Bởi Brown Sugar
4 April, 2018
Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói
tới hoặc đã đọc được ở đâu đó… riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc;
nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?
Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách
cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh
Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối
về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.
Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn
tài liệu khác – để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.
Đất Nam Việt mà trước đây người ta còn gọi là Nam Kỳ, người
Tây Phương khi đặt chân lên xứ mình hồi thế kỷ 16, 17 đã gọi bằng tên
Cochinchine hay Đằng Trong.
Người ta cũng gọi xứ này là Đồng Nai (đồng có nhiều nai), Lộc
Dã, Lộc Đồng (cùng một nghĩa) hoặc Nông Nại, là nơi mà người Việt mình đặt chân
lần đầu tiên năm 1623.
Đồng Nai: Sử chép rằng Chúa Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên
(1613-1635), đã gả Công chúa Ngọc Vạn, lệnh ái thứ 2, cho vua Cao Miên Chei
Chetta II (1618-1626) từ Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong. Nhờ sự
giao hiếu ấy vua Cao Miên mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ. Chúng ta
đã đặt đầu cầu tại Mô Xoài (gò trồng xoài), gần Bà Rịa đúng vào năm 1623 (theo
Claude Madrolle -Indochine du Sud, Paris 1926).
Cũng trong năm này một phái đoàn ngoại giao đã được cử sang
Oulong để thương thuyết sự nhượng lại Sở Thuế quan Saigon. Về sau đến đời vua
Réam Thip Dei Chan (1642-1659), em vua trước, vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đã
xin vua Cao Miên cho phép người Việt được quyền khai thác xứ Biên Hòa năm 1638.
Sở dĩ vua Cao Miên đã giao hảo với nước ta và tự ý nhân nhượng
một phần nào, là vì muốn cậy thế lực của triều đình Huế để chế ngự ảnh hưởng của
người Xiêm. Như vậy chúng ta đã đến sinh cơ, lập nghiệp, khai khẩn đất đai Nam Bộ
là do sự thỏa thuận hoàn toàn của đôi bên, chứ tuyệt nhiên không phải là một sự
xâm nhập. Lại nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đã đối phó hiệu quả với
những tham vọng của nước Xiêm và bảo toàn được nền độc lập của mình.
Nói tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại
Nam bộ rất là hợp tình, hợp lý và hợp pháp. Nói một cách khác công cuộc Nam tiến
của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử bất di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc
Tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ Quốc và cuộc Đông tiến của người Anh tai Úc
Châu.
Con sông Đồng Nai đã đưa ta đến tỉnh Biên Hòa (hòa bình ở
biên cương), một trấn đã được sáp nhập vào nước ta năm 1653. Khoảng đất này xưa
được gọi là Đông Phố đúng ra là Giãn Phố vì hai chữ Đông và Giãn viết theo chữ
Hán hơi giống nhau. Về sau nơi này đã được triều đình Huế giao cho bọn người
Trung Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình
đến khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù lao Phố, sau khi nhà Minh bị nhà
Thanh lật đổ.
Miền trên Biên Hòa thì có Hố Nai (hố sập nai), Trảng Bom (trảng
là một đồi bằng phẳng và rộng rải có trồng nhiều cây chum-bao-hom đọc trạnh
thành bom, sinh ra một thứ dầu gọi là chaulmougra, dùng để trị phong hủi. Phía
dưới là nhà thương điên Nguyễn Văn Hoài, một nhà bác học đã quả quyết với chúng
tôi rằng trong một đời người, số giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít nhất
cũng được vài năm!
Biên Hòa là quê hương của Đỗ Thành Nhân, một trong Gia định
Tam hùng. Hai người kia là Võ Tánh quê ở Gò Công và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở Tân An.
Biên Hòa là xứ bưởi bòng ngon ngọt có tiếng nên mới có câu ca dao:
Trang BomThủy để ngư, thiên biên nhạn
Cao khả xạ hề, đê khả điếu,
Chỉ kích nhơn tâm bất khả phòng
E sau lòng lại đổi lòng,
Nhiều tay tham bưởi chê bòng lắm anh
Cao khả xạ hề, đê khả điếu,
Chỉ kích nhơn tâm bất khả phòng
E sau lòng lại đổi lòng,
Nhiều tay tham bưởi chê bòng lắm anh
Chúng ta đi ngang qua trước ngọn núi Châu Thới, cao 65m trên
có ngôi chùa Hội Sơn, được trùng tu vào đầu thế kỷ thứ 19, nhờ công đức sư Khải
Long:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nghiêng chùa Châu Thới mới sai lời nguyền!
Nghiêng chùa Châu Thới mới sai lời nguyền!
Rồi đến Thủ Đức với những hồ bơi nước suối, và những gói nem
ngon lành. Thủ nhắc lại ngày xưa có những chức quan văn như thủ bạ, thủ hô lo về
việc thuế má và nhơn thế bộ. Do đó mà có những địa danh như Thủ Thiêm, Thủ Thừa,
Thủ Ngữ v.v.. để nhắc lại tên mấy ông thủ bạ và thủ hộ ngày trước. Miền Thủ Đức
lại nhắc cho ta hai câu đối “tréo dò”
Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ
Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ
Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ
Có lẽ vì năm canh thức đủ mà có kẻ than thân trách phận tự
mình sánh với cái nem Thủ Đức lột trần:
Người ta năm chị bảy em
Tôi đây như thể chiếc nem lột trần
Tôi đây như thể chiếc nem lột trần
Phía tay mặt là Gò Vấp, xưa kia là một ngọn đồi trồng cây vấp.
Thứ cây này xưa kia được coi như thần mộc, yểm hộ cho dân tộc Chàm. Dã sử thuật
lại rằng vào đời vua Chiêm cuối cùng là Pô Romé (1627-1651), vua này muốn vừa ý
một ái phi người Việt đã ra lệnh đốn cây Kraik (vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn
ngự uyển. Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng không sao hạ nổi vì vết rìu mỗi lần bổ
xong thì khép lại ngay. Nhà vua tức giận cầm lấy rìu hạ xuống một nhát, tức thời
một tiếng rên rỉ vang lên và cây gục xuống giữa một vũng máu. Và cũng từ đó vận
khí nước Chiêm suy dần cho đến ngày tàn tạ.
Bây giờ ta vào thành phố Saigon, nơi mà 300 năm về trước
(1674) tiền đạo quân ta lần đầu tiên đã đặt chân tới,mang theo khẩu hiệu: “Tĩnh
vi nông, động vi binh”. Quân ta không phải tư động mà đến, chính là do lời yêu
cầu khẩn thiết của nhà đương cuộc hồi bấy giờ. Họ khai khẩn đất đai với sức dẻo
dai sẵn có, đào sông ngòi trong vùng đất thấp và đây đó khắp nơi, xây dựng
thành trì kiên cố.
Một trong những công tác quân sự ấy do tướng Nguyễn Đức Đàm
xây năm 1772, rồi đến thành trì Phan An xây năm 1790, kế đến là thành Gia Định
xây năm 1836. Những thành ấy xây đắp với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí
như đã ghi trong câu ngạn ngữ:
Dân đất Bắc
Đắp thành Nam:
Đông đã là đông!
Sầu Tây vòi vọi!
Đắp thành Nam:
Đông đã là đông!
Sầu Tây vòi vọi!
Chúng ta đang ở trung tâm thành phố Saigon (sài là củi, gòn
là bông gòn) chuyển sang chữ nho thành Sài-Côn là củi gòn, vì chữ nôm gòn viết
là Côn, như Ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đã ghi trong tác phẩn Gia Định Thống
Chí mà hiện nay chúng còn một bản dịch ra pháp văn của ông Gabriel Aubaret.
Theo một số người khác thì Saigon có lẽ do chữ Đê Ngạn đọc
thành Tai Ngon hay Thay gon theo giọng Quảng Đông hay Tingan theo giọng Triều
Châu, dùng để chỉ thành phố do người Tàu lập nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ
Biên hòa vì chiến sự giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, để nhờ sự bảo hộ của quân đội
chúa Nguyễn đóng tại Bến Nghé.
Nguyên ủy xa hơn cả có lẽ là sự chuyển âm của một danh xưng tối
cổ Preikor, có nghĩa là rừng gòn, một loại cây hiện nay còn trồng ở Thủ Đô.
Theo Ông Verdeille thì Saigon có thể là hai chữ nho: Tây Cống
đọc chạnh ra, tên này ám chỉ rằng thành phố là phần đất xưa kia đã được các vị
vua phía Tây cống hiến cho ta. Ta nên lưu ý rằng tên Siagon chỉ được dùng trong
các văn kiện của Pháp kể từ 1784 trở đi mà thôi.
Còn danh xưng của Chợ lớn mà người Tây đọc liền lại là
Cholon, nó chỉ ngôi chợ xưa kia nằm trên địa điểm hiện tại của Sở Bưu điện Chợ
lớn kéo dài tới tận Đại Thế Giới cũ. Chợ này lập song song với chợ nhỏ hiện nay
còn tồn tại với tên chợ Thiếc ở phía trường đua Phú Thọ. Về sau Chợ lớn được dời
tới Chợ lớn mới do nhà đại phú Quách Đàm xây tặng, tượng họ Quách vẫn còn ở giữa
đỉnh chợ Bình Tây
Sự biến đổi địa âm dạng của địa danh Saigon đã tùy sự hiện diện
liên tiếp của những người quốc tịch khác nhau như Preikor (rừng gòn), Tai- Ngon
hay Thầy gòn của người Trung Hoa mà ta đọc là Đê-ngan, người phương tây dùng chữ
la mã ghi là Saigon từ năm 1784.
Hồi xưa tên Saigon chỉ áp dụng cho khu vực Chợ lớn hiện thời,
còn chính Saigon bây giờ thì khi ấy là Bến Nghé (theo Trịnh Hoài Đức, theo các
nhà hàng hải Âu Mỹ, theo bản đồ do ông Trần Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng chạp
năm Gia Long thứ 14 (1815) ghi trên vùng Chợ lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ Rẫy
ba chữ Saigon xứ, khoảng gần Cây Mai và Phước Lâm. Khu Saigon cao, nằm phía Đồn
Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm 1836 sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn, chắc đã có
người ở từ thời thượng cổ, chứng cớ là những khí giới và đồ dùng bằng đá mài
tìm thấy khi đào móng nhà thờ Đức Bà. Khu thấp thường gọi là Bến Nghé hay bến
Thành.
Bến Thành là cái tên ở gần hào thành Gia Định, nguyên trước
có cái rạch nối liền hào thành với sông Bến Nghé và có cái chợ gọi là chợ Bền
Thành. Cái rạch ấy về sau lấp đi thành Đại lộ Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu
ca dao như sau:
Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ,
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em!
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em!
Bến Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu
con, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng ông
Đốc phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng
thường kêu nghé nên gọi là Bến Nghé- Trịnh hoài Đức dịch là “Ngưu-tân” Bến Nghé
là cái bến sông Saigon có tên là sông Bến Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang
hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót (theo gia-định thống chí). Còn cái rạch Bến
nghé nối dài bởi kinh Tàu hủ (Arroyo chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và
chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé. Bến Nghé tức là Saigon
và khi ta nói Đồng Nai-Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
Phía đông Saigon có một cái kênh gọi là rạch Thị Nghè hay là
rạch Bà Nghè. Bà tên là Nguyễn Thị Canh, con gái thống suất Nguyễn Cửu Văn tức
Văn Trường Hầu, đẹp duyên với một ông nghè. Để cho chồng bà tiện đường qua rạch
hàng ngày vào làm trong thành, bà cho dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng
được. Để tỏ lòng nhớ ơn một bậc nữ lưu, họ đã gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè. Đến
khi Tây đến đánh thành Saigon, pháo hạm Avalanche tiến vào rạch này đầu tiên
nên họ mới gọi là Arroyo de l’Avalanche.
Trên rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc cầu ván dựng tạm
cho người qua lại. Chiếc cầu nổi tiếng hơn cả là cầu Ông Lãnh, được xây nhờ
công ông Lãnh binh, thời tả quân Lê Văn Duyệt. Còn những chiếc cầu khác là Cầu
Muối, Cầu Khóm (thơm), Cầu Kho và Cầu học (giếng học).
Về các công sự thì có:
Dinh Norodom khởi công ngày chủ nhật 23/2/1868 với sự tham dự
dông đảo của dân chúng. Thủy sư Đô Đốc De La Grandìère với sự hiện diện của kiến
trúc sư Hermitte từ HongKong tới, đã đặt viên đá đầu tiên vuông vức mỗi bề nửa
mét,trong đó đựng một hộp chì chứa nhũng đồng tiền vàng và bạc dập hình vua
Napoléon III. Đức Giám mục Miche, cai quản địa phận,với một số đông con chiên,
đã ban phép lành và đọc một diễn văn lời lẽ cao quý đã làm cử tọa đặc biệt chú
ý. Công cuộc xây cất trên một khoảng đất rộng 14 mẫu tây đã phải dùng tới hai
triệu viên gạch,và cái móng dày tới 3,5m tốn mất 2.436 thước khối đá xanh Biên
Hòa. Công tác đã hoàn thành năm 1875 và người đầu tiên đến ở trong dinh đó là
Thủy sư Đô Đốc Roze. Sau 84 năm Pháp thuộc, ngày 7/9/1954 Đại tướng Ely, Cao ủy
Pháp đã trả dinh thự này cho Chính phủ Việt Nam thời bấy giờ.
Tòa Đô Sảnh (1901-1908) trên có một gác chuông do họa sĩ
Ruffier trang trí mặt tiền
Viện Bảo Tàng Quốc Gia xây năm 1927, khánh thành ngày
1/1/1929, bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư hại ngày 8/3/1946 và được hoàn lại
chính phủ Việt Nam ngày 19/9/1951 thu thập tới 4.000 cổ vật đã kê thành mục lục
và trình bày trong 14 gian phòng.
Vườn Cầm Thảo (Sở Thú) tương tự với rừng Vincennes ở Pháp, được
lập năm 1864. Sau khi đã san bằng,việc đứa thú tới nhốt nơi đó hoàn tất năm
1865. Ngày 28/3/1865 nhà thực vật học Pierre đảm nhiệm việc điều khiển vườn Cầm
Thảo Saigon và ngày nay nhiều giống cây ở xứ ta còn mang tên nhà bác học ấy.
Đây đó ta còn gặp một số địa danh nguồn gốc Tây Phương như:
Ba-Son (Arsenal) trong có một bến sửa tàu (bassin de radoub) xây bằng ximăng cốt
sắt từ năm 1858, và bến tàu nổi được hạ thủy tháng giêng năm 1866. Chữ Ba-Son
do chữ Bassin mà ra.
Tao Đàn Vườn Bờ Rô (do chữ Jardin des Beaux Jeux) hay là vườn
Ông Thượng, xưa kia là hoa viên của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, nay là vườn Tao
Đàn.
Dakao là biến danh của Đất Mộ (đất của lăng)
Lăng-tô là biến danh của Tân Thuận, tên một làng mà dân
Saigon thường đến hóng mát (pointe des flaneurs).
Bây giờ chúng ta rời Saigon xuống đò Thủ-Thiêm qua bên kia sông
xem địa phận mà chính phủ đang trù định một chương trình kiến thiết rộng lớn,để
biến nơi này thành một khu vực nguy nga tráng lệ.
Con đò Thủ-Thiêm ngày xưa đã hấp dẫn một số đông những chàng
trai trẻ:
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.
nhưng một ngày kia chàng trai phải ra đi trong khói lửa chiến
tranh,đến khi trở về thì than ôi:
Ngày đi trăm hoa hẹn hò,
Ngày về vắng bóng con đò Thủ Thiêm!
Ngày về vắng bóng con đò Thủ Thiêm!
Từ Thủ-Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một nơi gọi là Nhà Bè
hay là Ngã Ba Sông Nhà Bè, nơi mà con sông Đồng Nai gặp con sông Saigon cũng gọi
là sông Bến Nghé. Ngày xưa ở chỗ ấy ông Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí
lúa gạo cho những kẻ lỡ đường và ngày nay còn vọng lại mấy câu hò tình tứ của
cô lái miền quê:
Nhà Bè nước chảy chia hai:
Ai về Gia định Đồng Nai thì về!
Ai về Gia định Đồng Nai thì về!
Rời Nhà Bè, chúng ta trở lại Saigon để đi về miền Bà Chiểu, một
vùng ngoại ô trù mật ở phía đông, chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi là Cầu
Bông, vì xưa kia ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất ngoạn mục.
Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia định, nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt
(1764-1832), một vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn thờ như một vị thần
thánh.
Theo Trương Vĩnh Ký thì Bà Chiểu là một trong 5 bà vợ của ông
Lãnh Binh đã xây cái cầu ông Lãnh. Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các
cụ ngày xưa thường áp dụng, ông đã lập ra 5 cái chợ, giao cho mỗi bà cai quản một
cái: Bà Rịa (Phước Lễ), Bà Chỉểu (Gia-Định), Bà Hom (Phước Lâm), Bà Quẹo (phía
Quán Tre) và Bà Điểm (phía Thụân Kiều). Riêng chợ Bà Điểm gần làng Tân Thới quê
hương của Cụ Đồ Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên, thi phẩm đầu giường của đồng bào
Nam bộ là nơi bán trầu ngon có tiếng ở Miền Nam. Món trầu là đầu câu chuyện,
cho nên bao nhiêu chuyện,hay dở gì cũng do miếng trầu trao cho nhau mà sinh ra
cả :
Trồng trầu trồng lộn dây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con hư!
Con theo hát bội mẹ liều con hư!
Từ Bà Chiểu chúng ta trở lại Saigon để rẽ về Phú Nhuận, qua Cầu
Kiệu hay là Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa kia trồng rất nhiều hành kiệu. Phú Nhuận
(giàu sang và thuần nhã) là nơi còn nhiều cổ tích như : Lăng Đô-đốc Võ Di Nguy,
mất tại cửa bể Thị Nại năm 1801. Lăng Trương Tấn Bửu và lăng Võ Quốc Công tức
là hậu quân Vũ Tính, nơi đây vua Gia-Long có cho trồng 4 cây thông đưa từ Huế
vào để tỏ lòng mến tiếc. Võ Tánh là một trong Gia-Định tam hùng mà dân chúng nhắc
tới trong những điệu hò giao duyên.
Theo thường lệ :
Người con gái lên tiếng trước:
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung:
Hỏi ai Gia-Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng?
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung:
Hỏi ai Gia-Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng?
Người con trai liền đáp lại:
Ông Tánh, Ông Nhân cùng Ông Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia-Định tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có Ông Võ Tánh,
Tài cao sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không!
Tài cao sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không!
Về phía Tân Sơn hòa có Lăng Cha Cả là một cổ tích kiến trúc
Việt Nam xưa nhất ở vùng Saigon. Nơi đây mai táng Đức Giám Mục Bá-Đa-Lộc, mất tại
cửa Thị Nại năm 1799.
Rời khỏi ngoại ô Saigon chúng ta thuê một chiếc thuyền con về
vùng Lái Thiêu (tức là ông Lái gốm họ Huỳnh đã thiêu nhà vì say rượu) để thăm
vườn trái :
Ghe anh Nhỏ mũi tráng lường
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em
Nơi đây quy tụ rất nhiều trái ngon đặc biệt như : dâu da,
thơm, bòn bon, mít tố nữ, măng cụt và nhất là sầu riêng (durian) là giống cây từ
Mã Lai đưa vào Cây Sầu riêng thân cao lá ít, trái có gai bén nhọn kinh khủng,
cho nên trời chỉ cho phép nó rụng khi đêm khuya thanh vắng mà thôi! Đồng bào
Nam-bộ liệt nó vào hàng đầu trong các loài trái, vì nó có đủ năm mùi hương vị đặc
biệt như quả lê Trung hoa. Những người xa lạ phải chịu nhẫn nại một thời gian mới
thông cảm và khi đã thông cảm rồi thì thèm muốn như mê say, chỉ trừ anh học trò
thi rớt:
Có anh thi rớt trở về
Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn
Sầu riêng anh chẳng buồn ăn,
Bòn bon, tố nữ anh quăng cùng đường!
Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn
Sầu riêng anh chẳng buồn ăn,
Bòn bon, tố nữ anh quăng cùng đường!
Tại vùng Lái Thiêu, có một ngôi nhà thờ cổ kính xây từ thế kỷ
XVIII trên ngọn đồi xinh tươi, chung quanh có nhiều lò gốm, lò sành và một trường
dạy học cho trẻ em câm điếc với một phương pháp riêng biệt.
Đến Búng chúng ta không quên đi thăm chùa Phước Long ở vùng
An Sơn, có ông huề thượng thâm nho, thường ra nhiều câu đối bí hiểm cho những
khách nhàn du :
Rượu áp sanh (absinthe) say chí tử
Có người đã đối lại như sau:
Bóng măng cụt mát nằm dài
Trong chùa ông huề thượng có ghi hai câu:
Cúng bình hoa, tụng pháp hoa, hoa khai kiến Phật.
Dâng nải quả, tu chánh quả, quả mãn thông Thần
(sưu tầm bài viết của ông Tân Việt Điêu trong Văn hóa nguyệt
san số 33 năm 1958)
Tên gọi Saigon từ đâu?
Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn
Ta, tốn rất nhiều thì giờ và công sức. Cho đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về
xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3 thuộc loại quan trọng hơn.
Xin ghi lại 3
thuyết quan trọng hơn dưới đây:
Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề Ngạn), Xi- Coón (Tây Cống): Đây là
thuyết được đưa ra bởi 2 tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier (người
bị giặc Cờ Đen phục kích chết ). Theo Aubaret, Histoire et description de la
Basse-Cochinchine và Garnier, Cholen, thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây
Sơn tàn sát, đã lập nên thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố
đó là Tai-ngon hay Ti-ngan. Sau dó, người Việt bắt chước gọi theo và phát âm
thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm
đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón, rất giống
Sài Gòn! Tuy nhiên, theo lịch sử thì không phải.
Tại sao? Vì lịch sử chứng minh rằng Saigon có trước, rồi
người Tàu mới đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coọn.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674
Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở “Luỹ
Sài Gòn”(theo Hán-Việt viết là “Sài Côn”). Đây là lần đầu tiên chữ Sài
Gòn xuất hiện trong tài liệu sử sách Việt Nam . Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán
“Côn” được dùng thế cho “Gòn”. Nếu đọc theo Nôm là “Gòn”, còn không biết đó là
Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là “Côn”.
Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Saigon! Thì
làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy
xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.
Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây Gòn, Prey Kor. Thuyết này được Petrus
Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự “nghe nói” như sau:
“Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ; Gòn
là tiếng Nam chỉ bông gòn . Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều
cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu
vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận”.
Không biết tại sao mà sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển
lại quả quyết thuyết này là “của” Trương Vĩnh Ký , mặc dù ngay sau đoạn
này, TVK lại viết tiếp “Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt
cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc
đích thực của tên đó”.
Tương tự, có nhiều thuyết phụ theo nói rằng Sàigòn từ “Cây
Gòn” (Kai Gon) hay “Rừng Gòn” (Prey Kor) mà ra. Nói chung, các thuyết này đều dựa
trên một đặc điểm chính: cây bông gòn.
Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là
không ai tìm được dấu tích của một thứ “rừng gòn” ở vùng Sàigòn, hay sự đắc dụng
của củi gòn ở miền Nam, kể cả nhà bác học Trương Vĩnh Ký . Ngay vào thời của
Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ
ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó Sàigòn không có phát triển hay thay đổi gì
cho lắm. Cay gonNgay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không
có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sàigòn.
Sài Gòn từ Prei Nokor: Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể
chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện nay được coi như là “most likely”.
Chính Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong
Tiểu Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã công bố 1 danh sách đôi chiếu 187 địa
danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là
Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokọr
Trước nhất, theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis
Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao
Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Saigon) và Kras Krabei của Cao Miên để đặt
phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Histoire de la
Mission Cochinchine, có ghi Rai Gon Thong (Sài Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ (Sài
Gòn Hạ).
Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay
Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là “thị trấn ở trong
rừng”, Prei hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa
Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như đã nói ở trên.
Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI,
thành”Sài”, Nokor bị bỏ “no” thành “kor”, và từ “kor” thành “Gòn”. Từ Prei
Nokor …mà thành SàiGòn thì thật là …dễ sợ !
Còn sở dĩ có Saigon viết dính nhau là do các giáo sĩ Tây
phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta, để khỏi đọc
“sai” ra “sê” theo giọng Pháp nên Saigon được viết với hai dấu chấm trên chữ i.
HỒ ĐÌNH VŨ/ 8Saigon
No comments:
Post a Comment