.
Biểu
đồ độ lún và vận tốc đất lún trong 25 năm tại Đồng Bằng Sông Cửu Long.
[nguồn: Environ.Res.Lett. 12 (2017)
với
ghi chú của KS Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation].
Hiện
nay, rất nhiều giếng tầng nông và bơm bằng tay đều bị nhiễm mặn nhiễm phèn, nước
giếng không còn dùng được, và nay người nông dân phải khoan sâu 400-500m để tìm
được nguồn nước ngọt, mặt bằng ĐBSCL đang bị sụt lún nhanh chóng vì các tầng nước
ngầm đang bị tận cùng khai thác.
Ngô
Thế Vinh
Water, water, every where,
Nor any drop to drink.
Samuel Taylor Coleridge [1772-1834]
Thế kỷ 21 của tỵ nạn môi sinh, đã có
2 triệu người
phải rời bỏ quê hương ĐBSCL ra đi
tìm kế sinh nhai
Hình ảnh một dòng sông đang chết
dần; cũng để hiểu tại sao đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương ĐBSCL đi
tìm kế sinh nhai;
Từ phải: TS Lê Anh Tuấn, Th.S Nguyễn Hữu Thiện. [photo by Ngô
Thế Vinh]
XỨ SỞ CÂY THỐT NỐT VÀ NGƯỜI KHMER HIỀN HÒA
Tới An Giang, tới hai quận Tịnh Biên
và Tri Tôn không thể không thấy hàng cây thốt nốt nổi bật trên những cánh đồng
lúa xanh. Cây thốt nốt thuộc họ cau, tên khoa học Borassus flabellifer, có
nhiều ở các nước Đông Nam Á. Cây thốt nốt sống cả trăm năm dài hơn tuổi thọ một
đời người. Thân cây thẳng và cao tới 30 mét. Cây đực không trái, cây cái cho
tới 60 trái mỗi cây. Trái thốt nốt có vỏ xanh đen, nhỏ hơn trái dừa bên trong
có những múi trắng mềm, ngọt và mát. Hoa cây thốt nốt cho nước ngọt có vị thơm,
có thể nấu thành đường, ngon hơn đường mía. Nếu Quảng Ngãi, quê Hương Nghiêu Đề
bạn tôi, từng nổi tiếng về đường phổi, đường phèn thì An Giang, vùng Tịnh Biên
Tri Tôn nổi tiếng với đường thốt nốt. Chè đậu xanh nấu với đường thốt nốt ngọt
dịu và rất thơm ngon. Hình như tất cả mọi thành phần cây thốt nốt đều có công
dụng: thân làm cột nhà, lá dùng lợp mái. Trong nền văn hóa cổ Khmer, các Chùa
chiền còn lưu giữ được những văn bản viết trên lá cây thốt nốt. Cây thốt nốt
cũng được xem như biểu tượng của xứ Chùa Tháp. [Hình 2]
Hàng cây thốt nốt đứng soi bóng bên
hồ nơi khu đền đài Angkor; cây thốt nốt được xem như biểu tượng của xứ Chùa
Tháp. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Khắp xứ Chùa Tháp xuống tới Đồng
Bằng Sông Cửu Long, đi đâu cũng chỉ gặp những người dân Khmer hiền hòa, và rồi
không thể nào hiểu được những gì đã xảy ra giữa họ và những người Việt trong
quá khứ. Chỉ có thể giải thích họ là một đám đông nạn nhân của những khích động
thù hận mà động cơ là những mưu đồ chánh trị đen tối.
Trong y khoa, khi khảo sát não trạng
vô thức của đám đông, qua nghiên cứu hành vi/ behavior của loài cá, khoa học
gia Đức đã làm một thử nghiệm: thả một con cá bị hủy não bộ vào một hồ cá,
không có gì ngạc nhiên là con cá ấy mất định hướng bơi tán loạn, nhưng điều kỳ
lạ là đàn cá lành mạnh thì lại ngoan ngoãn bơi theo con cá mất não ấy. Phải
chăng "thử nghiệm hành vi" của nhà khoa học Đức, đã phần nào
giải thích hiện tượng cả một dân tộc Đức văn minh đã có một thời kỳ nhất loạt
tuân theo một lãnh tụ như Hitler xô đẩy cả thế giới vào lò lửa của cuộc Thế
chiến thứ Hai.
Từ trên xuống: hàng cây thốt nốt
huyện Tri Tôn tỉnh An Giang; bà Ngoại ngồi chặt đống trái cây thốt nốt; con gái
Ngoại thì đang gỡ những múi thốt nốt trắng mềm để mời khách, đây là quán Thốt
Nốt Võng cho khách đường xa ghé uống ly nước thốt nốt mát và tạm ngả lưng; từ
phải, TS Lê Anh Tuấn, TS Dương Văn Ni, TS Lê Phát Quới, Th.S Nguyễn Hữu Thiện,
KS Phạm Phan Long; trên mặt bàn là hộp đường thỏi thốt nốt.
[photo by Ngô Thế Vinh & Phạm
Phan Long]
Từ trên xuống:
Được ăn những chiếc bắp nóng trên đường đi, phải, vựa dứa
thơm ngon nổi tiếng quận Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng,
Từ trái: TS Dương Văn Ni, Ngô Thế Vinh, TS Lê Phát Quới.
[photo by Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn
Hưng]
Cùng bác nông dân với bài học đập
lúa đầu tiên trên ĐBSCL, kết quả người viết bị đánh rớt / disqualified ngay, vì
đập không hết hạt và lúa thì vương vãi ra tứ tung, học làm nông dân khổ và khó
lắm.
[photo by Nguyễn Văn Hưng]
Từ trên xuống: Từ ruộng hành xã Vĩnh
Hải huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng những thố hành tím được chất thành ngọn lên
xe tải để phân phối tới các chợ; phải: TS Lê Anh Tuấn đứng bên túi trữ nước
ngọt lấy từ giếng bơm, anh Lê Anh Tuấn cũng cho biết: 100% nước tưới ruộng hành
được lấy từ các giếng bơm, [photo by Ngô Thế Vinh]
CÓ MỘT NỀN VĂN HÓA NƯỚC LỢ
Trên đường dọc theo Sông Hậu, xe dừng lại Hộ Phòng là một phường của thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Xuống xe đi bộ lên chiếc cầu xi măng có tên Hộ Phòng 2, bắc qua con kênh lớn Gành Hào [được xây từ năm 2011 do quỹ ODA/ Official Development Assistance của Nhật].
Bấy lâu, các chuyên gia Bộ Nông
nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản đơn về hệ sinh thái sông nước
Cửu Long: họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch làm
những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt. Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ
đã và đang gây ra bao nhiêu hệ lụy cho hệ sinh thái ĐBSCL như hiện nay.
Đoàn đứng trên cầu phía hướng ra
Biển Đông, nơi có cống đập ngăn mặn. Ngoài mặn trong ngọt. Anh Dương Văn Ni
sinh ra và lớn lên từ vùng sông nước Miền Tây, khi nói về nhịp đập của hệ sinh
thái ĐBSCL, anh Ni thông thuộc như với đường chỉ tay của chính mình; với một
giọng thuần Nam Bộ trầm tĩnh bắt đầu một bài giảng:
"ĐBSCL chỉ nói riêng phía Biển
Đông, không đơn giản chỉ có triều cường và triều kiệt. Hỏi người nông dân thì
họ biết rất rõ. Thuỷ triều từ Biển Đông là bán nhật triều, sáng và chiều hai
lần trong ngày; hai lần nước lớn tiếp theo hai lần nước ròng, mực nước lên
xuống bốn lần trong một ngày. Trong tháng, người nông dân biết chừng nào thì
"nước rong" vào ngày rằm, khi nào "nước kém" vào cuối tháng
âm lịch. Trong năm, thì họ có mùa "nước nổi" và mùa "nước
hạn".
Từ mấy trăm năm, trải qua bao thế
hệ, người nông dân Miền Tây đã quen chung sống với nhịp đập thiên nhiên ấy của
những dòng sông: trong ngày, trong tháng, trong năm và đã hình thành một nền "văn
minh sông nước." Họ đã quen chung sống với cả ba tình huống: nước
ngọt, nước lợ và nước mặn. Lãnh đạo bộ Nông nghiệp đa số mang theo họ một nền
văn hoá từ châu thổ sông Hồng, biết rất ít về hệ sinh thái ĐBSL vốn rất đặc
thù. Với đầu óc duy lý giản đơn, với những con số thống kê, nhưng họ có biết
đâu rằng chuỗi những con số đó chính là những tín hiệu đã nằm ngay trong nền "văn
hoá sông nước" mà người nông dân từ đời này sang đời nọ vẫn đọc được.
Người nông dân bấy lâu đã biết nương theo sức mạnh của thiên nhiên để chung
sống. Văn hoá sông nước thực ra gồm bốn phần tương tác Sông-Biển-Châu
thổ-Con người cùng hòa nhập nhau theo từng nhịp đập.
Một ví dụ, chỉ riêng chuyện di
chuyển ghe thuyền trên sông, người nông dân biết tính trước khi nào thì cho ghe
xuôi theo con "nước ròng", khi nào thì ghe ngược theo con "nước
lớn", và cũng để thấy cấu trúc của lòng ghe bấy lâu là làm sao dùng
sức đẩy tối ưu của dòng chảy.
Và rồi trong tháng họ biết lúc nào
thì cho nước vào ruộng, khi nào thì xả, khi nào thì thả con giống cá tôm... mà
không cần tốn nhiều công sức, để phải dùng gầu tát nước hay phải dùng tới máy
bơm.
Chính nhịp đập của "mẹ thiên
nhiên / natural pulse" là bạn đồng hành thân thiết bấy lâu của họ. Và
nay thì bị phá vỡ và cắt đứt một cách thô bạo.
Cũng từ bao trăm năm, nông dân ĐBSCL
biết rất rõ là sông rạch nối liền với biển, có thủy triều lên nên mới có được
con nước lớn, và thủy triều xuống mới có con nước ròng, và cũng nhờ đó mà sông
rạch được làm sạch, có cá tôm và đã hình thành cả một nền văn hóa sông nước.
Chúng tôi cùng hiểu rằng: với cống
đập kia, con sông bị cắt làm hai: chỉ còn một bên ngọt, một bên mặn, mất hẳn
một vùng nước lợ / blackish. Bên trong không còn nước lớn, nước ròng mà sông
biến thành hồ tù đọng, tích lũy đủ mọi loại ô nhiễm, và không còn cá tôm. Bên
ngoài, hệ sinh thái ven biển cũng bị nghèo đi và nông ngư dân cho biết, từ ngày
có cống đập không còn đâu nguồn tôm cá phong phú của cả một vùng nước lợ. Đó là
chưa nói tới tình trạng gián đoạn giao thông trên sông.
Rồi anh Ni đưa ra một ví dụ rất
tượng hình: "Cũng giống như khai quật được một kho tàng cổ sử, người
không chuyên môn thì chỉ thấy được đó là những mảnh đá mảnh sành, cùng lắm là
thấy thêm được mấy nét vẽ ngoằn ngoèo vô nghĩa trên đó, nhưng với con mắt của
nhà khảo cổ thì khác, đó là dấu vết và tín hiệu của cả một nền văn minh."
Và tôi cũng hiểu rằng, bấy lâu với
các chuyên gia nông nghiệp từ ngoài Bắc vào, chưa từng chung sống và chết với
nền văn minh sông nước ấy, họ đã có những chánh sách can thiệp thô bạo chống
lại mẹ thiên nhiên để phải trả giá rất đắt và nạn nhân không ai khác hơn là
chính ngót 20 triệu cư dân phải ngày đêm sống với những bất cập ấy như hiện
nay.
Từ trên xuống: Cầu Hộ Phòng II là
cây cầu mới trên khúc đường vòng/ detour, (do quỹ ODA / Official Development
Assistance của Nhật xây 2011, còn Hộ Phòng I là cây cầu cũ thì nằm trên đường
thẳng của Quốc lộ). Đứng trên hướng ra Biển Đông TS Dương Văn Ni đang giảng về
"có một nền văn hoá nước lợ"; từ trái: TS Dương văn Ni, KS Phạm Phan
Long, TS Lê Anh Tuấn, TS Lê Phát Quới, giữa: cống đập chặn mặn không xa biển
trên con kênh Gành Hào, với bên ngọt bên mặn và một mai không còn đâu nét văn
hoá của một vùng nước lợ / blackish; phải: cống đập chặn mặn chặt đứt hệ sinh
thái biển và sông và cũng làm nghẽn mạch vận chuyển đường sông, kể cả với những
chiếc ghe nhỏ đuôi tôm.
[photo by Ngô Thế Vinh]
CÔNG TRÌNH CỐNG ĐẬP BA LAI: MỘT HỐI TIẾC
Hai Mươi Năm qua 1997-2017, lãnh đạo
Bộ Nông Nghiệp, qua nhiệm kỳ của 3 bộ trưởng:
1. Lê Huy Ngọ, nhiệm kỳ 7 năm,
1997-2004
2. Cao Đức Phát, nhiệm kỳ 12 năm,
2004-2016
3. Nguyễn Xuân Cường, nhiệm kỳ 2016
đương nhiệm
Họ đến từ miền Bắc đã và đang có
những quyết định phải nói là sinh tử với hệ sinh thái ĐBSCL, một vùng thổ
nhưỡng phải nói là rất xa lạ với họ.
Chỉ thấy đơn giản nơi ĐBSCL có triều
cường triều kiệt, coi nước mặn là kẻ thù nên đã có một chiến lược ồ ạt xây
những đại công trình mà người ta gọi là Cống Đập Ngăn Mặn, mà Cống đập Ba
Lai là một điển hình.
Được khởi công ngày 27.02.2000, dự
án công trình cống đập Ba Lai chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo
sang xã Tân Xuân (Ba Tri). Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Con đập
dài 544 m gồm 10 cửa với khẩu độ 84 m được vận hành bằng một hệ thống van tự
động hai chiều. Quy hoạch trên lý thuyết, thì cống đập Ba Lai có chức năng:
ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ cho 115,000 hecta đất trong đó có 88,500 hecta là
đất canh tác, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre
và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát
triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. [sic]
Hai năm sau, từ ngày 30.04.2002 cống
đập Ba Lai được đưa vào hoạt động, được vinh danh là một công trình thuỷ lợi
lớn nhất của ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 9 cửa của Cửu Long
chính thức bị ngăn lại.
Từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông
Ba Lai nhánh thứ 8 bị chính con người đóng lại. Cửa Ba Thắc đã bị bồi lấp từ cả
trăm năm nay, và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất Long. [photo
by Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị]
Tính cho tới nay, cống đập Ba Lai đã
vận hành được 16 năm [2002-2018], hiệu quả công trình Cống đập Ba Lai ấy ra
sao? Chỉ có những lời ta thán.
Hàng trăm cống ngăn mặn không đạt
mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch không có cống ngăn mặn đã
tập hậu nước mặn vào bên sau hệ thống cống đập đã xây.
Bến Tre nước ngọt khan hiếm, phải
dùng cả xe máy kéo để chở nước, có nơi dân phải mua 100,000 đồng / mét khối
nước [photo by Bình Đại, Zing VN 20.02.2016]. Bệnh viện lớn nhất tỉnh Bến Tre
thiếu nước ngọt. mỗi ngày được xe tải cung cấp 10 mét khối nước ngọt, chỉ đủ
cho các khoa phòng chia nhau từng lít nước.
[photo by Mậu Trường, TTO
14.03.2016]
Sông Ba Lai ngừng chảy. Thay vì biến
sông Ba Lai thành một hồ nước ngọt thì cư dân Bến Tre phải sống với nước sông
Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô. Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu
nước ngọt, đưa tới tình cảnh bệnh viện lớn nhất Bến Tre mỗi ngày được xe tải
cung cấp 10 mét khối nước ngọt chỉ đủ cho các khoa phòng chia nhau từng lít
nước, còn người dân thì sống trong tình trạng thiếu nước ngọt kinh niên, phải
mua nước ngọt có khi phải trả tới 100,000 đồng VN/ mét khối. [Tuổi Trẻ online
22.02.2016]
Giải thích của nhà nước về
"hiệu quả ngược" của công trình cống đập Ba Lai như hiện nay là: do
thiếu vốn để làm tiếp nhiều công trình khác tiếp theo, trong đó có hai hạng mục
quan trọng, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu thuyền* trên hai con sông
Giao Hoà và Chẹt Sậy vẫn tiếp tục đem nước mặn từ sông Cửa Đại đổ vào "hồ
nước ngọt Ba Lai".
*Âu thuyền / canal lock: là một từ tương đối
mới, chỉ một công trình chắn ngang sông hoặc kênh, có cửa hai đầu để tăng hoặc
giảm mực nước, giúp cho thuyền hay tàu đi qua nơi có mực nước chênh lệch nhiều.
Theo phóng viên TTXVN Phan Văn Trí,
trích dẫn: "Ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh cho biết để thi công
hai hạng mục đập và âu thuyền và một số hạng mục khác cần nguồn vốn khoảng 200
triệu USD. Vì vậy, tỉnh đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn tranh thủ nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản. Ông Trọng cũng cho
biết tổ chức JICA (Nhật Bản) đã đến Bến Tre khảo sát địa điểm xây dựng đập và
âu thuyền. Tuy nhiên, việc khởi công có thể còn phải chờ đến… năm 2020.
Dù gì thì hình ảnh những chiếc xe máy cày hay xe bò kéo chở nước đem đổi cho
người dân, với giá từ 70,000 đồng đến 100.000 đồng/m3, chắc chắn vẫn còn diễn
ra trong những mùa khô cho tới 2020. Điều đáng nói là nước đó được lấy từ những
chiếc giếng đào trên giồng cát, chưa qua xử lý…" [2]
Cửu Long Chín Cửa Hai Dòng nay chỉ còn có 7 cửa. Nam Thất
Nữ Cửu, như hình ảnh một ĐBSCL bị triệt sản. Bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre
mới có câu:
Ba Lai là cái cửa mình
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Một câu hỏi được đặt ra: với những
tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai - Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông
thôn, hay Bộ Tài Nguyên Môi trường hay chánh phủ trung ương sẽ nhận trách nhiệm
với phong cách "đem con bỏ chợ" như hiện nay, phải chờ cho
tới 2020 cho đến khi ODA của Nhật chịu rót vốn vào?
Từ bài học thất bại của đại công
trình cống đập Ba Lai, nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi sinh như một "think
tank" đã không ngừng lên tiếng cảnh giác rằng: nếu không có một đánh
giá môi sinh chiến lược cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình
hình hạn mặn, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập
chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái và hậu quả
sẽ khôn lường.
Khảo sát của nhóm IUCN /
International Union for Conservation of Nature Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên
nhiên tại VN đưa ra nhận định là do hệ thống cống đập khiến hai bên bờ sông Ba
Lai đang khép lại dần.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện
Nghiên cứu Biến đổi Khí hận, ĐH Cần Thơ đã dùng một cụm từ rất gợi hình để chỉ
hệ thống cống đập Ba Lai khi ông gọi đó là "dòng sông bị cưỡng
bức." Sông nay biến thành hồ chứa, ô nhiễm thì tích lũy nước đổi màu
do rong tảo sinh sôi phía trong cống đập.
Th.S Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia về
nước ngập/ Wetlands cho rằng hàng năm vào mùa mưa do lượng nước mùa lũ đổ về,
toàn thể phù sa trong lượng nước đó sẽ lắng xuống đáy sông Ba Lai - nay trở
thành hồ và với thời gian sông Ba Lai sẽ chết hẳn do bị bồi lấp. [1]
Khi đưa ra cái nhìn toàn cảnh hiện
trạng và tương lai ĐBSCL, các anh trong đoàn đưa ra một cái nhìn tổng quan
không mấy lạc quan:
Đất bị mất do sạt lở bờ sông bờ
biển, trong những năm gần đây, đất bị lún với tốc độ 10 lần nhanh hơn so với
nước biển dâng, và đất đai còn lại thì bị vắt kiệt. Sông ngòi ô nhiễm đủ thứ,
từ nước thải sinh hoạt, công nghiệp, thủy sản đổ thẳng vào sông, cũng như lượng
lớn phân bón, thuốc trừ sâu từ nông nghiệp do 3 vụ thâm canh.
Theo một nghiên cứu về lịch sử đất
lún do nhà khoa học Minderhoud và một nhóm chuyên gia Hà Lan, Hoa Kỳ và Việt
Nam thực hiện công bố năm 2017 trên Environmental Research Letters, độ
lún và vận tốc lún tại châu thổ ĐBSCL đã xuống sâu 25 cm và thậm chí đến 50 cm
theo biểu đồ KS Phạm Phan Long trích dẫn chú thích và cung cấp sau đây. [Hình
10]
Trong những thập niên tới, biển dâng
được dự đoán với vận tốc 5 cm/năm, như vậy mặt đất thấp sẽ thấp dần dưới mặt
biển có thể đến 1 m trong vòng 100 năm nữa. Trước tác động kép do sinh hoạt con
người và do biến đổi khí hậu, ĐBSCL sẽ rơi vào tình huống xấu nhất toàn cầu. Một
đối sách có tên “ASR, aquifer storage and reuse” đang được Viet Ecology
Foundation đề bạt thảo luận là lọc và trữ nước ở những túi rỗng ngầm, vừa ngăn
mặn tập kích vào thềm lục địa, vừa có nước ngọt sinh hoạt canh tác và tránh cho
mặt đất tiếp tục lún xuống.
Biểu đồ độ lún và vận tốc đất lún
trong 25 năm tại Đồng Bằng Sông Cửu Long. [nguồn: Environ.Res.Lett. 12 (2017)
với ghi chú của KS Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation].
Hiện nay, rất
nhiều giếng tầng nông và bơm bằng tay đều bị nhiễm mặn nhiễm phèn, nước giếng
không còn dùng được, và nay người nông dân phải khoan sâu 400-500m để tìm được
nguồn nước ngọt, mặt bằng ĐBSCL đang bị sụt lún nhanh chóng vì các tầng nước
ngầm đang bị tận cùng khai thác.
Đã thế nhiều sông ngòi, bị kế hoạch
cống đập đã biến sông rạch thành hồ tù đọng, tích lũy ô nhiễm. Nước sông ngòi
không còn dùng được phải chuyển sang xài toàn nước ngầm nên tầng nước ngầm cũng
cạn kiệt nhanh và đất lún.
Còn có hiện tượng "tỵ nạn
môi sinh/ ecological refugees" của người dân ĐBSCL rời bỏ quê hương đi
tới vùng đất khác, tha phương cầu thực. Con số gần 2 triệu người đã đi khỏi
vùng đất này trong hai thập niên qua thì phải có những lý do như môi trường
sống bị suy thoái, nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt.
Thủy điện thượng nguồn từ Vân Nam
Trung Quốc rồi Lào làm mất ngót 90% nguồn phù sa, không có gì thay thế; biến
đổi khí hậu với nước biển dâng có thể phần nào thích ứng nhưng còn vấn đề
phát triển tự huỷ / destructive development do tự mình gây ra đang là một nan
đề lớn do chính sách "duy lý và thiếu tầm nhìn chiến lược" đến từ
trung ương đã gây nhiều tổn thương cho ĐBSCL, gây trở ngại cho phát triển.
TỪ CỐNG ĐẬP BA LAI TỚI SÔNG CÁI LỚN - SÔNG CÁI BÉ
Bài học thất bại của công trình thuỷ lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé [SCL-SCB] tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm hoạ trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Bài học thất bại của công trình thuỷ lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé [SCL-SCB] tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm hoạ trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Rõ ràng có những khoảng chống của Dự
án Cống đập SCL-SCB và các câu hỏỉ:
1/ Chỉ nghe nói, bản nghiên cứu đánh giá tác động môi trường [ĐTM/
EIA] về Dự án Cống đập SCL-SCB là do Viện Kỹ Thuật Biển thuộc Viện
Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện, nhưng không thấy công bố ở đâu
hết, với sự không minh bạch / transparency như vậy thì làm sao có được sự góp
ý của giới chuyên gia.
2/ Dự án SCL-SCB bao giờ khởi công
và tình hình tới đâu chỉ diễn ra sau những cánh cửa Bộ NN & CTNT ngoài ra
không có ai được biết tới để có thể theo dõi.
3/ Và cũng là điều vô cùng ngạc
nhiên là với gần 2 triệu người di cư ra khỏi ĐBSCL trong hai chục năm qua,
nhưng vẫn chưa hề có cuộc điều tra cơ bản nghiên cứu về những nguyên nhân ra
đi của họ.
Sơ đồ dự án hệ thống cống đập chắn
mặn trên Sông Cái Lớn-Sông Cái Bé, sẽ tác động trên 1/4 diện tích toàn ĐBSCL và
ảnh hưởng tới đời sống hơn một triệu cư dân trong vùng. (6) [nguồn: Ánh Sáng và
Cuộc Sống]
Rõ ràng Dự án cống đập Sông SCL-SCB
đã thiếu hẳn một đánh giá chiến lược tác động môi trường [ĐTM/ EIA/
Environmental Impact Assessment] toàn diện và khách quan, bị ảnh hưởng bởi quan
điểm của chủ đầu tư/ nhóm lợi ích chỉ để nhằm biện minh cho sự cấp thiết của dự
án, trong khi mà ai cũng biết là dự án sẽ tác động tới toàn hệ sinh thái
của cả một vùng rộng lớn chiếm 1/4 tổng diện tích của ĐBSCL [hơn 1 triệu
hecta], ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư
dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có giải
pháp rốt ráo. Và khi đã gây huỷ hoại trên hệ sinh thái thường rất khó đảo
nghịch.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Việt trưởng Viện
Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ [Viện DRAGON] nhận định: cắt đứt trao
đổi nước giữa sông và biển chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới canh tác sản
xuất của nông dân quen sống theo nhịp thuỷ triều, giảm nguồn thuỷ sản bên trên
và bên ngoài cống đập, và do nước tù đọng sẽ tích luỹ mọi ô nhiễm.
Một chuyên gia Khoa Môi trường và
Tài nguyên Thiên nhiên ĐH Cần Thơ, nhận định về sự khác biệt của hai chế độ
thủy triều phía Biển Đông và Biển Tây. Phía Biển Đông là bán nhật triều: nước
lên xuống ngày 4 lần, trong khi Biển Tây là chế độ nhật triều, nước lên xuống
ngày hai lần. Riêng vùng Tây Nam Sông Hậu chế độ thủy văn phúc tạp hơn nhiều,
chịu ảnh hưởng của cả hai chế độ nhật triều và bán nhật triều khác nhau. Trong
khi các cống đập hiện nay chỉ vận hành theo một mô hình thô thiển: đóng cổng
đập khi triều cường, mở cổng đập khi triều kiệt. Hệ thống cống đập trên SCL-SCB
sẽ gây rối loạn cho chế độ thuỷ văn vùng này, làm "mất lực hút-đẩy"
của chế độ thuỷ văn thiên nhiên [sic] nước sẽ tù đọng tích luỹ ô nhiễm từ các
chất thải nông ngư nghiệp, kỹ nghệ và cả nước thải không được xử lý đổ xuống từ
các khu gia cư.
NHÂN DÂN TỈNH LONG AN ĐÃ MỘT LẦN NÓI KHÔNG
TS Lê Phát Quới, người Long An,
giảng dạy tại Khoa Tài nguyên & Môi Trường ĐH Quốc gia TP HCM, anh có giọng
nói lớn, có nét trực tính của người dân Nam Bộ, anh nói: "Sau công
trình cống đập Ba Lai, trung ương có kế hoạch xây thêm hệ thống cống đập trên
cửa con sông Vàm Cỏ là kết nối của hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây thuộc
tỉnh Long An. Anh Lê Phát Quới thuật lại: "Trong một cuộc họp với trung
ương và cấp lãnh đạo tỉnh cùng với các nhà khoa học - trong đó có thằng Quới,
anh tự gọi mình là thằng, cuộc họp có cả ông Sáu Dân tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt
lúc đó. Khi tỉnh Long An được hỏi ý kiến, thì lãnh đạo tỉnh đã có câu trả lời:
sau khi phái đoàn tỉnh đi thăm cống đập Ba Lai trở về, sau khi tham khảo ý kiến
nhân dân, thì toàn thể nhân dân Long An có câu trả lời là không. Lưu ý
các anh, là câu trả lời không phải từ tỉnh uỷ hay uỷ ban nhân dân mà là toàn
dân tỉnh Long An nói không. Nếu nói là tỉnh uỷ hay uỷ ban nhân dân, thì trung
ương có thể dùng quyền lực đảng hay quyền lực trung ương để áp đặt, nhưng là tiếng
nói của toàn thể nhân dân Long An thì khác. Và rồi sau đó, kế hoạch bị gác
lại."
Anh Lê Phát Quới đi tới kết luận: "nếu
cứ để thực hiện hệ thống cống đập trên con Sông Vàm Cỏ thì không biết tai họa
cho toàn hệ sinh thái tỉnh Long An sẽ khủng khiếp như thế nào." Và anh
Quới không dấu được nét hãnh diện về tiếng nói ngăn chặn kịp thời của nhân dân
tỉnh hạt mình.
UỶ HỘI MEKONG VN, VẪN MÃI MỘT ĐỊA CHỈ NGHỊCH LÝ
Từ sau 1975, đất nước này nói chung
trong đó có ĐBSCL đang được điều hành với những "đầu óc nghịch lý".
Đứng từ trên một chiếc phà đi ngang
nhánh sông Trần Đề để qua Cù lao Dung, trong ráng chiều chập choạng của hoàng
hôn, tôi qua sang hỏi một anh trong đoàn: "Hỏi thật lòng anh, là hiện
nay người dân ĐBSCL có cảm thấy hạnh phúc hơn không so với trước 1975."
Chỉ có một câu trả lời khẳng định, nếu có thì là các gia đình không còn bị ly
tán và đất nước không còn chiến tranh.
Tôi đã không hỏi anh thêm nữa vì
thực sự không có được câu trả lời đơn giản. Riêng tôi thì vẫn cứ bị ám ảnh với
con số đã có 2 triệu người phải từ bỏ quê hương ĐBSCL đi tìm kế sinh nhai. Cách
biện minh là với 2 triệu người bỏ đi nhưng cũng có 700 ngàn người mới tới,
không phải là một câu trả lời rốt ráo.
Vẫn một địa chỉ nghịch lý: Uỷ Hội
Quốc gia Sông Mekong Việt Nam, vẫn từ bao năm, vẫn toạ ngự tại địa chỉ 23 phố
Hàng Tre Hà Nội, nơi châu thổ Sông Hồng cách xa ĐBSCL hơn 1,600 km, thay vì là
Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu, ĐH Cần Thơ.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Từ hơn hai thập niên, người viết đã
không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ của những con đập khổng lồ Vân Nam của
Trung Quốc rồi tới chuỗi 9 đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án
đập của Cambodia: ngoài những hậu quả rối loạn về dòng chảy, mất nước nơi các
hồ chứa và nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa, dẫn tới nguy cơ của một tiến
trình đảo ngược khiến một ĐBSCL đang dần dần tan rã.
Những mối nguy cơ từ thượng nguồn,
gần như không làm gì được. Nhưng quá trình phát triển tự huỷ / destructive
development ngay nơi ĐBSCL trong mấy thập niên qua cũng phải kể là những hệ luỵ
tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên sự sống còn của cả một vùng châu thổ. Có thể
kể, từ sau 1975:
_ Xây đê đắp đập chắn lũ mở rộng khu
gia cư để làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước thiên nhiên Tứ Giác Long Xuyên và
Đồng Tháp Mười.
_ Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá
vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái ĐBSCL biến sông rạch thành một hệ
thống hồ ao tù đọng.
_ Xây dựng 14 nhà máy nhiệt điện
than nơi ĐBSCL gây ô nhiễm đất, nước, không khí trên toàn vùng.
Phát triển với những bước không bền
vững / unsustainable development như trên đã làm tổn thương trên toàn hệ sinh
thái ĐBSCL và các nguồn tài nguyên thì cứ nghèo dần đi.
Để thay kết luận, người viết gửi tới
ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, người thay thế Bộ trưởng Cao Đức
Phát sau 12 năm tại nhiệm, câu trích dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một
sinh viên vào học Y khoa: Primum Non Nocere / First do no harm / trước
hết là không gây hại. Mọi kế hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một
lượng giá chiến lược ảnh hưởng môi trường [ĐTM] khách quan, với tổn phí hàng
ngàn tỉ đồng mà còn gây hại cho toàn hệ sinh thái vốn đã quá mong manh/ fragile
của một vùng châu thổ mà trước đây đã từng được đánh giá là phong phú và giàu
có nhất trên hành tinh này.
Qua kinh nghiệm 16 năm vận hành của
hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với
quyết tâm làm đê ngăn mặn nhưng nước sông rạch bên trong vẫn không thể dùng
được cho sinh hoạt, những công trình như thế còn khiến nước bên trong bị ô
nhiễm nghiêm trọng vì dòng chảy không lưu thông, tù đọng. Xây dựng cống đập Ba
Lai đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm - nếu có thiện chí sửa sai, thì
việc phá bỏ, làm sạch môi trường và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng sẽ rất
tốn kém và không thể mau chóng và không phải là dễ dàng.
Tiếp tục biện pháp xây dựng công
trình cống đập ngăn mặn rất tốn kém sẽ cắt đứt thô bạo mối liên hệ cân bằng hệ
sinh thái sông - biển - đồng bằng, qua công trình cống đập Ba lai đã chứng minh
là không tạo được lợi ích và giải quyết được chuyện gì cho cư dân ĐBSCL mà còn
đảo lộn điều kiện thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh thái của cả một vùng châu thổ.
Như một nhắc nhở và nhấn mạnh, người
viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể với Thủ Tướng chánh phủ kiến tạo
Nguyễn Xuân Phúc: hãy cho hoãn ngay Dự án xây hệ thống cống đập Sông Cái Lớn
- Sông Cái Bé một thời gian/ time frame ít nhất là 5 năm, trích 5% ngân
sách 3,300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập ngay một nhóm nghiên cứu ĐTM độc
lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hoà Lan, họ đã có kinh nghiệm và có công
lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ bản cho ĐBSCL], và bảo đảm rằng
Đánh giá Tác động Môi trường được thực hiện một cách công tâm, thận trọng bởi
những người không có liên hệ gì tới chủ đầu tư hay nhóm lợi ích, để sau
thời gian 5 năm đó, nhà nước sẽ có được một bản tường trình lượng giá ảnh
hưởng môi trường đầy đủ khách quan và minh bạch, với tất cả mọi tình huống pros
& cons để từ đó mới có quyết định "nên hay không nên"
triển khai dự án được mệnh danh là công trình của Thế Kỷ ấy. Cũng trong bản
tường trình ấy, cũng không thể thiếu phần điều tra cơ bản về nguyên nhân nào đã
khiến 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương ra đi tìm kế sinh nhai. Được
như thế thì sẽ phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 về ĐBSCL
[17/11/2017] trong đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh nguyên tắc:
“thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo
vào thiên nhiên.”
NGÔ THẾ VINH
ĐBSCL 12.2017 - 02.2018
Tham Khảo:
1/ Có còn con sông nước lớn, nước
ròng? Lê Quỳnh. Báo Người Đô Thị online Thứ hai, 20/06/2016
http://nguoidothi.net.vn/co-con-con-song-nuoc-lon-nuoc-rong-4042.html
2/ Thiếu vốn, dự án ngọt hóa sông Ba
Lai trở thành ... mặn quá. Phạm Văn Tri, TTXVN 06.08.2016
https://baomoi.com/thieu-von-du-an-ngot-hoa-song-ba-lai-tro-thanh-man-qua/c/20027474.epi
3/ Chuyên gia đề nghị tạm dừng dự án
thuỷ lợi 3,300 tỷ đồng ở Miền Tây. Huỳnh Xây, Dân Việt, 03.06.2017
http://danviet.vn/nha-nong/chuyen-gia-de-nghi-tam-dung-du-an-thuy-loi-3300-ty-dong-o-mien-tay-775724.html
4/ Phát triển ĐBSCL: Tốn tiền tỷ mà
trái quy luật thì trả giá đắt. Nguyễn Hữu Thiện; VietnamNet 27.11.2017 http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/moi-truong/phat-trien-dbscl-ton-tien-ti-ma-trai-quy-luat-thi-tra-gia-dat-413188.html
5/ Ngăn đập sông Cái Lớn - Cái Bé:
ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Phạm Anh; Tiền Phong 02.06.2017
https://www.tienphong.vn/xa-hoi/ngan-dap-song-cai-lon-cai-be-dbscl-se-bi-anh-huong-khong-nho-1154506.tpo
6/ Băn khoăn xây cống Cái Lớn – Cái
Bé, Sáu Nghệ; Ánh Sáng và Cuộc Sống; 26.06.2017 http://anhsangvacuocsong.vn/ban-khoan-xay-cong-cai-lon-cai/
SOURCE:
https://www.voatiengviet.com/a/song-me-kong-uy-hoi-ngo-the-vinh-dong-bang-song-cuu-long/4249106.html
No comments:
Post a Comment