Mỹ
Thuận
(VNTB) – “Để làm vụ ba, chúng ta làm đê
bao ngăn lũ, thậm chí là dự án thoát lũ ra biển Tây, vì chúng ta coi lũ là
thiên tai, trong khi lũ là hệ sinh thái cần thiết. Chúng ta làm ngược lại quy
luật tự nhiên, nên đất mất đi lớp nước trữ, khô hạn sẽ gia tăng”.
Mỹ Thuận - Hãy trả đất đai miền Tây
về như nửa thế kỷ trước
Người
miền Tây giờ thì ‘tối mặt, tối mày’ mà vẫn nghèo
Ông Lê Anh Tuấn, Phó Viện Nghiên cứu Biến
đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ), nói rằng từ xưa, những vùng trũng như Tứ giác
Long Xuyên, Đồng Tháp Mười là vùng tự nhiên chứa nước lũ, người dân bỏ đất
không làm vụ ba, cho ngập lũ đón phù sa. Có giai đoạn đất nước sau chiến tranh
còn nghèo, thiếu ăn, nên phải bảo đảm an ninh lương thực bằng cách mỗi địa
phương tự sản xuất lúa, dự trữ càng nhiều càng tốt. Số lương thực này còn được
chính quyền dùng để trả các khoản nợ mà Hà Nội đã vay để phục vụ cho cuộc chiến
tranh Bắc – Nam.
“Bây giờ, tư duy tích trữ ấy vẫn còn ảnh
hưởng. Để làm vụ ba, chúng ta làm đê bao ngăn lũ, thậm chí là dự án thoát lũ ra
biển Tây, vì chúng ta coi lũ là thiên tai, trong khi lũ là hệ sinh thái cần thiết.
Chúng ta làm ngược lại quy luật tự nhiên, nên đất mất đi lớp nước trữ, khô hạn
sẽ gia tăng”. Ông Lê Anh Tuấn nhận xét.
Trong những buổi tọa đàm liên quan việc
‘đê bao’ ở miền Tây, nhiều nhà khoa học khẳng định đê bao khép kín, sản xuất
lúa vụ 3 mặc dù đem lại sự tăng trưởng mạnh về sản lượng, nhưng cũng tạo ra những
thiệt hại nặng nề cho vùng này, đặc biệt là làm giảm đi nguồn cá, mất phù sa, đồng
ruộng bạc màu, dịch bệnh phát triển, nông dân phải sử dụng nhiều phân bón, ô
nhiễm môi trường…
Cảnh báo “đê bao càng dài, mặn càng lấn
sâu” của nhiều nhà khoa học vào đầu thập niên 90 ở thế kỷ trước, gần như không
được chính quyền cầu thị.
Những năm 1990, khi các tuyến đê bao khép
kín ngăn lũ hình thành, người dân có thể làm lúa ngay mùa nước nổi. Cùng với dự
án thoát lũ ra biển Tây (An Giang, Kiên Giang), cứ thế những tuyến đê bao ngăn
lũ ngày càng được đắp dài ở hai vùng trũng là Đồng Tháp Mười (phía tả ngạn thuộc
các tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An) và vùng Tứ Giác Long Xuyên (phía hữu
ngạn thuộc An Giang, Kiên Giang).
Đến nay, hệ thống đê bao khép kín có tổng
chiều dài khoảng 7.000 km, đưa hàng triệu người dân ổn định nhà cửa phía trong
đê. Khắp nơi, người dân say sưa làm lúa vụ 3, thậm chí trong 2 năm làm 7 vụ
lúa. Sản lượng lúa gia tăng nhanh chóng, đưa Việt Nam trở thành một trong 3 nước
xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới.
Lưu ý, Việt Nam là quốc gia xuất khẩu sản
lượng gạo nhiều nhất nhì thế giới, nhưng xét về giá thì chẳng thể so bì với ai.
Và hệ lụy ở đây cho thấy hoàn toàn là chuyện của lợi bất cập hại. Người nông
dân Nam bộ đã thiệt đơn, thiệt kép trong vụ việc này.
Miền
Tây chứ phải đâu sông Hồng mà cần đắp đê (!)
Hằng năm khi lũ sông Mê Kông đổ về làm
cho Biển Hồ tăng diện tích chứa nước từ 300.000 ha trong mùa khô lên 1,5 triệu
ha. Từ Biển Hồ nước chảy vào Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên làm cho hai
vùng này ngập sâu 3 – 4 m. Từ đây, nước nhả dần dần ra sông Tiền, sông Hậu, vào
mùa khô đẩy nước mặn xâm nhập từ biển vào.
Thế nhưng, sau khi hình thành hệ thống
đê bao khép kín, một khảo sát từ năm 2000 đến 2011 (thời kỳ chưa chịu ảnh hưởng
đáng kể bởi các đập thủy điện của Trung Quốc), cho thấy lượng nước ở Tứ Giác
Long Xuyên đã giảm từ 9,2 tỉ m3 xuống còn khoảng 4,5 tỉ m3 do diện tích khoảng
1.100 km2 ô đê bao khép kín ngăn lại.
“Điều này cũng đồng nghĩa đồng bằng sông
Cửu Long đã mất 4,7 tỉ m3 nước để đẩy mặn trong mùa khô cho vùng ven biển. Hai
vùng trũng Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười không còn nước tích trữ đủ để bổ
sung cho sông Tiền, sông Hậu đẩy nước mặn ra xa nên xâm nhập mặn lại càng lấn
sâu. Tệ hơn khi biến đổi khí hậu càng tác động mạnh, El Nino gây hạn hán xảy ra
khắp lưu vực sông Mê Kông”, ông Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về thủy điện
và sông Mê Kông, nhận định.
Tài liệu có tên “Đánh giá các hệ thống ngăn mặn
vùng ven biển châu thổ Cửu Long và dự án thủy lợi sông Cái Lớn – Cái Bé”
của nhóm nghiên cứu gồm Lê Anh Tuấn – Nguyễn Hữu Thiện – Dương Văn Ni – Nguyễn
Hồng Tín – Đặng Kiều Nhân, cho biết như sau (trích): “Một điều mà nhiều người nhận xét, ở những nơi có cống – đập chặn dòng,
tình trạng di dân ngày càng phổ biến. Việc canh tác khó khăn, chi phí đầu tư
cao mà lợi nhuận giảm, cộng thêm tình trạng môi trường nước bị ô nhiễm, nhiều người
đã bỏ đồng ruộng đi mưu sinh ở các khu công nghiệp hoặc thành phố (ở địa phương
quen gọi một tên chung là “đi Bình Dương”).
Hiện tượng này không phải do vấn đề dân
số, tốc độ tăng dân số của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là âm, mà do kinh tế
nông thôn đang đi xuống. Trong vấn đề di dân, phụ nữ và trẻ em là đối tượng dễ
bị tổn thương nhất.
Do sông ngòi ô nhiễm, trẻ em nông thôn
ngày nay không biết bơi, chỉ những đứa trẻ trừ ở các nhánh sông lớn như Sông Tiền,
Sông Hậu. Đây là một nét văn hóa đã bị mất của đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động
giao thông thủy sút giảm cũng là mất một nét quan trọng của văn hóa sông nước đồng
bằng sông Cửu Long. Lượng cá trắng sút giảm nghiêm trọng nên một số món ăn mất
hình ảnh con cá trên thực đơn…”.
Hãy trả đất đai miền Tây về như nửa thế
kỷ trước, thời chưa có cái ngày ‘30 tháng tư lịch sử’.
Nguồn : https://vietnamthoibao.org/
.
.
No comments:
Post a Comment