cống lấy phù sa, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo chứ không phải chỉ
riêng cho trồng lúa.
Đối
với vùng Đồng Tháp Mười, các nhà nghiên cứu Nhật bản trong đòan Jica khuyên rằng
nên có sự luân phiên trong canh tác để có thể cho đất có thời ký “nghỉ” và cho
lũ vào lấy phù sa tăng độ phì cho đất. Mỗi họat động do con người tác động vào
tự nhiên đều có mặt lợi và mặt hại. Phát huy tối đa các mặt lợi, giảm thiểu các
mặt hại là quyết sách của các nhà quản lý.
Trong
phương châm đó, với đê bao, bờ bao rõ
ràng là biện pháp rất cần thiết để đạt được lợi ích lớn nhất cho cả cộng đồng. Năm 2006, có cuộc tranh luận về đê bao, bờ
bao trên diễn đàn của báo Lao Động có nhiều nhà khoa học và người dân tham gia.
Để kết luận cho diễn đàn, báo Lao động cử
2 phóng viên do nhà báo Lục Tùng là trưởng đại diện ở ĐBSCL đến tỉnh Vĩnh Long
gặp phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt. Đọc bản thảo, chưa hài lòng, ông tự tay viết bằng chữ bút bi màu đỏ hơn 2
trang khổ A4 về quan điểm, và đánh giá thực chất của đê bao, bờ bao và sản xuất
lúa ở ĐBSCL rồi chuyển trực tiếp cho tôi để chấp bút thành bài báo hoàn chỉnh.
Bài viết này, đã đăng trên báo Lao động (bản gốc File kèm theo) cho đến nay vẫn
còn mang nguyên tính thời sự.
Vài
năm gần đây, do số nơi “phá rào” đẩy mạnh việc làm lúa vụ 3, lam đê bao tràn
lan số nơi không có trong quy hoạch, Đáng nhẽ phải tuyên truyền ngăn chặn vì “lợi
bất cập hại” thì chính quyền địa phương, đặc biệt là Bộ NN&PTNT đã sai lầm
chạy theo phong trào tự phát, biến lúa vụ 3 thành chính vụ. Đây là sai lầm, cần
phải sửa, không có gì phải bàn cãi. Về các câu hỏi của PGS Thang Văn Phúc, ở Đồng
Tháp Mười vẫn có cháy rừng vì vào mùa khô, do cỏ và lá tràm ở những nơi khô
ráo, nóng nực dễ bắt lửa, gặp sự bất cẩn của người dân gây nên cháy. Cây ăn quả
theo quy hoạch là được trồng ở nơi bao đê chống lũ chính vụ. Những nơi bị ngập,
khi nước rút làm chết cây ăn quả do mới chỉ đảm bảo làm đê chống lũ đầu vụ. Nước
biển xâm nhập nhanh như vậy vì sao khả năng rửa mặn lại kém đi? Nên hiểu nước
biển xâm nhập sâu vào đất liền tức là
nguồn nước ngọt từ thượng lưu về bị hạn chế. Trong thành phần nước biển chủ yếu
là hàm lượng muối NACl, một phần KCl, muối gốc sunphat vv…Nước ngọt thành phần
chủ yếu ion khoáng Na, Ca, Mg vv có tác
dụng pha loãng hàm lượng muối biển. Do yếu tố thời tiết ít mưa, chưa kể do quy trình vận hành hồ chứa ở thượng
lưu, không đủ lượng nước ngọt để pha
loãng nên khả năng rửa mặn kém đi là điều dễ hiểu.
THAM
KHẢO
Đê
bao Đồng bằng Sông Cửu Long –
Sai
lầm “vĩ đại” trong lịch sử cận đại (2)
Đảng Xanh
01/04/2014
(mời xem phần 1 đã đăng trên www.vncold.vn
, trang
/Web/Content.aspx?distid=3523 )
Cũng
như phần đầu, phần 2 này tiếp tục cung cấp cho độc giả nhiều bài viết tập trung
làm rõ hậu quả to lớn, lâu dài, ảnh hưởng đến nhiều mặt từ hệ thống “bê bao”,
làm lúa vụ 3. Đó chính là những thực tế sống động, khách quan trong suốt 10 năm
qua.
Người viết chỉ là kẻ chủ yếu tiếp thu những
thông tin, kiến thức đó, tập hợp lại để tiện cho độc giả theo dõi. Ngoài khẳng
định mạnh dạn như tựa đề và phần đầu, bài này chỉ đưa thêm vài gợi ý mà các bài
báo được dẫn ra có thể chưa nói đến.
Một
gợi ý, là với một vấn đề quá lớn liên quan thủy lợi cả một vùng châu thổ mênh
mông của đất nước, thiết tưởng nhà nước phải rất cẩn trọng để tiến hành các bước
đi đầy đủ xung quanh quyết định của mình. Có thể hình dung nó như sau:
Nghiên
cứu/đề xuất => Ra quyết định => Tạo khung pháp lý => Thực hiện =>
Nghiên cứu tiếp => Tổng kết => Điều chỉnh/Sửa sai
Thế
nhưng, nếu như đúng là cần đến quy trình nêu trên, thì đã thấy ngay rất nhiều lỗ
hổng khổng lồ. Ví như văn bản quan trọng nhất là Quyết định số 99-TTg của Thủ
tướng Võ Văn Kiệt, ngày 9/2/1996, trong đó nêu ngay đầu tiên việc ra quyết định
này là “Theo đề nghị của Bộ trưởng các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Giao thông vận tải, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính”. Vậy thì tất cả
các Ủy ban nhân dân các tỉnh của Vùng đồng bằng Sông Cửu Long có “đề nghị” hay
không, hay là họ … không thống nhất? Đó là chưa nói tới ông Bộ Tài nguyên Môi
trường, chẳng hiểu là do không lường trước tác động môi trường ghê gớm, ảnh hưởng
“tài nguyên nước” nghiêm trọng, hay vì “ông ta” không tán thành, mà cũng không
thấy có mặt?
Bên
cạnh đó, việc chỉ với bản “Quyết định” như thế thôi, để đi tới thực hiện một dự
án khổng lồ trong suốt gần 20 năm qua, cũng là một sự lạ. Đồng thời, cũng liên
quan tới tính pháp lý, là sau khi ra quyết định, liệu có được những văn bản
pháp quy gì để điều chỉnh mọi hành vi liên quan tới các công trình thủy lợi nêu
trong quyết định, đặc biệt là “đê bao”?
Thử hình dung, trong suốt gần 20 năm đó, không
biết bao nhiêu triệu tỉ đồng từ nhà nước và dân phải bỏ ra cho hệ thống này,
nay vẫn chưa nghe được tổng kết, thế mà lại chỉ được điều chỉnh bằng vài văn bản
vừa yếu, vừa mơ hồ trong vài nội dung liên quan, như Luật Xây dựng, Luật Đê điều,
còn Luật Thủy lợi thì vẫn đang dự thảo từ nhiều năm qua. Trong suốt thời gian
đó, có kẻ nào bị xử lý, đi tù trong việc thực hiện đại dự án đó với “đê bao”,
“đường giao thông nông thôn”, “Chương trình nông thôn mới” … bằng việc căn cứ
vào các văn bản vừa dẫn chưa?
Chính một phần rất quan trọng nêu trên không
được nghiêm túc thực hiện, đã và sẽ dẫn tới việc không tính được hiệu quả kinh
tế khi phải đầu tư những khoản tiền khổng lồ, xem có thực là “lãi” hay “lỗ”.
Riêng về tác động tới môi trường, thiệt hại về thủy sản, đời sống văn hóa biến
dạng thì có lẽ chẳng thể tính nổi.
Và,
một điều đang canh cánh nhức nhối trong lòng 90 triệu người dân Việt Nam hiện
nay, là vấn đề THAM NHŨNG. Với kiểu làm việc nặng về mệnh lệnh chính trị, nhẹ về
tính pháp quy và khoa học như vậy, có bao nhiều tỉ đồng đã rơi vào tay những
“Nhóm lợi ích”, từ trung ương tới thôn xã, ngay từ những năm còn chưa ai nói tới
khái niệm này, và có thể với ngay trong cả những nhà khoa học, nhà báo … tham
gia minh họa cho cái quyết định chính trị “vĩ đại” đó.
Một gợi ý nữa, là với cái hệ thống “vĩ đại”
đó, đã kéo theo những hệ thống đê bao khác, vĩ đại không kém, buộc phải thực hiện
vì hậu quả của “đê bao” nông thôn, để bảo vệ toàn bộ các đô thị liên quan, đang
ngày càng mọc lên như nấm. Lại nữa, là toàn bộ các công trình xây dựng trong
các đô thị đó đều phải chạy theo đáp ứng với tình trạng lũ, triều dâng lên cao
hơn do “đê bao” nông thôn nay đã không thể kiểm soát nổi rồi. Bởi vì đê bao đô
thị đương nhiên không đáng tin cậy, không giải quyết kịp tình trạng úng ngập …
Thế rồi như một vòng luẩn quẩn bi hài mang tầm
… thiên niên kỷ, các đô thị này tiếp tục chạy đua trong tuyệt vọng, phải xây
cho cao hơn nữa đế đối phó với tốc độ lún sụt đặc thù của cả một vùng châu thổ
lầy trũng, nền móng yếu, để cuối cùng không có cách nào khác là một hệ thống đê
khổng lồ như … Hà Lan.
Tất cả chi phí đó là bao nhiêu, để cho cái mục
tiêu hàng đầu, chính yếu là “lúa vụ 3″? (Phải nhấn mạnh lúa vụ 3, bởi vì các mục
tiêu khác đều có thể thực hiện theo cách khác, không phải là “đê bao”).
Những gì nêu trên chắc không thể giúp cho thói
quen “đổ tại” dễ dàng tái diễn; như bảo là “đê bao”, “lúa vụ 3″ tràn lan gây hậu
quả xấu là do nông dân, do địa phương, do bọn tham nhũng, … còn “quyết định” của
trên thì luôn đúng đắn, y như tất tật đường lối chính sách của đảng.
—
LUẬT
- Luật Xây dựng (2003). – Luật Đê điều (2006).
“c) Quy hoạch đê sông, đê cửa sông, đê bối, đê bao và đê chuyên dùng phải bảo đảm
an toàn ứng với mực nước lũ thiết kế và có giải pháp để bảo đảm an toàn đê khi
xảy ra lũ lịch sử; phải có sự phối hợp giữa các địa phương trong cùng một lưu vực,
không ảnh hưởng đến quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê và cả hệ thống
sông.”
- QUYẾT ĐỊNH VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH TRIỂN
KHAI XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT THỦY LỢI - BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN (8/2/2014). – Dự thảo đề cương: Luật Thủy lợi của Tổng cục Thủy lợi [20/12/12].
– PHÁP LỆNH Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi của Ủy ban Thường vụ quốc hội
(2001).
—
SÁCH, BÁO, ĐỀ TÀI
-
Bất cập trong sống chung với lũ ở ĐBSCL (Sài Gòn GP, 21/6/2005). “Cách nay gần
30 năm, bà con nông dân An Giang có sáng kiến đắp đê bao để bảo vệ lúa hè-thu
khi mùa nước nổi. Đến giờ, ĐBSCL chằng chịt đê bao, đủ loại, đủ kiểu. Lúa có
cách của lúa, vườn có cách của vườn, phố có kiểu của phố, mạnh ai nấy làm, với
lý do là bảo vệ mình, lợi cũng có mà thiệt cũng nhiều…”
“Trong
khi chưa có một quy hoạch nào về đê bao, thì kế hoạch thủy lợi đến năm 2010 do
Bộ NN-PTNT xây dựng, sẽ tiến hành bao đê bảo vệ các thị trấn, thị xã và thành
phố như Tam Nông, Hồng Ngự (Đồng Tháp), Long Xuyên, Châu Đốc (An Giang)… đồng
thời bao đê bảo vệ vườn cây ăn trái ở Đồng Tháp, Tiền Giang và Vĩnh Long. “
“Hầu
hết các nhà khoa học đều cho rằng đê bao triệt để là có hại và hoàn toàn không ủng
hộ.”
“Theo
nghiên cứu của Thạc sĩ Dương Văn Nhã – Trường ĐH An Giang (công trình nghiên cứu
duy nhất về đê bao ở ĐBSCL tính đến thời điểm này), ô nhiễm là vấn đề phức tạp
trong khu vực có đê bao triệt để.”
“Câu
hỏi đặt ra là tại sao không nghiên cứu kỹ lưỡng và xây dựng quy hoạch khoa học
đê bao ở ĐBSCL, trên cơ sở kinh nghiệm và thực tiễn đã qua?”
-
NGUYỄN VIẾT THỊNH (ĐH Tiền Giang): Cần xem lại những đê bao ở ĐBSCL (Tuổi trẻ,
21/10/2005). “Điều cần bàn hơn hiện nay là điều kiện tự nhiên vốn rất tốt của đồng
bằng sông Cửu Long đã và đang bị bàn tay qui hoạch không hợp lý của con người
làm cho méo mó. Con sông vốn hiền lành đang dần trở nên hung dữ vì bị đê bao
ngăn chặn…”
“Mô
hình nhà nổi (ở khu vực sông La Ngà, Đồng Nai chẳng hạn) cần được xem xét,
nghiên cứu áp dụng để thay thế mô hình cụm, tuyến dân cư tránh lũ vốn không hiệu
quả, không thực tế như hiện nay.”
-
Đồng Tháp: đê bao nuôi muỗi (Tuổi trẻ, 24/10/2005).
-
Sách của Văn Nhã Dương: Tác động đê bao đến đời sống kinh tế xã hội và môi trường,
NXB Nông nghiệp 2006.
- ThS.NCS.Nguyễn Phú Quỳnh, GS.TSKH. Nguyễn Ân
Niên,Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam: Đê Bao đồng bằng sông Cửu Long có tính đến
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (climategis.com).
-
ĐBSCL: Khuyến cáo nông dân không làm lúa vụ 3 (Sài Gòn GP, 25/7/2007). “… sản
xuất liên tục lúa vụ 3 đã gây những tác động xấu đến môi trường; đất bị bạc
màu, mầm dịch bệnh đặc biệt là rầy nâu và bệnh vàng lùn xoắn lá luôn tồn tại
trên đồng ruộng.”
-
Trần Đăng Hồng-Kỹ-sư Canh Nông tại Sài Gòn, MSc và PhD tại Đại Học Reading, Anh
Quốc: Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng Cửu Long:
Phần
1. Kinh Nghiệm Hoà Lan (The Netherlands) (vietsciences.free.fr, 27/11/2009).
Phần
2. Kinh nghiệm Mississippi.
Phần
3. Bangladesh.
Phần
4. Kinh nghiệm châu thổ Sông Hồng.
Phần
5. Đồng bằng sông Cửu Long: Môi trường và hệ thống sông rạch thiên nhiên.
Phần
6. Kinh đào và các biện pháp thủy lợi.
Phần
7: Thách thức với lũ lụt.
Phần
8: Thách thức với biển cả.
Phần
9: Đề nghị vài biện pháp.
- VÂN TRƯỜNG: Học kinh nghiệm từ dòng sông
Mississippi, Mỹ: Giải cứu lưu vực sông Mekong (Tuổi trẻ, 11/12/2009).
- Chinh Phục – Hồ Hùng: Mêkông, nhìn từ chuyện
Mississippi! (Thời báo KTSG, 17/12/2009). “Còn phía hạ lưu, tại ĐBSCL, những
năm qua hàng loạt kênh đào để tháo chua, thoát lũ, tưới tiêu, phục vụ giao
thông… đã xóa xổ gần hết các rừng tràm trong đất liền; đê bao khép kín chống
lũ, ngăn mặn, khai thác đất nuôi tôm… đã làm cho rừng ngập mặn ven biển còn lại
rất mỏng. Tình hình này khiến người ta hình dung ngay những gì đã diễn ra ở
sông Mississippi trong bốn thập niên vừa qua!”
- Trị thủy Sông Mississippi (Bách khoa tri thức).
- Kỳ tích đê sông Hồng – Kỳ 1: Dời đô và đắp
đê (Tuổi trẻ, 26/9/2010). – Kỳ 2: Những trận vỡ đê lịch sử. – Vụ án đê Yên Phụ.
– Kỳ 4: Những tranh luận trên đê sông Hồng.
- GSTS Nguyễn Ngọc Trân: GHI NHẬN VỀ HÀ LAN ĐỐI
MẶT VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG 1 (17/1/2011).
-
Chiều theo con nước? (RFA, 23/5/2011).
-
Từ chiếc nhà phao “sống chung với lụt”… (Tuổi trẻ, 5/10/2011).
-
Từ giã đê bao khép kín đồng bằng Cửu Long? (RFA, 5/10/2011). “Hệ thống đê bao
khép kín ở đồng bằng sông Cửu Long sau hơn một thập niên triển khai đã cho thấy
lợi bất cập hại.“
- Nguyễn Văn Kiền, Giảng viên Đại học An
Giang, nghiên cứu sinh về biến đổi khí hậu ở ĐBSCL tại Đại học Quốc gia Úc: Biến
đổi khí hậu và phát triển đê bao, bờ bao vùng ĐBSCL (Thời báo KTSG,
15/10/2011). “Thực tế này đặt lại vấn đề nên chăng phát triển đê bao khép kín ồ
ạt để sản xuất lúa vụ ba như hiện nay trong viễn cảnh biến đổi khí hậu ở
ĐBSCL?”
-
NGUYỄN VĂN KIÊN (giảng viên Đại học An Giang, nghiên cứu sinh Đại học Quốc gia
Úc): Liệu có nên tăng diện tích đê bao 3 vụ như hiện nay chăng?- Nghĩ về phát
triển đê bao đồng bằng sông Cửu Long (Tuổi trẻ, 16/10/2011). “Một trong những động
cơ cho việc xây dựng đê bao triệt để là để hình thành những vùng sản xuất lúa vụ
3 nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh lương thực và xuất khẩu để cải thiện đời sống
nông dân, phục vụ giao thông nông thôn. Hơn 50% sản luợng gạo được xuất khẩu
hàng năm là từ ĐBSCL.”
-
Mùa nước nổi: xưa và nay (Tuổi trẻ, 18/10/2011). “Làm lúa vụ 3 lời ít hơn hai vụ
lúa kia, nếu giá cả bấp bênh có khi còn lỗ vốn. Thêm nữa, khi đắp đê thì trong
vùng bao đê sẽ mất đi nguồn cá, đất đai mất nguồn phù sa quý giá. Cỏ dại, sâu bệnh
lưu cữu trên đồng làm tăng thêm chi phí cho các vụ lúa sau. Nhưng vì đó là chủ
trương của Nhà nước nên dù muốn dù không cũng phải làm theo.”
-
Phỏng vấn TS Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền
Nam, nguyên chủ nhiệm dự án Quy hoạch kiểm soát lũ ĐBSCL: “Xin đừng gọi là đê
bao chống lũ triệt để” (Lao động, 8/12/2011). Phóng viên: “Nhưng liệu đê bao có
tách ĐBSCL ra khỏi sông Mekong như đồng bằng sông Hồng đã từng tách khỏi sông Hồng
như có nhiều ý kiến cảnh báo?”, “Nhưng thực tế không ít nơi cho thấy đê bao
đang là “gánh nặng”?”
-
Đề nghị xây dựng đê bao khép kín (Cần Thơ, 22/3/2012). “Cử tri huyện Phong Điền
phản ánh, vừa qua Chính phủ và thành phố có chủ trương, kế hoạch phân bổ kinh
phí củng cố đê bao khép kín…”
-
Sống theo cơn nước đầu nguồn (Sài Gòn GP, 10/10/2012).
-
Ứng phó biến đổi khí hậu: ĐBSCL phải bảo vệ lúa và thủy sản (6/12/2012).
““ĐBSCL không chỉ là vựa lúa lớn của cả nước, mà còn cung cấp một lượng lớn gạo
cho xuất khẩu, tuy nhiên, trong vấn đề quy hoạch sản xuất cần phải tính đến yếu
tố cơ cấu lịch thời vụ cho đúng bởi vì nếu chúng ta không tính đến yếu tố này
mà đấp đê bao, tăng vụ sẽ rất nguy hiểm”, ông Trân cho biết.”
- Phỏng vấn thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện – chuyên
gia về đất ngập nước thuộc Quỹ Bảo vệ động vật hoang dã quốc tế (WWF): ĐBSCL: Nếu
đê bao vỡ, thiệt hại rất lớn (Dân Việt, 18/12/2012). “Nhiều đê bao khép kín ở
khu vực ĐBSCL hiện nay đã quá lạm dụng việc “chống lũ triệt để” chứ không còn
là “đê bao kiểm soát lũ”. Thế nên, khi tình trạng vỡ đê xảy ra thì hậu quả sẽ
khó có thể lường nổi.”
- Nước lũ dâng do xây đê bao tràn lan (Tuổi trẻ,
22/12/2012). “… tình trạng một số địa phương và người dân trong vùng ĐBSCL tự
xây dựng hệ thống đê bao, bờ bao tràn lan không theo quy hoạch đã làm mực nước
lũ hằng năm dâng cao, chất lượng môi trường bị biến đổi mạnh gây khó khăn cho
quy hoạch phát triển chung toàn vùng.”
- Cần cân nhắc sản xuất lúa vụ 3 (Thanh niên,
31/12/2012). “… việc mất vai trò điều tiết nước tự nhiên, xâm nhập mặn sẽ ngày
càng lấn sâu hơn. Đó là những vấn đền cần phải nhìn nhận trong việc sản xuất
lúa vụ 3.”
“Theo ông Nguyễn Minh Nhị, Nguyên chủ tịch
UBND tỉnh An Giang, tính tự phát được phát huy tối đa trong quá trình phát triển
ở ĐBSCL những năm qua. Ngay cả các cấp lãnh đạo của tỉnh cũng toàn đi đến đâu
nghĩ đến đó mà không có khoa học dẫn đường. Như vậy thì không thể phát triển bền
vững được.”
- Cần đánh giá lại việc sản xuất lúa 3 vụ (Đại
học Cần Thơ).
- Sản xuất lúa vụ 3: Cân nhắc được, mất vùng
“túi lũ” (Sài Gòn GP, 3/1/2013).
- Mai Ngọc: Vựa lúa ĐBSCL đang đánh đổi những
gì? (Diễn đàn ĐT, 28/3/2013).
- GS.TS. Trần Như Hối và KS. Lê Khánh Chiên –
Viện khoa học Thủy lợi miền Nam: Một số nhận xét về hệ thống đê bao, bờ bao kiểm
soát lũ hiện nay ở vùng ngập lũ ĐBSCL (23/4/2013). “…bên cạnh những tác động
tích cực, vẫn tồn tại nhiều mặt tiêu cực, do hệ thống đê bao hiện nay chưa được
đồng bộ do hầu hết đều thiếu cống, chất lượng lại thấp và thiếu linh hoạt, thiếu
sự quản lý vận hành một cách khoa học nên phát huy hiệu quả chưa cao.”
- Một hạt lúa cõng bao nhiêu phí? (Tuổi trẻ,
27/5/2013). “Gần đây, để tăng thêm sản lượng lúa, các địa phương đã mở rộng diện
tích trồng lúa vụ ba, buộc nông dân đóng góp xây dựng đê bao, làm cống bửng. Thế
rồi hệ thống đê bao khép kín để tăng vụ ấy càng làm tăng thêm chi phí trong
canh tác, thu hoạch. Gánh nặng cứ thêm chất chồng.”
“Lợi
nhuận từ trồng lúa vốn đã không đủ trang trải cuộc sống, làm vụ ba lại phải
đóng góp làm đê bao, thủy lợi… càng chất chồng thêm khó khăn cho nông dân.”
-
Sản xuất lúa vụ 3: Mất nhiều hơn được (Dân Việt, 8/6/2013).
- Lê Anh Tuấn (Đại học Cần Thơ): Thấm đòn lúa
vụ ba (Tuổi trẻ, 27/8/2013).
-
Mike Ives – Yale Environment 360: Tác động môi trường từ hệ thống thủy lợi
ĐBSCL (Tia sáng, 30/8/2013).
- Bộ NN-PTNT: Lúa vụ 3 lợi nhiều hơn hại
(TBKTSG, 26/10/2013). – Nông dân lại nói làm lúa vụ 3 hại nhiều hơn lợi
(TBKTSG, 10/11/2013).
-
Không bỏ lúa vụ ba mà còn tăng diện tích (RFA, 1/11/2013).
- Nông dân tâm sự trồng lúa vụ 3 (Đại biểu ND,
16/11/2013).
- Mai Thanh Truyết: NƯỚC LÀ NGUỒN SỐNG VIỆT
NAM (9/12/2013). “Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam mang chính sách đê bao vào ứng
dụng trong việc làm tăng diện tích trồng lúa, trong việc biến “sỏi đá thành
cơm”, cho nên người dân ĐBSCL phải gánh chịu hậu quả ngày hôm nay là lũ lụt xảy
ra thường xuyên hơn và không có chu kỳ tương đối cố định như trước kia nữa.
Nguyên do là khi dòng chảy từ Mékong xuống khi mùa nước bắt đầu lên cao ở Tân
Châu và Châu Đốc, nước sông hoàn toàn di chuyển ra biển, đợi đến khi nước lớn
hơn nữa mới bắt đầu làm làm đầy hai vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.”
-
Các tổ chức về môi trường cùng hành động chống việc xây đập ở Lào (VOA). – Việt
Nam cần nỗ lực chống đập Don Sahong tại Lào (RFI).
- Nhiều nguyên thủ tham dự Hội nghị cấp cao Ủy
hội sông Mekong (Pháp luật TPHCM, 1/4/2014).
-
Đầu tư 11.000 tỷ đồng xây đê bao chống ngập cho TP HCM (VNExpress). – Xây đê
bao khép kín quanh TP.HCM (Tuổi trẻ, 3/11/2010). – Chống ngập bằng đê bao khép
kín (Tuổi trẻ, 19/11/2010). Các đô thị phải “chạy theo” đê bao nông thôn.
No comments:
Post a Comment