Chí Nhân
Hiện
tượng sụt lún mặt đất, mất phù sa, nước biển dâng... sẽ khiến gần như toàn bộ ĐBSCL
chìm dưới mặt nước biển vào năm 2100, nghiên cứu của Đại học Utrecht (Hà
Lan) mới đây dự báo.
Ảnh: Đình Tuyển
Biển
tiến 1, đất chìm 10
Từ
những năm 1985 - 1986, ở các vùng ven biển ĐBSCL phong trào nuôi tôm phát triển
mạnh. Người dân khoan giếng lấy cả nước ngọt và nước mặn để nuôi tôm. Thời điểm
đó đã có người nêu ý kiến lo ngại về vấn đề này. Năm 2013 - 2014, trong một
chuyến công tác ở Mỹ, các chuyên gia của họ cũng nêu cảnh báo về việc sụt lún đồng
bằng làm tăng nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu.
GS-TS
Bùi Chí Bửu (nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam)
Trong
dịp Tết Nguyên đán vừa qua, ngoài những câu thăm hỏi, chúc tụng nhau như lệ thường
thì “nước và ngập” gần như là chủ đề chính của nhiều buổi gặp mặt của các cư
dân ở TT.Mỹ Xuyên (H.Mỹ Xuyên, Sóc Trăng) nằm ở phía nam TP.Sóc Trăng, cách Biển
Đông khoảng hơn 30 km. Lý do là vào mùa triều cường trước đó, cứ mỗi tháng 2 lần
cả thị trấn này “chìm” trong nước.
Đây
không phải năm đầu tiên thị trấn này bị ngập vào mùa triều cường, chỉ khác là mức
độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Khổ nhất chính là những người dân sống tại đây
khi sinh hoạt hằng ngày, việc buôn bán gặp rất nhiều khó khăn. Nhà ông
P.Q.Dũng, nằm lệch ra ngoài trung tâm thị trấn một chút cũng bị ngập nặng. Để
chống ngập ông phải xây gạch bao quanh. Tuy nhiên nước ngấm xuống nền, ăn vào
tường làm căn nhà xuống cấp trông thấy.
Câu
chuyện ngập và những lo lắng ở TT.Mỹ Xuyên không phải là điều gì đặc biệt trong
bức tranh ngập do triều cường ở ĐBSCL trong những năm gần đây. Khu vực trung
tâm TP.Cần Thơ, nhiều tuyến đường cũng ngập hơn nửa bánh xe máy. Cuộc sống của
người dân ở “thủ phủ miền Tây” gần như đã bị đảo lộn trong mùa triều cường. Nhiều
đoạn trên tuyến quốc lộ 1 ở Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu… cũng bị
ngập nặng ảnh hưởng không nhỏ đến giao thông. Không chỉ cục bộ vài ba nơi mà ngập
đã phổ biến và ngày càng lan rộng từ TP.HCM chạy dọc các tỉnh ven biển miền Tây
xuống tận Cà Mau.
Theo
các nhà khoa học, có hai nguyên nhân chính gây nên hiện tượng trên là nước biển
dâng và đặc biệt là tình trạng sụt lún mặt đất. Sụt lún đang diễn ra trên khắp
đồng bằng. Nghiên cứu của Trường ĐH Utrecht (Hà Lan) cho thấy mức độ gia tăng mực
nước biển tuyệt đối khoảng từ 3 - 4 mm/năm, trong khi nhiều phần diện tích ở
nông thôn vùng ĐBSCL mức độ sụt lún khoảng 10 - 20 mm/năm, riêng khu vực thành
thị và các khu công nghiệp mức độ sụt lún lên đến khoảng 25 mm/năm. Trong 25
năm qua (1991 - 2015), ĐBSCL đã sụt lún trung bình 18 cm, có những nơi sụt lún
2,5 cm/năm, cao hơn gần 10 lần so với tốc độ nước biển dâng. Nguyên nhân chính
của hiện tượng sụt lún trên là do khai thác nước ngầm quá mức.
Rút
2,5 triệu lít/ngày, nước ngầm cạn kiệt
Tại
TT.Mỹ Xuyên, khoảng 20 năm trước nước máy được khai thác từ nước ngầm chỉ phục
vụ ở khu vực trung tâm. Người dân ở khu vực vùng ven sử dụng nước tự nhiên như
nước sông, ao hồ, nước mưa… Những năm về sau, các nguồn nước tự nhiên cạn kiệt,
ô nhiễm nên được thay toàn bộ nước máy bằng các chương trình đưa nước sạch về
nông thôn. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của người dân, khoảng chục năm trước
trạm cấp nước của thị trấn được đầu tư khai thác thêm một giếng mới cách vị trí
cũ hơn 500 m theo hướng dịch chuyển ra xa trung tâm hơn.
TT.Mỹ Xuyên, Sóc Trăng chìm trong
nước. Ảnh chụp mùa triều cường năm 2017
Ảnh: Chí Nhân
Báo cáo của tỉnh Sóc Trăng chỉ rõ,
riêng nước ngọt phục vụ cho sinh hoạt của địa phương dựa vào nguồn khai thác
nước ngầm lên đến 94.000 m3/ngày đêm và tình trạng khai thác nước
ngầm đã ở mức báo động. Một khuyến cáo của Bộ Tài nguyên - Môi trường thừa
nhận: “Vùng tứ giác TP.Sóc Trăng, H.Mỹ Xuyên, TX.Vĩnh Châu và H.Trần Đề, việc
khai thác nước ngầm đã vượt ngưỡng an toàn”.
Nhiều người dân ở các tỉnh ven biển
miền Tây cho biết, trước đây chỉ cần đào giếng sâu 5 - 7 m là có nước ngọt
dùng. Sau này phải khoan giếng và càng về sau phải khoan càng sâu, hiện tại
phải khoan tới 130 - 150 m và phải dùng máy bơm công suất lớn mới có nước.
Tại Bạc Liêu, tổng lưu lượng khai
thác nước ngầm toàn tỉnh khoảng 400.000 m3/ngày đêm. Báo cáo gần đây
của Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Bạc Liêu cho biết: “Hiện nay tầng chứa nước
Pleistocen (giữa - trên) quân bình mỗi năm tụt giảm 0,5 m. Có thể nói đây là
một nguy cơ đáng báo động về tình trạng cạn kiệt nguồn nước ngầm”.
“Tốc độ sụt lún nhanh nhất là thời
điểm hiện tại”, nghiên cứu của Trường ĐH Utrecht nhận định và cho biết hiện nay
mỗi ngày vùng đồng bằng này rút khỏi lòng đất tới 2,5 triệu lít nước. Nước mất
đi làm giảm áp lực trong cấu trúc địa chất bên dưới, khiến đồng bằng lún xuống.
Với tốc độ sụt lún trung bình 1 cm/năm, vùng ĐBSCL sẽ chứng kiến rất nhiều biến
đổi trong vài thập niên tới.
Th.S Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia
độc lập về sinh thái ĐBSCL, lưu ý: Cao trình trung bình của vùng đất này so với
mực nước biển chỉ từ 1 - 1,5 m. Với tốc độ lún và nước biển dâng như vậy trong
khi chúng ta vẫn phải khai thác nước ngầm như hiện nay thì đây rõ ràng là nguy
cơ rất lớn đe dọa đến sự tồn tại của vùng đồng bằng này. Còn TS Lê Xuân Thuyên
(ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM), cho rằng đây không phải là vấn đề của riêng
ĐBSCL mà hiện tượng sụt lún nước biển dâng ảnh hưởng cả vùng đồng bằng Nam bộ.
Điều này hoàn toàn phù hợp với
nghiên cứu của ĐH Utrecht khi họ chỉ ra rằng tốc độ sụt lún trung bình ở hiện
tại theo mô hình đối với TP.HCM là 7,3 cm/năm.
Sụt
nhanh, bù lún tự nhiên giảm
Trong một vài thập niên gần đây,
Trung Quốc xây dựng các đập thủy điện khiến lượng phù sa sụt giảm đã làm giảm
đáng kể sự bù lún tự nhiên làm cho quá trình sụt lún diễn ra nhanh hơn. Tình hình đang trở nên trầm
trọng hơn khi nhiều con đập trên dòng chính sông Mê Kông trên đất Lào cũng đang
được xây dựng và gấp rút hoàn thành. Kết quả nghiên cứu năm 2018 của Ủy hội
sông Mê Kông, có đến 97% trầm tích sẽ bị giữ lại nếu tất cả các con đập trên
dòng chính và các chi lưu của con sông này được xây dựng. Đây là một nguyên
nhân khách quan nhưng không kém phần quan trọng làm cho ĐBSCL “biến mất” nhanh
hơn.
Từ năm 2011, TS Lê Xuân Thuyên và
cộng sự đã tiến hành đặt một số trạm quan trắc về biến đổi khí hậu và nước biển
dâng. Kết quả ban đầu cho thấy có vấn đề về hiện tượng lún mặt đất.
“Bình thường đã khó có giải pháp kỹ
thuật nào có thể giải quyết được vấn đề chìm ngập do lún cộng với nước biển
dâng. Nay càng khó gấp bội khi mà nguồn bùn cát từ sông Cửu Long đưa về ngày
càng giảm đi và cả đồng bằng của chúng ta không có vật liệu để bồi đắp, bù lại!”,
TS Thuyên nói.
Tác
động lan tỏa sớm hơn nhiều
Một
căn nhà ở xã Vân Khánh (H.An Minh, Kiên Giang) bị sạt lở đe dọa
Ảnh:
Anh Phương
Năm
2018, xuất khẩu nông sản của VN trên 40 tỉ USD, con số kỷ lục từ trước đến nay.
Vùng ĐBSCL có những đóng góp quan trọng vào thành quả này nhờ những mặt hàng chủ
lực như: gạo trên 3 tỉ USD, tôm, 3,6
tỉ USD hơn, cá tra gần 2,3 tỉ USD, rau quả 3,5 tỉ USD… Ước tính vùng này đã
đóng góp hàng chục tỉ USD vào nền kinh tế mỗi năm. Thế nên, việc sụt lún, mất
phù sa đang khiến vựa lúa, thủy sản của VN nói chung và sinh kế của người dân
ĐBSCL nói riêng ảnh hưởng nặng nề.
Theo
kịch bản mà Trường ĐH Utrecht (Hà Lan) đặt ra, đến năm 2050 các tỉnh ven biển
như: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng hầu hết diện tích sẽ bị chìm dưới
mực nước biển. Tất nhiên đây mới là nghiên cứu, chưa phải là chắc chắn. Nhưng
hiện tại, dọc bờ Biển Đông và Tây hiện tượng sạt lở xảy ra nghiêm trọng, nhiều
đoạn xói lở từ 30 -100 m/năm.
Thế
mạnh lớn nhất của các tỉnh này là nuôi tôm, lúa và một số ít vườn cây ăn trái.
Để nuôi tôm đạt hiệu quả cần phải có độ mặn phù hợp, nước quá mặn cũng không được.
Khi từng phần diện tích đất ở các tỉnh này bị mất đi hoặc chìm trong nước sẽ
kéo theo một mũi nhọn kinh tế quan trọng là con tôm bị ảnh hưởng. Nếu sụt lún
tiếp tục duy trì như hiện tại kết hợp với nước biển dâng thì tình trạng mất đất
ở các vùng bờ biển ngày càng nghiêm trọng.
Tương
tự, lúa cũng là một thế mạnh của các tỉnh này. Trước giờ người dân ở đây vẫn tận
dụng nước ngọt vào mùa mưa để trồng lúa. Nếu các cánh đồng bị mặn xâm nhập kéo
dài sẽ không thể sản xuất được lúa như hiện tại.
GS-TS
Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, lo
lắng: Nếu những kết quả nghiên cứu, dự báo là đúng thì tác động đến môi trường,
xã hội và kinh tế là rất lớn khi BĐSCL là vựa lúa, cá tôm, rau quả của cả nước,
mang lại kim ngạch xuất khẩu hàng chục tỉ USD mỗi năm. Nó đe dọa trực tiếp đến
cuộc sống của hàng chục triệu người dân vùng này.
Dẫn
chứng tình trạng xâm nhập mặn ngày càng mạnh, GS Bửu cho biết những giống lúa
kháng mặn hiện tại chỉ sống được trong điều kiện nước có độ mặn nhất định
(4%0), thời gian 20 ngày; những giống tốt nhất hiện nay là 30 ngày. Nhưng vào
thời điểm trổ bông vẫn cần nước ngọt. Nếu không có nước ngọt sẽ không thể sản
xuất lúa cũng như các loại cây trồng khác. “Tôi cho rằng chúng ta phải kiểm
soát được việc khai thác nước ngầm, hạn chế tối đa. Tái tạo các cánh rừng phòng
hộ ven biển”, GS Bửu nêu quan điểm.
Như
vậy, những trụ cột của nền kinh tế các địa phương này sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Không chỉ thế, các vùng này bị ảnh hưởng còn gây tác động lan tỏa đến các địa
phương lân cận ở sâu trong đồng bằng như: Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long… Điều
này có thể thấy rõ vào mùa khô hạn năm 2016, nước mặn đã xâm nhập sâu vào đất
liền, trên nhiều con sông nước mặn 4%0 đã vào sâu đến 60 - 70 km. Thời điểm đó
có đến 10/13 tỉnh ĐBSCL bị ảnh hưởng bởi hạn mặn. Cũng cần lưu ý, con số 4%0 là
giới hạn cuối cùng để các loại thực vật nước ngọt có thể tồn tại. Với kịch bản
nhiều tỉnh ven biển ở ĐBSCL sẽ chìm vào thời điểm 2050 thì không chỉ riêng những
tỉnh đó bị thiệt hại mà tác động lan tỏa đến sản xuất nông nghiệp sẽ xảy ra trên
khắp đồng bằng.
Đây
chỉ mới là những ước lượng ban đầu về bức tranh tương lai của đồng bằng khi nó
bị chìm. Thực tế sẽ còn phức tạp và còn nhiều thứ quan trọng hơn nhất là cuộc sống
và sinh kế của hàng chục triệu dân.
Chí
Nhân
Source:
No comments:
Post a Comment