- Tác giả Sơn Nam
https://drive.google.com/drive/folders/0B7vxHAQlq7jzMUhXM2V6QkV5MUk
.Trích đoạn sách "LỊCH SỬ KHẨN HOANG MIỀN NAM"
Đồng bằng sông Cửu Long,
Ménam và Irraouaddi là ba trung tâm sản xuất lúa gạo, có dư để xuất cảng,
quan trọng nhứt trên thế giới. Việt Nam, Xiêm, Miến Điện gồm đa số dân sống bằng
nghề nông. Ba quốc gia này liên ranh, nằm trong khu vực gió mùa với những
nét lớn giống nhau:
— Lãnh thổ phát triển lần hồi
từ Bắc xuống Nam.
— Biết làm ruộng cấy ở đồng
sâu, nhờ đó mà sản lượng đạt mức cao so với ruộng tỉa ở đất khô.
— Mức sống thấp kém.
Nam tiến không phải là mãnh lực
huyền bí của riêng dân tộc Việt Nam. Những dân tộc chịu ảnh hưởng ấn độ vẫn
đạt được kỹ thuật cày sâu cuốc bẫm không kém nước ta. Việc tôn thờ rắn thần
và rồng để cầu mưa, vài môn giải trí như thả diều, trai gái đối đáp nhau
nào phải chỉ xảy ra ở Việt Nam.
Dân Việt gặp dân Miên vốn có
nền văn hóa cổ kính khá cao. Vào thế kỷ 13, người Miên đã tìm ra giống
lúa và dẫn thủy nhập điền thích ứng giúp họ thâu hoạch 3 hoặc 4 vụ trong
một năm. Cuộc Nam tiến của người Xiêm, người Miến Điện gặp hoàn cảnh khá tốt về
địa lý, hai con sông Ménam và Irraouaddi thuận lợi cho việc thông thương, trong khi Hồng Hà và sông Cửu Long có nhiều
thác đá. Từ hạ lưu sông Hồng, dân Việt len lỏi theo mấy cánh đồng nhỏ
bé dọc theo bờ biển Đông nhiều giông tố để lần hồi đến hạ lưu sông Đồng Nai,
sông Cửu Long.
Tuy là đặt chân trên đất Cao
Miên nhưng đối thủ đáng nể của người Việt đi khẩn hoang lại là người Xiêm đang
nuôi tham vọng đô hộ vùng Vạn Tượng, Cao Miên và Mã Lai. Xiêm quốc lúc bấy
giờ đang thời hưng thịnh, với tướng giỏi, quân sĩ có kinh nghiệm về chiến đấu
đường bộ và đường thủy.
Người Việt đã giữ được thế chủ
động trong hoàn cảnh gay go.
Khi đặt chân ở đồng bằng sông
Cửu Long, nước Việt bị chia cắt từ sông Gianh, công trình khẩn đất và giữ đất
lúc đầu chỉ do một số dân từ Quảng Bình trở vào gánh vác. Bấy giờ, ưu thế của
người Việt không là kỹ thuật canh tác cao, nhưng là ưu thế về tổ chức
chính trị và quân sự. Bộ máy hành chính khá hoàn hảo đã giúp chúa Nguyễn
theo dõi được tình hình ở những địa phương xa xôi, quân đội có thể tập
trung khá nhanh khi cần thiết. Đơn vị xã hội nhỏ nhất là thôn ấp đủ khả năng tự
trị, các tổ chức đồn điền có thể tự quản trị về kinh tế và an ninh.
Quân đội Xiêm hùng mạnh,
nhưng đi xa thì mất hiệu năng. Nước Cao Miên bấy giờ quá suy nhược, vua
chúa kém năng lực chỉ biết cầu viện với ngoại bang, dân chúng thì ly tán:
người Xiêm thường lùa bắt từng loạt dân Cao Miên đem về xứ họ để làm nông nô phục
dịch.
Vua chúa Việt Nam thúc đẩy việc
khẩn hoang vì những lý do sau đây:
— Mở rộng địa bàn thống trị,
đất rộng, dân giàu thì kinh đô được bảo vệ chu đáo hơn.
— Thuế điền và thuế đinh gia
tăng nhanh chóng.
— Nạn đói kém được giảm thiểu,
nơi này thất mùa, nơi kia bù lại, ít có nguy cơ nội loạn.
— Dân số gia tăng, thêm lính
tráng, thêm dân xâu.
Bộ Đinh và bộ Điền tiêu biểu
cụ thể cho nhân lực, tài lực. Với binh sĩ giữ gìn bờ cõi và trấn áp nội loạn, với
tiền bạc và nhân công làm xâu, vua chúa tha hồ phung phí, sống xa hoa, xây đắp
cung điện lăng tẩm, ưu đãi người trong giòng họ, mua chuộc quan lại, để
ngôi vị được ổn định, chống các âm mưu ly khai ở địa phương.
Về phía dân chúng, khẩn hoang
là việc tích cực, không phải là hưởng thụ, thụ động, chờ thời vận.
Phải có yếu tố thiên nhiên
tương đối thuận lợi, đất quá thấp thì lúa dễ bị ngập, quá cao thì gặp nạn
thiếu nước. Từ nơi cư trú đến thửa ruộng, đường đi phải gần để khỏi phí
thì giờ lui tới, lúa đem về nhà không mất nhiều công lao và phí tổn chuyên
chở.
Đủ nước ngọt để uống, nấu cơm
và cho trâu bò uống.
Gia đình đủ vốn liếng, đủ lúa
gạo ăn trong khi chờ lúa chín. Lại còn quần áo, tu bổ nhà cửa, thuốc uống,
trầu cau, lúa gạo để nuôi heo gà, ghe xuồng, nông cụ. Thêm vào đó, còn yếu
tố xã hội vì làm ruộng đòi hỏi sự hợp quần cần thiết:
— Sức một người, một gia đình
chỉ có giới hạn. Một khoảnh ruộng ở giữa tư bề đất hoang thì hoa mầu sẽ bị
chim chuột từ các vùng lân cận tập trung lại phá nát. Năm bảy gia đình góp
sức canh tác liên ranh nhau thì sự tổn thất vì chim chuột được giảm thiểu.
— Mùa cấy tuy là co giãn, xê
xích mươi ngày nhưng nằm trong thời gian quy định. Cấy quá sớm, thiếu nước,
cấy quá trễ, cây lúa mọc không kịp nước mưa. Mỗi người chỉ có thể cấy chừng
4 mẫu tây trong một mùa mà thôi, đàn bà lo cấy ở nơi này thì đàn ông lo dọn đất
ở nơi kia. Dọn đất cấy quá sớm, cỏ mọc trở lại, trì hoãn thì nước trong ruộng
lên cao, không dọn đất được. Lúa chín mà gặt trễ chừng năm bảy ngày là hư hao.
Phát cỏ, cấy lúa, gặt lúa đòi
hỏi sự tập trung nhân công, mướn hoặc đổi công, theo lịch trình không được bê trễ.
Phải nhờ người lân cận hoặc ở địa phương khác đến. Ngay trong một khoảnh
đất nhỏ, mặt đất chưa bằng phẳng, nơi cao nơi thấp, việc đắp bờ, tát nước vẫn
là công trình của nhiều người.
Vùng định cư để khẩn hoang cần
liên lạc với vùng phụ cận dễ dàng để giải quyết vấn đề nhân công. Trong một
ấp, nhà này không được ở quá xa nhà kia. Gần thôn ấp, phải có nơi bán tạp
hóa, có người cho vay, người tiêu thụ lúa. Việc sanh đẻ, cưới hỏi, may chay
đòi hỏi các phương tiện tối thiểu. Nhà cửa, tính mạng người dân phải được
bảo vệ, chống trộm cướp, loạn lạc. Lại còn nhu cầu học vấn, nhu cầu về
tâm linh với đình, chùa, miễu, hát xướng.
Đơn vị tối thiểu về xã hội vẫn
là một làng.
Khẩn hoang đòi hỏi nhiều yếu
tố căn bản. Khẩn hoang ở đồng bằng sông Cửu Long là cuộc vận động lớn, toàn diện
về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa.
Vua chúa quy định chính sách
điền địa, thuế khóa, quân dịch và thưởng phạt. Tùy nhu cầu mà có khi quân
sĩ, lưu dân và tù nhân phải đóng đồn, lập ấp, cày cấy ở nơi mất an ninh.
Đất kém mầu mỡ, khó canh tác nhưng chính quyền lại cưỡng bách đến định cư. Có
những giai đoạn, những khu vực mà chính phủ kiểm soát chặt chẽ việc khẩn
hoang, nhưng cũng có lúc người dân được dễ dãi. Nhiều vùng đất tuy người
Cao Miên chưa chánh thức nhượng cho ta nhưng dân ta đã đến khẩn hoang, hoặc
ngược lại, đã nhượng từ lâu nhưng vẫn còn hoang phế.
Cuộc vận
động phối hợp quân sự, chính trị và kỹ thuật này có thể chia ra từng thời kỳ:
1) Từ các chúa Nguyễn đến những
năm cuối đời Gia Long: Khai khẩn vùng đất phù sa tốt, đất giồng ven sông, đất
cù lao theo nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia.
Còn lại các vùng nước ngập
sâu vào mùa mưa, đất quá phèn, rừng Sác. Vùng người Miên tập trung, trên
nguyên tắc thì để nguyên vẹn (Rạch Giá, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc).
Thành lập các trấn Biên Hòa,
Gia Định, Định Tường và Vĩnh Thanh.
2) Từ cuối đời Gia Long tới
cuối đời Minh Mạng: Khai khẩn phía hữu ngạn Hậu Giang, nối qua vùng đồi
núi Thất Sơn, vì nhu cầu xác định biên giới Việt Miên. Khai khẩn vùng đồi núi,
vùng đất thấp, canh tác những lõm đất nhỏ mà cao ráo, giữa vùng nước ngập
lụt.
Thành lập tỉnh An Giang, tách
ra từ trấn Vĩnh Thanh.
3) Từ đời Thiệu Trị tới đời Tự
Đức: Khai khẩn những điểm chiến lược, nhằm đề phòng nội loạn ở phía Hậu
Giang, chánh sách đồn điền được thúc đẩy mạnh.
Thực dân Pháp đến, nhằm mục
đích bóc lột nhân công rẻ tiền, và xuất cảng tài nguyên, đã thực hiện được vài
việc đáng kể:
1) Cho đào kinh để chuyên chở
lúa gạo, giúp giao thông vận tải được dễ dàng, đồng thời rút bớt nước vào
mùa lụt từ Hậu Giang ra Vịnh Xiêm La. Vùng đất phèn, tạm gọi là phù sa mới,
không còn bị nước ngập quá cao. Việc chuyên chở sản phảm về Sài Gòn ít tốn kém
hơn trước.
Thành lập các tỉnh mới: Rạch
Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, vùng này trở thành nơi dư lúa gạo, nhờ
dân ít mà mức sản xuất cao. Khai khẩn rừng tràm và đồng cỏ.
2) Thúc đẩy việc làm ruộng sạ,
nhờ chọn các giống lúa thích hợp hơn, giúp vùng đất thấp ở Long Xuyên,
Châu Đốc và Đồng Tháp Mười canh tác được. Còn lại là vùng rừng Sác Cần Giờ,
rừng Đước Cà Mau, vùng than bùn U Minh, vùng đất quá nhiều phèn chung
quanh Hà Tiên và Đồng Tháp Mười.
3) Lập đồn điền cao su ở miền
Đông.
Năm 1658, khi còn bận rộn
giao tranh với chúa Trịnh ở phương Bắc, chúa Hiền cho quan Khâm mạng đến Trấn
Biên dinh (Phú Yên) đem 2000 quân đến Mỗi Xui (Mô Xoài) để đánh phá, bắt vua Nặc
Ông Chân giải về Quảng Bình. Khi ấy ở Mỗi Xui (vùng Bà Rịa ngày nay) và ở Đồng
Nai, “đã có lưu dân của nước ta đến sống chung lộn với người Cao Miên khai khẩn
ruộng đất. Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình đem nhượng hết cả đất
ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì”.
Về phía Vịnh Xiêm La,
khoảng năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch
Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát
mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành,
sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.
Trần Thắng Tài (Đồng
Nai), Dương Ngạn Địch (Mỹ Tho), Nguyễn Hữu Cảnh (Tiền Giang), Nguyễn Cửu Vân
(Vàm Cỏ), Mặc Cửu (Hà Tiên) và quân dân đã đi những bước tiên phong trong thời
gian ngắn. Nhóm di thần nhà Minh và dân Việt thật sự làm ruộng và định cư nơi đất
lạ.
Chúa Nguyễn nắm nguyên
tắc căn bản là phát triển các đơn vị hành chính liền ranh nhau. Thoạt tiên dinh
Trấn Biên đóng ở vùng Phú Yên. Năm 1698, chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đặt ra Gia Định
phủ gồm có:
— Xứ Đồng Nai làm huyện
Phước Long, dựng dinh Trấn Biên.
— Xứ Sài Gòn làm huyện
Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn;
Rồi lần hồi, vùng Long
Hồ nối vào đất Gia Định, vùng Mỹ Tho nối vào Gia Định, vùng An Giang nối vào
Long Hồ (Vĩnh Long). Lúc Hà Tiên quá suy sụp, năm 1805 (đời Gia Long) dinh Vĩnh
Trấn (Vĩnh Long) cai quản từ hữu ngạn Tiền Giang đến Rạch Giá, Cà Mau, tức Vịnh
Xiêm la để rồi năm 1810 trả lại cho trấn Hà Tiên như cũ.
Vùng
Bến Nghé Sài Gòn: nòng cốt của Gia Định
Đây là vùng đất giồng ở sông Sài Gòn, rạch Thị
Nghè lên Hốc Môn, Gò Vấp; vùng Chợ Lớn ngày nay ăn xuống Bình Điền, Bình Chánh;
Gò Đen, nối liền đến Cần Đước, Cần Giuộc, những giồng thuận lợi để làm ruộng và
làm rẩy. Nếu vùng cù lao Phố được ưu thế là có nước ngọt quanh năm, thì vùng
Sài Gòn lại bị ảnh hưởng nước mặn từ biển tràn vào, giồng cao ráo, đào giếng có
thể gặp mạch nước ngọt, phần còn lại là đất quá thấp.
Nhưng
nơi
thuận tiện cho việc canh tác phải kể là vùng Cần Giuộc,
Cần Đước. “Gạo Cần Đước nước Đồng Nai” nổi
danh là ngon và trong mát. Vùng ven biển Nam kỳ (trừ ra rừng Sác - Cần Giờ và rừng
Đước mũi Cà Mau) còn nhiều đất rất tốt. Bên kia Cần
Đước là Gò Công với nhiều giồng và đất phù sa ở
bờ Cửa Đại, Ba Lai (trở thành vựa lúa quan trọng đời Gia Long).
Vùng
Ba Giồng: nòng cốt của Định Tường
Sông Cửu Long
khác hơn sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ. Hằng năm, Cửu Long có nơi nước lụt tràn
bờ. Đất giồng ven bờ sông, đất cù lao ở Cửu Long khác hơn mấy gò ở gần Đồng
Nai. Vùng Cửu Long đất thấp, đào xuống vài lớp xuổng là gặp nước, việc trồng
cây ăn trái lại dễ dàng, khỏi tưới. Múc nước giếng, hay gánh nước từ mé rạch
lên nhà, lên rẫy lại ít tốn công. Bờ Cửu Long thường có bãi bùn, bồi đắp nhanh
chóng, đất cù lao lan ra trong vài năm là thấy cuộc biển dâu.
Vùng
Long Hồ: nòng cốt của Vĩnh Long, An Giang
Phía
cù lao Bảo có tám giồng, phía cù lao Minh có 11 giồng. Đặc điểm của những giồng
này
là chịu ảnh hưởng nước lớn nước ròng do thủy triều, nhưng không bao giờ bị ngập
vào mùa
lụt của sông Cửu Long.
Kinh nghiệm
cho thấy rằng con đường từ Hậu giang lên Cao Miên quá xa, không thuận bằng đường
Tiền giang, phía Vĩnh Long. Cù lao Hoằng Trấn ở Hậu giang được khai thác sớm,
còn mang tên là cù lao Tân Dinh, gợi lại hình ảnh của dinh Long Hồ ngày trước.
Giữa Tiền giang và Hậu giang, có nhiều sông rạch lớn nhỏ liền lạc nhau lại còn
nhiều giồng đất tốt, quanh năm nước ngọt, mùa nước lụt không ngập (vùng Sa
Đéc). Những cù lao trên sông Tiền, sông Hậu đều đáng giá, nhiều cù lao vừa rộng
vừa dài, đất biền chung quanh cù lao rất màu mỡ, năng suất cao: cù lao Dung, cù
lao Trâu, cù lao Dài, cù lao Giêng, cù lao Mây, cồn Bình Thủy, cù lao Năng Gù.
So với sông Vũng Gù (Vàm Cỏ Tây) luôn cả sông Đồng Nai thì Tiền giang và Hậu
giang đất tốt hơn, khí hậu khá lành.
Sơ
kết thành quả -Thương cảng Sài Gòn thành hình và phát triển:
Trước
1776, thương cảng lớn nhất của miền Nam là cù lao Phố.
Sài Gòn được ưu thế là
gần vùng Mỹ Tho và Long Hồ. Việc chuyên chở lúa gạo và sản
phẩm từ Tiền giang tuy
khó khăn nhưng lúc bấy giờ kinh rạch vẫn tương đối thuận lợi cho loại ghe có sức
trọng tải nhẹ. Nhìn trên bản đồ, ta thấy sông rạch chằng chịt ; vào mùa mưa nước
sông tràn đầy, nhưng mùa nắng thì nhiều khúc không lưu thông được, hoặc lưu
thông khó khăn phải sang qua ghe nhỏ, kéo bằng sức người hoặc sức trâu, sông rạch
lại quanh co, không đủ nhân công để vét. Công trình đào kinh khởi đầu với sáng
kiến của Nguyễn Cửu Vân để cố gắng nối liền sông Vũ Gù (Vàm Cỏ Tây) qua sông Mỹ
Tho tức là Vàm Cỏ Tây qua Tiền giang, sau lại đào sâu thêm. Tuy nhiên, vì có
giáp nước khiến phù sa hai đầu dồn vào nên bị cạn, thuyền to phải chờ khi nước
lớn mới qua lại được. Đã có tạm đường
thông thương từ Mỹ Tho qua Vũng Gù. Vũng Gù thông qua Vàm Cỏ Đông đến Bến Lức,
theo đường nước đến Ba Cụm rồi theo sông Bình Điền đến Chợ Lớn. Năm 1772, Nguyễn
Cửu Đàm (con của Nguyễn Cửu Vân) đào kinh Ruột Ngựa, nối liền Rạch Cát đến kinh
Lò Gốm mà trước kia ghe thuyền không qua lại được, chỉ có “một đường nước đọng
móng trâu”. Phía Gò Công, Cần Giuộc cũng có đường thủy lên Rạch Cát. Phía Hậu
giang, khi tranh chấp bằng quân sự với Tây Sơn, Nguyễn Ánh vẫn tấn thối theo đường
sông từ Sài Gòn Gia Định đến tận Sa Đéc, Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá.
Ở vàm Hậu giang, từ lâu
người Miên sống tập trung tại vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) trên đất giồng cao ráo,
làm ruộng khéo léo, gạo nổi tiếng là ngon. Một thương cảng thành hình từ xưa,
phỏng đoán là ở vùng Bãi Xàu (Mỹ Xuyên ngày nay) nơi sông Ba Xuyên ăn thông ra
Hậu giang. Theo nhựt ký của cố đạo Levavasseur vào năm 1768, thì thương cảng
này mang tên là Bassac thành lập ở mé sông, nơi đất thấp với nhà lợp lá.
Trong dân gian gọi trấn
Biên Hòa là Đồng Nai Bà Rịa, trấn Phiên An là Bến Nghé Sài
Gòn, trấn Định Tường là
Vĩnh Gù Mỹ Tho, trấn Vĩnh Thanh là Long Hồ Sa Đéc, trấn Hà Tiên là Cà Mau Rạch
Giá.
Sài Gòn là thành phố của
người Trung Hoa dựng lên lúc ban đầu, nặng về bán sỉ, trong khi thành phố Bến
Nghé do người Việt xây dựng về sau, nặng về bán lẻ và là khu hành chính. Vũng Gù
tức là chợ Tân An ngày nay, tuy không có chợ lớn nhưng đáng chú ý nhờ khẩn
hoang lâu đời, đất khá tốt. Sa Đéc nằm trong trấn Vĩnh Thanh, là nơi sung túc
dân cư trù mật, sống nhờ huê lợi ruộng tốt và vườn cây ăn trái. Trấn Hà Tiên, với
lỵ sở nổi danh là đẹp nhưng nghèo, không thể sản xuất đủ lúa gạo, cá mắm, chỉ
có vùng chung quanh chợ Cà Mau và chợ Rạch Giá là dễ đánh lưới và làm ruộng dễ
trúng mùa, tàu buồm Hải Nam ra vào chở cá khô, gạo.
Huyện Kiến Hòa đất ruộng
phì nhiêu, mênh mông bát ngát. Nhiều người lo việc canh
nông làm gốc, trong nhà
có chứa vựa lúa gạo đầy dẩy”. Mục Phong Tục Chí của Trịnh Hoài Đức ca ngợi trường
hợp huyện Kiến Hòa (trấn Định Tường). Định Tường lúc bấy giờ khá rộng rãi, huyện
Kiến Hòa nói trên bao gồm trọn vùng Gò Công, vùng Chợ Gạo, luôn cả vùng đất giữa
sông Ba Lai và Cửa Đại (tức là An Hóa ngày nay). Vùng Gò Công nổi danh đất tốt,
gạo ngon. Đất ở bờ Cửa Tiểu và Cửa Đại là phù sa cao ráo. Nói riêng về từng trấn,
Định Tường (với Gò Công làm nòng cốt) là vựa lúa quan trọng nhất của xứ Gia Định.
Ruộng ở đồng bằng Đồng
Nai và Cửu Long chia ra hai loại, đứng về mặt kỹ thuật cày bừa mà xét (sự phân
biệt này qua thời Pháp thuộc vẫn còn):
— Đất cày
— Đất phát
Ruộng
đất cày thường là tương đối cao, chờ mưa mới cày, thường là
khai thác lâu năm,
nếu không cày thì mặt đất
quá cằn cỗi thiếu chất màu mỡ, cày để trộn đất lên.
Vùng Phiên An, Biên Hòa
gồm loại ruộng cày.
Ruộng
đất phát là đất thấp, còn mới, ít khai thác, mặt đất còn nhiều
cỏ và phân, nếu cày thì đất phèn phía dưới lại trồi lên làm hư lúa (Trịnh Hoài
Đức ghi là “trạch điền” để chỉ loại đất phát này).
Muốn làm ruộng đất
phát, khi sa mưa, nước lên cỡ ba tấc tây thì phát cỏ (Trịnh Hoài Đức dùng chữ
trảm phạt, nhưng không nói rõ là phát bằng thứ dụng cụ gì). Theo ý kiến chúng
tôi, nông dân thời ấy dùng cây phãng mà người Miên đã dùng từ trước. Phãng giống
như cây mã tấu, cán phãng uốn lại theo góc thước thợ, lưỡi phãng dài cỡ bảy,
tám tấc tây. Người phát cứ đứng nghiêng mình mà chém, dùng cây cù nèo gạt cỏ
qua một bên rồi chém tiếp. Phát cỏ xong xuôi, dùng cây bừa cào thứ to mà dọn
cho đất trống trải, sau đó là cấy với cây nọc (đất không cày nếu dùng tay mà cấy
thì không tài nào khoét lỗ để nhét cây mạ được).
Trong Gia Định thành
Thông Chí, không lời lẽ nào đề cập đến lối canh tác một năm hai mùa ruộng (khi
người Pháp chiếm nước ta hồi cuối thế kỷ 19, ở Nam kỳ vẫn chưa làm một năm hai
mùa). Ruộng hai mùa đòi hỏi đất cao ráo, để có thể đắp bờ mà giữ nước hoặc tát
nước vào ruộng cạn. Đắp bờ và tát nước đòi hỏi nhân công, các thửa ruộng phải liền
lạc, gần nhau. Người nông phu lúc bấy giờ vì đất còn tốt và rộng nên chưa nghĩ
đến cách khai thác thâm canh ấy. Lúc rảnh rỗi, họ trồng đậu, bắp khao dễ sinh lợi
và ít tốn công hơn.
Kinh
Vĩnh Tế đào chưa xong là Thoại Ngọc Hầu cho phép dân lập
làng với quy chế rộng
rãi, từ cù lao Năng Gù
đến Bình Thiên theo sông Hậu, và dọc theo bờ kinh Vĩnh Tế, từ Châu Đốc đến Thất
Sơn. Người khẩn đất cứ dâng đơn, Thoại Ngọc Hầu lúc bấy giờ được trọn quyền ở
biên giới (với chức vụ Khâm sai thống chế, án thủ Châu Đốc đồn, lãnh bảo hộ Cao
Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ), phê vào đơn rồi đóng ấn son “Bảo
hộ Cao Miên quốc chi dương” là xong. Tờ đơn được đóng dấu này có giá trị như tờ
bằng khoán. Dọc theo kinh Vĩnh Tế, nhiều người thử làm ruộng trên phần đất phía
Nam, bờ kinh đắp cao, dễ cất nhà. Kinh rút bớt nước, lại thuận lợi giao thông.
Một số lưu dân đến mấy vùng đất cao ở chân đồi, chân núi phía Thất Sơn mà canh
tác. Rải rác trên bờ kinh, quân sĩ xây nhiều đồn bão nhỏ, giữ an ninh, lại còn
đường lộ đắp từ bờ kinh chạy vòng quanh, liền lạc nhau (gọi là xa lộ). Để tiện
việc di chuyển và để khi mùa lụt nước ruộng rút nhanh, người khẩn hoang lúc bấy
giờ nghĩ ra sáng kiến đào nhiều con kinh ngắn (gọi là cựa gà) đổ ra kinh Vĩnh Tế,
bên phần đất mới khẩn để thăm ruộng hoặc chở lúa từ ruộng về nhà dễ dàng hơn.
Từ biển Nam Hải trở lên
Châu Đốc, tức là hữu ngạn sông Hậu giang có vài khu vực đáng
kể không chịu ảnh hưởng
nước lụt. Vùng Ba Thắc, Sóc Trăng đã có người Miên khai khẩn từ lâu rồi. Phía
Sóc Trăng từ đời Gia Long thấy ghi làng Tân An (rạch Cần Thơ), làng Thới An (Ô
Môn), làng Thới Thuận, Tân Thuận Đông (vùng Thốt Nốt), làng Bình Đức ở rạch
Long Xuyên, làng Bình Lâm ở Năng Gù. Làng này cách làng kia hàng chục cây số, nằm
trên các vùng đất gò, đất giồng. Các thôn xóm này đều bám sát vào bờ Hậu giang.
Cù lao ngoài bờ sông cái thì phì nhiêu hơn: ven cù lao là đất cao ráo, thích hợp
để trồng khoai, trồng đậu.
Năm 1837, Trương Minh
Giảng mở rộng thêm ảnh hưởng, lấn sát vùng mà người Xiêm
chiếm đóng ở Biển Hồ. Biển Hồ (Tonlé Sap) được gọi là Hồ Hải
(vì hình dáng có eo giống như cái bầu đựng rượu). Đây là khu vực nhiều huê lợi.
Tướng
Nguyễn Tri Phương nhận định rằng Tiền giang là con sông quan trọng ăn thông giữa
trung tâm An Giang, Vĩnh Long và Định Tường
Mộ
dân lập ấp
Dân trong ấp sống theo
quy chế dân sự, không bị câu thúc nhiều. Con số tối thiểu để lập
một ấp là 10 người, đủ
số ấy mới được chọn đất mà khai khẩn, lập bộ. Nên hiểu đây là 10 người dân cam
kết chịu thuế, lần hồi ấp này quy tụ thêm một số lưu dân, bọn này không cần vô
bộ, cứ sống theo quy chế dân lậu. Khi ruộng đất thành thuộc, dân đông hơn thì
nâng lên thành một làng.
Người Tàu cũng có thể đầu
mộ, lập ấp.
Mộ
dân lập đồn điền
Dân sống tập trung làm
lính đồn điền, đây là hình thức bán quân sự.
Ai mộ được 50 người thì
tổ chức thành một đội, người mộ được làm suất đội. Về sau, khi cày cấy có kết
quả, đội này cải ra thành một ấp, viên suất đội mặc nhiên trở thành ấp trưởng,
theo quy chế dân sự.
Ai mộ được 500 người thời
tổ chức thành một cơ (gồm 10 đội), người mộ được bổ nhiệm làm chánh đội thí sai
phó quản cơ, khi đất trở nên thành thuộc, cơ này trở thành một tổng, người đứng
mộ trở thành cai tổng, theo quy chế dân sự.
Có lệ khen thưởng những
người mộ dân lập ấp: được 30 người thì tha xâu thuế trọn đời, 50 người thời thưởng
chánh cửu phẩm, 100 người thời thưởng chánh bát phẩm. Nên nhớ là muốn mộ dân
thì phải có vốn lớn để nuôi dân, cho vay làm mùa trong mấy năm đầu (vay tiền và
vay lúa ăn). Các ông bá hộ, tức là chủ nợ (đồng thời cũng là ân nhân) khi chết
thì trở thành tiền hiền, thờ trong đình làng.
Đây là nội dung lời tâu
đặc biệt của Nguyễn Tri Phương:
Người
Cao Miên ở các sốc thuộc Ba Xuyên và Tịnh Biên mới quy tụ về theo ta (sau các
biến loạn đời Thiệu Trị) đáng lý thì phải đem phân tán khắp nơi, nhưng ta lại
cho họ trở về quê quán, nếu tiếp tục sống như thế họ sẽ có cơ hội để làm loạn
như trước. Bởi vậy dân khắp Nam kỳ lục tỉnh nếu muốn ứng mộ qua Tịnh Biên, Ba
Xuyên để lập ấp thì cứ cho, nhưng họ phải sống trong các tổng đã thành lập rồi
(nhưng nay thì đã xiêu tán, dân không còn đủ số).
Tù
phạm ở Lục tỉnh, ai mộ được một đội hoặc một thôn (50 người) thời cho làng
chúng nó bảo kiết, sẽ tha tội rồi đưa đến vùng kinh Vĩnh Tế (thuộc tỉnh An
Giang) hoặc vùng rạch Giang Thành (tỉnh Hà Tiên) để cày ruộng, tùy theo công việc
kết quả tới đâu, hạnh kiểm ra sao sẽ liệu định mà giải quyết.
Qua lời tâu của Nguyễn
Tri Phương, ta thấy có dụng ý cho tù phạm đoái công chuộc tội vì vùng Vĩnh Tế
và Giang Thành là nơi khó khai khẩn, lại ở sát biên giới, nguy hiểm hơn các
vùng khác.
Trong khi vùng ngoại ô
Sài Gòn chưa bình định xong thì thực dân chánh thức cho phép tàu ngoại quốc vào
thương cảng Sài Gòn mua bán (22/2/1860).Ba loại gạo mà giới xuất cảng chuộng nhứt
là gạo Gò Công, rồi đến gạo Vĩnh Long; gạo sản xuất từ Sóc Trăng, vùng Bãi Xào
(gạo Ba Thắt) thì được giá trên thị trường Trung Hoa hơn.
Ảnh
hưởng của kinh đào
Trước khi Pháp đến, những
vùng thuận lợi có sông rạch đều làm ruộng rồi. Trong thời cai trị của người
Pháp, có thêm hai việc lớn:
Đào kinh thêm ở những
nơi có thể làm ruộng được, tạo đường giao thông chuyên chở, rút bớt nước lụt,
rút bớt phèn.
Vài giống lúa sạ được
canh tác có kết quả ở những nơi mực nước lụt quá cao là loại lúa thường (lúa cấy)
không sống nổi.
Tính đến năm 1930 thì những
tỉnh có đất phù sa tốt như Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Mỹ Tho, Trà
Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng đã khai thác xong, kể luôn những phần đất
giồng ở Long Xuyên, Châu Đốc, Tân An, Sa Đéc. Trong các tỉnh này chỉ còn lại chừng
150.000 mẫu đất chưa trồng tỉa ở vùng Đồng Tháp, vùng Láng Linh và phụ cận tỉnh
lỵ Hà Tiên là nơi đất quá phèn.
Ngay khi vừa đào xong
những con kinh đầu tiên, dân tứ xứ tới cất nhà, làm ruộng mà nhà nước khỏi cần
giúp đỡ về vốn liếng, gia súc, hoặc cây lá gì cả. Họ đến cánh đồng bao la giữa
Hậu giang và vịnh Xiêm La, mạnh ai nấy chiếm này cắm ranh. Chỉ trong 3 năm
(1927—1930)họ tự động chiếm 17.000 mẫu. Việc chiếm hữu này xảy ra:
Do những nông dân nghèo
ở các tỉnh miền trên đến lập nghiệp. Họ muốn làm chủ phần đất tương đối đầy đủ
để nuôi sống gia đình.
Do những người đem vốn
lớn từ các tỉnh khác đến, họ mướn dân địa phương cắm ranh, khẩn hoang đợt đầu
tiên cho họ rồi họ gom lại, trở thành đại điền chủ
Trường
hợp đặc biệt ở Bạc Liêu, Rạch Giá
Đây là khu vực nhờ đào
thêm kinh mà diện tích canh tác gia tăng với những con số hùng biện nhứt.
Đời Tự Đức, ít ai chịu tới làm ăn, lý do chánh là đất quá phèn, đường
giao thông chuyên chở khó khăn và quá xa Sài Gòn. Hầu hết mấy con sông lớn
vùng này đều đổ ngược qua phía vịnh Xiêm La.
Mãi đến năm 1897 (trường
hợp Bạc Liêu) và năm 1916 (trường hợp Rạch Giá) mới có đường xe nối liền
với Sài Gòn, trong khi đường xe lửa Sài Gòn, Mỹ Tho đã có từ năm 1883. Việc đào kinh xáng giúp các vùng Bạc Liêu và
Rạch Giá bán lúa nhanh và có giá hơn trước, đồng thời đất ráo phèn, nước
bớt sâu dễ cày cấy hơn.
Năm
1930:
Theo P. Bernard, mấy tỉnh
Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh là vựa lúa thật sự của
Nam kỳ để xuất cảng. Năm tỉnh nói trên gồm 966.000 mẫu ruộng, những năm
bình thường cung cấp hơn phân nửa tổng số lúa xuất cảng của Đông Dương. Các tỉnh
ấy xuất cảng 986.000 tấn. Dân số trong hiện tại (ở các tỉnh vừa kể, khoảng năm
1930) phỏng chừng 1.130.000 người, tính đổ đồng mỗi mẫu ruộng là 1,15 người và
mỗi mẫu ruộng xuất cảng được một tấn.
Một phần lớn kinh do
xáng đào từng chặn, sửa chữa nới rộng và vét tới vét lui nhiều lần; một số
kinh thì đào tay, bắt dân làm xâu. Tỉnh Rạch Giá được ảnh hưởng tốt nhờ mấy
con kinh đào từ Cần Thơ và Sóc Trăng ăn qua.
Để nghiên cứu vựa lúa Hậu
giang cũng là vựa lúa quan trọng của Nam kỳ và Việt Nam, chúng tôi chọn
ba tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu và Cần Thơ.
Rạch Giá và Bạc Liêu là
hai tỉnh rất mới mà việc khai khẩn vẫn chưa hoàn tất mãi đến khi người Pháp rời
xứ Nam kỳ. Nghiên cứu hai tỉnh này, ta thấy rõ việc làm của người Pháp và
những nét đặc biệt của vùng đất rộng người thưa mà vùng Tiền giang không có.
Tỉnh Cần Thơ điển hình
cho sự sung túc của Hậu giang, nơi gọi là thủ đô miền Tây, với nhiều đồn
điền của Pháp. Một phần đất của Cần Thơ đã được khai khẩn từ thời Minh Mạng,
Tự Đức. Cần Thơ là nơi người Việt chiếm đa số, phong tục thuần tục, nước ngọt,
đất tốt, đường giao thông thuận lợi về Sài Gòn, với vùng Ngả Bảy (Phụng
Hiệp), một quận thành hình nhờ việc đào kinh thời Pháp thuộc.
Vùng Rạch Giá đất rộng
người thưa
Rạch Giá là hậu bối khá
rộng của bờ biển vịnh Xiêm La. Bờ biển từ Rạch Giá (vàm sông Cái Lớn) ăn về
phía Nam là khu rừng sác với cây mắm, cây giá, cây cóc, loại cây tạp
không đem huê lợi gì đáng kể, trừ huê lợi sáp và mật ong, hoặc cua, ba khía sống
nhun nhúc trong bãi bùn (khu vực của cây đước chỉ ở về phía cực Nam tận
mũi Cà Mau). Hậu bối tức là sau lưng, giáp vào rừng sác. Có thể nói đất Rạch
Giá là rừng tràm minh mông, nhiều phèn và thấp; xa bờ biển hàng đôi chục
cây số ngàn vẫn còn là rừng tràm cầm thủy (trầm thủy). Nổi danh nhứt là U
Minh Thượng và U Minh Hạ. U Minh Thượng là rừng chồi, có từng lõm “đất
cháy” (than bùn) nằm bên tả ngạn sông Cái Lớn. U Minh Hạ là rừng tràm tốt và mọc
dày, dọc ven biển chạy dài tới Cà Mau. Đất Rạch Giá khi người Pháp đến hãy còn
nhiều cọp, khỉ, sấu, heo rừng, huê lợi chánh vẫn là mật và sáp (nhờ bông
cây tràm, cây giá). Ngoài ra còn cây tràm (làm củi, cột nhà), lá dừa nước (để lợp
nhà), cá đồng và cá biển. Đáng chú ý là voi thường tới lui cánh đồng nối liền với
Cần Thơ mà ăn lau sậy.
Hai con sông đáng kể là
Cái Bé và Cái Lớn từ đất thấp phía Đông chảy ra vịnh Xiêm La, hiệp lại ở một
vàm khá rộng. Hai con sông này chia ra nhiều nhánh nhóc. Ngọn sông Cái Bé
ăn qua rạch Cần Thơ, về bờ Hậu giang. Sông Cái Lớn ăn xuống Ba Xuyên, thuộc
Sóc Trăng hoặc xuống phía chợ Cà Mau nhưng là những đường liên lạc nhỏ
bé, vào mùa nắng có nhiều chặng cạn và hẹp, đầy cỏ. Dân ở vùng Rạch Giá,
trước khi đào kinh xáng, phần lớn sống nhờ nước mưa, trừ trường hợp chợ Rạch
Giá hứng nước ngọt từ kinh Thoại Hà (đào từ cuối đời Gia Long) nối qua Hậu
giang. Giếng có thể đào trên mấy giồng cao ráo, chắc thịt bên bờ sông. Vùng ven
biển vịnh Xiêm La định cư được là nhờ nước suối chở từ Hòn Tre. Bên bờ
Cái Lớn, Cái Bé và các phụ lưu, rải rác nhiều giồng, nhiều gò, nơi người Miên đến lập
từng sốc: những ốc đảo hoang vắng, chung quanh là rừng che kín chân trời. Muỗi
mòng, rắn và vô số chim cò tha hồ nẩy nở.
Trước khi trở thành ruộng,
rừng tràm là nguồn lợi thiên nhiên đáng kể. Vào đời Gia Long, vùng Rạch
Giá được chú ý nhờ sáp ong và cá tôm. Làng Vĩnh Hòa, làng Đông Yên ở hữu
ngạn sông Cái Lớn thành hình từ lâu nhờ nguồn lợi sân chim (sử chép là Điểu
đình), những khu rừng mà hằng năm loại chàng bè, lông ô (còn gọi già sói,
marabout) tụ họp về làm ổ, sanh sôi nẩy nở hàng chục vạn con, thợ rừng đến
sân (nơi chim tụ họp) bao vây và giết sống để nhổ lông bó lại đem bán cho tàu
buôn Hải Nam.
Rừng tràm phát triển ở
nơi đất thấp, vào mùa mưa thì nước ngập tràn. Rừng ở Rạch Giá và luôn cả rừng
tràm ở Hà Tiên, Châu Đốc, Cà Mau có thể so sánh với vùng Biển Hồ ở Cao
Miên về phương diện sinh hoạt của cá tôm. Nước mưa dâng lên, cá lên rừng mà
sanh đẻ, di chuyển. Rừng rậm với con lăng quăng do trứng muỗi nở ra là thức
ăn lý tưởng của cá. Khi mùa nắng vừa bắt đầu, gió chướng thổi thì cá biết là nước
sắp cạn, từng bầy tìm cách ra sông, xuống rạch để khỏi chết khô. Bởi vậy, rạch ở
rừng tràm là nơi tập trung cá; loại cá đồng đắt giá như cá lóc, cá trê chở đem
bán nơi xa được, không chết dọc đường.
Dân địa phương từ lâu
đã biết các đào đìa - ở vùng cỏ hoang hoặc giữa rừng tràm, cá rút xuống đìa mà
sống. Và khi đã quen thói, hằng năm cá lên rừng vào mùa mưa, trở về rạch,
về đìa khi mùa nắng bắt đầu. Nhiều đìa cá của dân làng đào sẵn trong rừng hoang
lại trở thành đìa của điền chủ vì phần đất ấy đã bị trưng khẩn. Đìa đào ở
trong rừng thì nhiều cá nhưng khó đem cá về, lắm khi phải gánh cá hàng năm bảy
cây số, nếu đìa ít cá thì bỏ luôn chẳng ai thèm tát (đìa ở xa trong rừng gọi là
đìa U Minh theo nghĩa là ở nơi u u minh minh, tối tăm như địa ngục, mặc dầu
không nằm trong vùng U Minh).
Đất ất hoang ở tỉnh Bạc Liêu
quá thấp, có chân nước mặn, ba bốn năm đầu khó thâu huê lợi. Mức trưởng
thành của Bạc Liêu, Cà Mau khi chuyển mình góp phần lớn vào vựa lúa miền
Nam, có thể đánh dấu vào khoảng 1914, khi nhà nước cho nghiên cứu đào kinh Quan
Lộ, nối liền Phụng Hiệp xuống Cà Mau (gọi Quan Lộ vì kinh này khởi đầu từ rạch
Quan Lộ). Nhờ đó mà trong tương lai gần, lúa gạo vùng Bạc Liêu, Cà Mau được chở
về Sài Gòn theo đường thủy, ngang qua Rạch Giá, Cần Thơ rồi Trà Ôn, Vĩnh
Long (Mân Thít)...
Năm 1927, diện tích canh tác lúa gạo của Bạc Liêu đứng hạng nhì ở
Nam kỳ, chỉ sau Rạch Giá. Nhưng Bạc Liêu còn thêm nguồn lợi than đước, ruộng
muối, nhứt là rừng tràm và hải sản. Đến năm 1927, đất ruộng đã chiếm 34 % diện
tích của toàn tỉnh Bạc Liêu và chiếm 49 % diện tích của toàn tỉnh Rạch
Giá.
Cần Thơ, đầu cầu và thủ đô miền Hậu giang
Ngọn rạch Cần Thơ ăn
thông qua sông Cái Bé rồi ra vịnh Xiêm La nhưng không rõ rệt. Đời Tự Đức,
Đại nam Nhất thống chí mô tả khúc đường ấy: Cuối đông qua xuân, nước khô
bùn cứng ghe thuyền qua lại không được, từ mùa hạ qua đông, nước mưa tràn
bờ thì ghe thuyền cỡi lên trên cỏ và bèo mà đi, cứ trông theo phía tả hay
phía hữu rừng cây mà nhận dấu đường. Nơi đây không có bóng người, có rất nhiều
muỗi và đĩa, người qua lại rất khổ sở. Tóm lại, Cần Thơ chỉ đông đúc ở phía
sát bờ Hậu giang
Quan cai trị Pháp biết nhìn
xa: dời tỉnh lỵ về rạch Cần Thơ thì chợ Cần Thơ trở thành ải địa đầu quan trọng,
nắm luôn nẻo thông thương thứ nhì, cũng nối từ Hậu giang qua Tiền giang để lên
Sài Gòn, Chợ Lớn. Đó là con đường từ rạch Cái Vồn qua rạch Nha Mân, phía Sa
Đéc. Lại còn phía tây Cần Thơ là vùng Rạch Giá, Cà Mau bao la với nhiều triển vọng
về lúa gạo, đất hoang chưa khai phá.
Cần Thơ có khí hậu tốt, đất
hoang tuy chưa được khai thác đúng mức nhưng là rừng chồi thưa thớt, không
như rừng tràm ở nước mặn phía Rạch Giá, Cà Mau. Giữa Cần Thơ, Sóc Trăng
và ranh tỉnh Rạch Giá còn một cánh đồng bát ngát, nước ngọt, không quá thấp
như Đồng Tháp Mười, không quá sình lầy và nhiều phèn. Đó là cánh đồng sau này
trở thành quận Phụng Hiệp, đầy lau sậy, có voi (voi ăn sậy và lau). Thoạt
tiên người Pháp gọi đó là “Đồng Sậy” nhưng vì khai phá xong nên địa danh
này không còn thông dụng như trường hợp Đồng Tháp Mười hay rừng tràm U Minh.
Đào kinh
xáng Xà No
Kinh xáng Xà No là công trình
lớn lao đầu tiên của Nam kỳ về đường thủy, có thể so sánh với việc thiết
lập đường xe lửa Sài Gòn, Mỹ Tho về đường bộ. Kỹ thuật Tây phương đã biểu
diễn với tất cả sức mạnh và hiệu năng.
Đời Gia Long và Minh Mạng,
vua và các quan đã nhận rõ vai trò quan trọng của kinh đào đối với miền Tiền
giang và Hậu giang. Kinh Thoại Hà, kinh
Vĩnh Tế là những công trình chiến lược đứng đắn, nối vịnh Xiêm La qua
Hậu giang để rồi lên Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn. Ai cũng biết đào kinh thì
đất ráo phèn, ruộng nương dễ khai phá, dân chúng thích quy tụ ở nơi “sông
sâu nước chảy”.
Kinh xáng Xà No nối Hậu giang
qua vịnh Xiêm La, xuyên qua vùng đất tốt và to rộng giữa nhánh sông Cái Lớn
và rạch Cần Thơ (nhánh sông Cái Lớn nơi ấy gọi là Rạch Cái Tư).
Từ năm 1866, nhà nước dùng
xáng mà vét lại rạch Bến Lức và kinh Bảo Định nhưng kết quả chưa được như
ý muốn. Năm 1875, đô đốc Duperré cho đào lại kinh Chợ Gạo và kinh Trà Ôn,
dùng dân xâu.
Sáng kiến đào kinh Xà No trước
tiên do hai người Pháp là Duval và Guéry nêu ra vì quyền lợi ích kỷ. Họ
thấy đất tốt và rộng nên xin trưng khẩn. Và khi chưa được giấy phép trưng
khẩn chánh thức là họ đã vận động với quan toàn quyền Paul Doumer
(17/5/1900). Chủ tỉnh Cần Thơ cho biết là trước đó, năm 1896, đã đào kinh
Ô Môn (nối ngọn sông Cái Bé từ Rạch Giá qua Ô Môn) dùng dân xâu nhưng tạm
ngưng vì ở vùng đào kinh xảy ra nạn dịch khí. Kinh Xà No nếu đào được thì
ích lợi vô cùng, giúp khai thác hàng mấy chục ngàn mẫu đất tốt phía địa phận Cần
Thơ.
Kinh Xà No đào từ 1901 đến
tháng 7/1903 là xong, bề ngang trên mặt rộng 60 mét, dưới đáy 40 mét tốn phí
3.680.000 quan. Lần này, nhà thầu sử dụng loại xáng lớn chạy bằng hơi nước,
với những giàn gàu bằng sắt. Máy của xáng mạnh 350 mã lực, mỗi giàn mút
được 375 lít, thổi bùn ra xa đến 60 mét. Giàn gàu của xáng chạy theo vòng tròn
(như xe đạp nước). Từ xa, chiếc xáng giống như chiếc chiến hạm, máy chạy
vang rền suốt năm ba cây số, mang theo một số chuyên viên, nhân công hàng
trăm người. Dọc theo hai bên bờ phải chở củi đem tới sẵn, vì xáng đốt nồi
sốt—de bằng củi.
Vài chuyện khôi hài xảy ra, một
số dân chạy theo xáng, dùng thúng mà hứng bùn để tìm vàng, nhưng chỉ gặp
xương người xương thú. Nhiều người cho rằng cứ “cắm dùi” là đất ấy về phần
mình, vì mình đến trước nhứt. Culi của hãng xáng tụ tập, bày ra đánh bài,
uống rượu hoặc đi ăn cướp, bọn cặp rằn đo đất thì hăm dọa những chủ nhà ở gần
con kinh sắp đào để tống tiền, ai cho tiền thì nhà cửa, vườn tược khỏi bị
đào ngang. Bọn chuyên viên người Pháp đứng cao trên xáng, hò hét như các vị
chỉ huy chiến hạm. Khung cảnh trầm hùng này đã in sâu vào giai thoại thời
ấy, trở thành ca dao, chiếc xáng của Tây là sức mạnh cơ khí vô địch.
Lễ khánh thành kinh Xà No là
ngày trọng đại, có lẽ đó là lần đầu tiên mà quan Toàn quyền Đông Dương chịu đặt
chân đến miền Hậu giang.
Câu hát “Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền. Anh thương em cho bạc cho tiền,
đừng cho lúa gạo xóm riềng họ hay” phản ảnh tâm trạng lạc quan của người
dân thời ấy.
Vàm Xáng (vàm của kinh Xáng)
là nơi kinh Xà No khởi đầu bên phía Cần Thơ (Xà No, Srok Snor, xóm có nhiều cây
điên điển). Ngã ba này trở nên tấp nập, ghe xuồng đậu để chờ con nước thuận
lợi mà qua Rạch Giá hay ra chợ Cần Thơ.
Nhiều con kinh tiếp tục đào nối
liền các rạch nhỏ trong tỉnh, quan trọng nhứt là công trình mở mang đường
giao thông ở cánh đồng Phụng Hiệp mà trước kia người Pháp gọi là Plaine des
Roseaux. Đất Cần Thơ phía tả ngạn Hậu giang đã có dân cư từ lâu. Phía hữu
ngạn là đất tốt tuy hoang vu đầy lau sậy nhưng dầu sao đi nữa với địa thế tương
đối cao (so với Châu Đốc hoặc Rạch Giá), với phù sa nước ngọt (dễ trồng
hoa màu phụ), nhứt là gần đường giao thông về Sài Gòn (lúa bán có giá)
thì vẫn là nơi lý tưởng mà ai cũng muốn bám vào, không xong thì mới xuống
Rạch Giá, Cà Mau là nơi đất thấp, nhiều muỗi mòng.
Chuyên viên thủy nông nghiên
cứu không chính xác. Lắm vùng đất làm ruộng được, nhưng bỗng nhiên lại trở
thành đất thấp, bị ngập lụt triền miên chỉ vì ảnh hưởng của mấy con kinh
đào lân cận. Trong trường hợp ấy, dân làng và điền chủ phải tự nguyện xin
làm xâu, đào thêm kinh phụ để cứu nguy cho ruộng đất của mình.
— Đào kinh Trà ết (1902), đào kinh
Bà Thậm qua Tân Lược (1899), vét lại năm 1904.
— Đào kinh từ ngọn Cái Bé qua
Thốt Nót từ 1908 đến 1910.
— Vét kinh Nhiêu Sự để nối liền Bò Hút qua Sa Đéc (1909).
— Vét kinh Vàm Bi (1909—1910), điều chỉnh lại kinh Ô Môn qua ngọn sông
Cái Bé (1911—1912).
— Đào kinh Xẻo Vông (1908—1912).
Cuối năm 1910, nhà thầu đã cẩn
xong bờ sông Cần Thơ (chỗ vàm rạch Cái Khế): cẩn bằng cừ cây, lót vỉ sắt,
tráng xi măng bên ngoài cho nước không làm lở và đồng thời cẩn đá luôn bờ
sông tại chợ.
Năm 1911, chỉnh đốn lại mấy
“mũi tàu” rạch Cái Vồn Lớn, Cái Vồn Bé và bờ rạch Trà Ôn. Mấy nẻo yết hầu này
là đường chở lúa gạo từ Hậu giang qua Tiền giang; dùng kỹ thuật đặc biệt,
cẩn từng cục xi—măng cứng (gọi là cuirasse Decauville) để khỏi bị nước xoáy làm
lở bờ. Năm 1908, chủ tỉnh Outrey đưa ra kế hoạch biến Phụng Hiệp trở thành
một thương cảng.
Xáng đào thêm con kinh nối Phụng
Hiệp với Sóc Trăng, năm 1901.
Bấy lâu, lúa từ Cà Mau chở
lên Mỹ Tho rồi lên Sài Gòn theo con đường quanh co, không thuận lợi: từ Cà
Mau theo kinh lên Bạc Liêu, qua Cổ Cò, Sóc Trăng, ra Đại Ngãi, vượt Hậu giang rồi
theo con rạch Tiểu Cần đến Láng Thé, rồi qua Tiền giang đến Mỏ Cày, qua Bến
Tre rồi Mỹ Tho.
Năm 1914, kế hoạch đào kinh
Quan Lộ được nghiên cứu và thi hành gấp, nối liền Cà Mau thẳng lên Phụng
Hiệp để từ đó qua Cái Côn rồi qua Trà Ôn, con đường rút ngắn hơn nhiều. Ngoài
ra, hai bờ kinh Quan Lộ sẽ quy tụ dân đến khẩn đất, nhà nước thêm lợi.
Năm 1915, quận lỵ Rạch Gòi dời
đến Ngã Bảy, Phụng Hiệp, gọi là quận Phụng Hiệp. Đây là quận thành hình
giữa vùng lau sậy hoang vu, sau 10 năm đào kinh xáng, nằm trên đường thủy
từ Cà Mau ra Hậu giang, đem lúa và sản phẩm lên Sài Gòn.
Trên những nét chánh, việc khẩn
hoang được hoàn tất, khi đường thủy nắm ưu thế. Qua trận thế chiến thứ nhứt,
đường bộ bắt đầu phát triển. Cần Thơ vẫn nắm giềng mối của các tỉnh giàu
có như Sóc Trăng, Bạc Liêu (và Cà Mau). Đồng thời phân nửa tỉnh Rạch Giá cũng
nhờ Cần Thơ mà đến Sài Gòn theo đường bộ ngắn nhứt.
Việc khai thác đất đai ở Nam
kỳ đem lại nguồn lợi đáng kể cho thực dân: bán đất công thổ, thâu thêm
thuế điền, thâu thuế xuất cảng lúa gạo, dân tiêu thụ thêm hàng hóa nhập cảng.
Con kinh Cái Sắn đã đào xong, lộ xe Rạch Giá Long Xuyên thành hình bắt
đầu cho lưu thông vào năm 1929, giúp cho cánh đồng Cái Sắn dễ khai thác
suốt 60 cây số ngàn.
Năm
1853, vua Tự Đức cho phép lập đồn điền, lập ấp ở xứ Nam kỳ theo lời tâu của đình
thần.
Tại sao có việc lập đồn điền này ? Từ trước đã có chánh sách đồn điền rồi. Nhưng
lần này đưa ra cấp bách nhằm đối phó kịp thời với tình hình điêu tán ở vùng
biên giới và Hậu giang. Nguyễn Tri Phương nói thẳng mục đích: .Đất Nam kỳ liền
với giặc Miên, dân xiêu tán nhiều. Nay mượn điều chiêu mộ để dụ dân về đốc việc
khai khẩn để nuôi dân ăn, thật là một cách quan yếu để giữ giặc và yên dân đó..
Lập
đồn điền và lập ấp là hình thức tổ chức nhằm phục vụ chiến lược lớn: giữ giặc
và yên
dân.
Lập
làng mới
Đời
Tự Đức, ở Nam kỳ Lục tỉnh, nhà nước khuyến khích lập làng để thúc đẩy khẩn
hoang, thâu thêm thuế đinh và thuế điền. Việc lập làng được hưởng ứng, bất kể
dân giàu hay dân nghèo.
Người
giàu (thường là bá hộ) được dịp ban ơn bố đức cho dân đi khẩn đất. Trong giai
đoạn
đầu, người khẩn đất cần vốn liếng để sắm nhà cửa, ghe xuồng, nông cụ, quần áo,
gạo để ăn, tiền để xài. Ông bá hộ cho vay tiền, vay lúa với mức lời rất nặng,
trên 50 phần trăm mỗi năm. Ngoài ra, nếu ông bá hộ trực tiếp khẩn đất thì có thể
canh tác với nhân công mướn rẻ, đó là những người bạn làm ruộng ăn lương hàng
năm, khi rảnh việc cày cấy gặt hái thì chủ bắt chèo ghe, sửa nhà, đắp bờ, đào
mương vườn. Bạn làm công luôn luôn mượn tiền trước với tiền lời rất nặng, lắm
khi vì đau yếu hay cờ bạc, vợ và con phải làm việc thay thế để trừ nợ.
Người
nghèo không gia cư, đã túng thiếu đổ nợ ở các làng cũ nếu có chí thì đi nơi
khác
xin
lập làng mới, chịu khó làm ăn thì có thể trở thành điền chủ nhỏ, được làm hương
chức. Trong nhiều trường hợp, người đi lập làng thường lôi kéo theo nào là bạn
thân, nào là bà con xa, bà con gần để trong việc làm ăn hàng ngày họ sống trong
bầu không khí thân mật và tin cậy hơn.
Chủ
điền, chủ nợ và tá điền
Dân trong làng phải ghi vào bộ để chịu thuế; dân có nghĩa là đàn
ông, con trai. Tất cả dân, làm bất cứ nghề gì cũng phải ghi. Trên nguyên tắc
thì vậy nhưng ở làng có rất nhiều người không ghi tên vào bộ đinh. Họ là dân lậu.
Dân lậu
là ai ? Là tá điền, tức là những người không đủ thế lực, không đủ vốn khẩn đất,
họ mướn lại đất của chủ điền.
Là
tá điền, khi mướn đất họ phải làm tờ tá điền (gọi tắt là tờ tá) tức là tờ mướn
đất để làm
ruộng.
Mỗi mùa, họ đong cho điền chủ một số lúa gọi nôm na là lúa ruộng (chữ nho gọi
là tá túc), lúa mướn đất. Nên phân biệt
với tô túc. là số lúa mà chủ điền đóng cho nhà nước trong thuế bằng hiện vật, cộng
với một số tiền mặt.
Thời
phong kiến (luôn cả đến thời Pháp thuộc) giữa chủ điền và tá điền không có quy
định nào rõ rệt do nhà nước đưa ra về số lúa ruộng (tá túc) mà tá điền phải
đóng cho chủ điền, theo tỷ lệ hoặc giá biểu nào cả. Tá điền chỉ biết trông cậy
vào lòng nhân đạo của chủ điền mà thôi. Luân lý Khổng Mạnh thường nhắc đến hai
tiếng tích đức, là nhắm vào chủ điền trong việc đối xử với tá điền, giới tá điền
dầu có lòng tốt thì cũng chẳng có ai dưới tay để mà ban bố.
Về
pháp lý, tờ tá (tờ mướn đất) là văn kiện do chủ điền và tá điền tự ý ký kết. Nếu
tá điền
vi
phạm điều giao kết thì chủ điền tố cáo, nhờ quan làng xử. Năm nào tá điền trả
không nổi thì chủ điền giữ giấy ấy lại, xem như là giấy nợ hợp pháp.
Một
số hương chức và thân hào tuy không đứng bộ, không làm chủ sở đất nào trong
làng
nhưng
lại có ưu thế đối với đất gọi là công điền,
do làng làm chủ (nhưng hương chức làng không được tự ý bán, trong bất cứ trường
hợp hoặc vì lý do nào). Họ đứng ra mướn đất công điền với giá rẻ rồi cho dân mướn
lại với giá cao hơn, họ đóng vai trung gian mà ăn lời. Trên lý thuyết thì sự
thành lập công điền nhằm mục đích giúp cho công quỹ của làng thâu thêm lúa và
tiền để dung vào công ích, đồng thời giúp một số tá điền có đất làm ruộng.
Nhưng người tá điền chẳng được hưởng ân huệ gì cả.
Người
chủ điền thời xưa được quyền hưởng lộc do tá điền đền ơn cho, vì chủ điền đã
giúp
tá điền có đất mà cày, có nơi cất nhà, có chỗ vay mượn lúc đau ốm. Khi vay, con
nợ phải mang ơn; chủ điền là ông vua nho nhỏ trong đất đai của họ, tá điền đóng
vai thần dân của tiểu giang sơn. Chủ điền bắt buộc tá điền làm .công nhựt., tức
là làm thí công, mỗi năm vài ba ngày, (tùy theo lòng nhân đức của mỗi chủ điền)
lúc có đám giỗ, lúc chủ điền gả con, ăn mừng tuổi thọ ngũ tuần, lục tuần. Đặc
biệt là trước ngày Tết, tá điền phải đến làm cỏ vườn, bửa củi, xay lúa, chèo
ghe. Ngoài số lúa ruộng ghi trong giấy mướn đất, tá điền còn góp một số hiện vật
gọi là công lễ, thì dụ như vài lít rượu nếp thứ ngon, một thúng nếp trắng, một
cặp vịt vào dịp đám giỗ trong gia đình chủ điền hoặc ngày Tết, theo kiểu chư hầu
cống sứ cho thiên tử. Đáp lại, nhiều chủ điền tỏ ra rộng lượng, bố thí và tích
đức cho con cháu mình bằng cách đốt bỏ giấy nợ của tá điền, loại giấy nợ không
thanh toán nổi từ mấy năm trước vì mất mùa hoặc đau yếu.
Cách đo lường thời đàng cựu
Đời Tự Đức, đơn vị để đo là một thước, còn gọi là thước quan, lấy
tiêu chuẩn là 22 đồng
tiền đời Gia Long sắp liền nhau; phỏng định tương đối chính xác là
526 ly (tức là hơn 5 tấc 2, tính theo mét).
Một thước quan chia ra 10 tấc, 1 tấc 10 phân.
Để đo diện tích ruộng đất, lệ xưa định một mẫu là diện tích của một
hình vuông mỗi góc
150 thước quan ; tính ra mẫu tây (hectare) là 62 ares, 2521. Theo
cố đạo Tabert thì một mẫu thời đàng cựu to hơn, là 73 ares, 0890.
Một mẫu chia ra 10 sào.
Một sào chia ra 15 thước, còn gọi là cao.
Người thời xưa quan niệm đơn giản rằng mẫu là sở đất hình vuông;
sào là sở đất hình chữ
nhật với bề ngang là 15 thước, bề dài là 150 thước.
Người Pháp ra nghị định ngày 3/10/1865 để thống nhứt việc đo đạc,
họ quy định đại khái 2 mẫu ta ngày xưa là một mẫu tây (hectare). Như vậy có sự
sai biệt, thật ra, hai mẫu ta là 125 ares tức là to hơn một mẫu tây.
Một mẫu tây chia ra 100 sào tây (100 ares).
Về đong lường, trên nguyên tắc thì dùng hộc để đong lúa, dùng
vuông để đong gạo.
Một hộc chia ra 26 thăng, một thăng là 10 hiệp, một hiệp là 10 thược.
Một hộc tính ra 71
lít, 905, đem cân nặng cỡ một tạ.
Một vuông chia ra 13 thăng (phân nửa của hộc) tính ra nhằm 35 lít,
953.
Một hộc lúa khi xay ra thì được một vuông gạo, tính đổ đồng.
Trong thực tế, khi mua bán đổi chác, người dân thường đong lúa gạo
bằng vuông, gọi nôm na là giạ.
Người Pháp quy định một vuông là 40 lít, lúc ban đầu còn thâu thuế
điền bằng lúa và một
số tiền mặt theo lệ đằng cựu. Một vuông nâng lên là 40 lít thay vì
non 36 lít như thời xưa, có lợi cho nhà nước thực dân hơn, dễ tính toán, với
con số tròn trịa là 40 lít.
*****
Tài liệu thật hay của bác SƠN Nam ,nhưng không có bản đồ cũng khó hình dung
ReplyDelete