SƠ LƯỢC VỀ
BỜ BIỂN NAM KỲ
Bờ biển
Nam Kỳ (Cochinchine, Nam Phần, Nam Bộ) bắt đầu từ ranh giới Bình Tuy- Bà Rịa, đến
Mũi Cà Mau thuộc Biển Đông, và từ Mũi Cà Mau đến Hà Tiên thuộc Biển Tây, có
hình chữ V, chạy qua 10 tỉnh và thành phố (ngày nay) là Bà Rịa, TP HCM, Đồng
Nai, Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang.
Tổng cộng bờ biển Nam Kỳ dài 1086 km, riêng phần bờ biển Đồng Bằng Cửu Long dài
768 km. Theo Phân Viện Điều Tra Quy Hoạch Bộ Nông Nghiệp, rừng ngập mặn (RNM) ở
Nam Kỳ chiếm 81% diện tích RNM toàn quốc, trong lúc RNM ở Bắc Kỳ chiếm 18% và
Trung Kỳ 1% ở thời điểm năm 2006 (ĐTQH, 2006).
Sau đây
là các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự thành lập và sự phong phú của RNM ở Nam Kỳ.
Sông ngòi và hệ thống kinh rạch
Đây là
vùng có rất nhiều sông và cửa sông lớn với hệ thống kinh rạch chằng chịt. Chảy
ra Biển Đông có Sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, Tiền Giang với 6 cửa sông, Hậu
Giang với 3 cửa sông, sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, sông Mỹ Thạnh (Sóc
Trăng),và sông Gành Hào. Nối Biển Đông với Biển Tây có Sông Cái Lớn dài 56 km.
Chảy ra Biển Tây có sông Bảy Háp, sông Cái Tàu, sông Ông Đốc, sông Trẹm với
hàng chục ngàn kinh rạch nhỏ.
Riêng hai
sông Tiền và Sông Hậu hàng năm chảy ra biển khoảng 550 tỷ m3 nước ngọt,
trung bình chứa 0,2-1,0 kg phù sa/m3 tùy mùa, tạo thành các cồn ở cửa
sông, đất bồi dọc theo bờ biển, hay được dòng nước biển (hải lưu) mang bồi đắp ở
Mũi Cà Mau. Tổng cộng các sông ngòi của ĐBCL hàng năm mang phù sa khoảng 3.000
m3/giây vào tháng Tư đến 30.000 m3/giây vào tháng Chín (Brunner
& Quyen, 2011).
Thủy triều
ĐBCL chịu hai chế độ thủy triều khác nhau. Ở
Biển Đông (từ Vũng Tàu đến Mũi Cà Mau) vùng
đất tiếp giáp biển chịu chế độ bán-nhật-triều (semi-diurnal, trong 24 giờ
ngày-đêm có 2 lần mực nước lên và 2 lần mực nước xuống), ngược lại vùng đất
tiếp cận Biển Tây (Vịnh Thái Lan, từ Mũi Cà Mau đến Hà Tiên) chịu chế độ
toàn-nhật-triều (diurnal, trong 24 giờ ngày-đêm có 1 lần mực nước lên, và 1 lần
mực nước xuống). Biên độ thủy triều Biển Đông trung bình tại cửa biển khoảng
3,0 – 3,5 m trong kỳ thủy triều lớn, vì vậy nước mặn thâm nhập sâu vào nội địa,
tạo rừng ngập mặn phong phú từ cửa biển vào xa trong nội địa. Ngược lại, ở Biển
Tây, biên độ thủy triều nhỏ hơn, trung bình 0,8 đến 1,2 m, và càng về gần Hà
Tiên thì càng nhỏ dần. Ảnh hưởng vào nội địa tương đối ít.
Hải lưu
Bờ biển ở ĐBCL chịu ảnh hưởng của 2 dòng hải lưu.
Trong mùa đông (tháng 11 đến tháng 3) từ Thái Bình Dương dòng hải lưu chảy vào
vùng biển Đông dọc Nam Kỳ cho tới Cà Mau theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, với tốc
độ trung bình 0,4-0,9 m/giây. Dòng hải lưu này gây xói lở mạnh ở phía bờ biển
Đông và mang theo phù sa sông Cửu Long cùng đất do xói lở ở biển Đông trôi về
hướng Tây Nam ra Mũi Cà Mau và Vịnh Thái Lan. Vào mùa hè (từ tháng 5 đến tháng
10), dòng hải lưu đến từ biển Java chảy theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, tạo điều
kiện cho phù sa lắng động tại Mũi Cà Mau và dọc bờ biển Tây.
Hình
1. Dòng hải lưu
mùa đông (tháng 11 đến tháng 3) và dòng hải lưu mùa hè (tháng 5-9) trên
Biển Đông. Mũi tên biểu thị hướng dòng chảy trung bình, các con số
biểu thị tốc độ dòng chảy trung bình theo đơn vị kn (1 kn ≈ 0.51 m/s)
(Nguồn: U.S. Naval Occeanographic Office, 1957) (theo Hung et al., 2014).
Độ dốc
mực nước:
Vì thủy triều Biển Tây đi sau thủy triều ở Biển
Đông vài giờ, và biên độ thủy triều ở Biển Đông cao hơn Biển Tây, nên mực nước
biển Đông thường cao hơn mực nước ở Vịnh Thái Lan. Vì vậy, nước Sông Cửa Lớn,
nối Biển Đông với Biển Tây, chảy theo hướng Đông -Tây, từ cửa Bồ Đề ở Biển Đông
sang Ông Trang thuộc Biển Tây. Vận tốc trung bình dòng chảy rất cao (khoảng
0,30 - 0,46 m/giây) vì hầu như không có thời gian nước đứng. Trong thời điểm
thủy triều rút nhanh vận tốc có thể đạt đến 0,9 - 1,1 m/giây. Nhờ vậy, một
lượng lớn phù sa, khoảng 1.030.000 tấn/năm được chuyển tải từ biển Đông sang
Vịnh Thái Lan theo sông Cửa Lớn bồi lắng tại vùng cửa sông Ông Trang. Mặt khác,
do chế độ thủy triều như vậy, bờ biển Đông có đê tự nhiên cao hơn so với phía
Tây (Trí, 2009).
Độ mặn:
(Độ muối,
salinity) biến đổi theo vùng vì ảnh hưởng của thời tiết (mùa mưa, mùa nắng, mưa
nhiều hay ít), gần cửa sông lớn hay nhỏ, hải lưu, v.v. Vùng biển từ Vũng Tàu đến
Xoài Rạp (tức vùng RNM Cần Giờ), độ mặn trung bình hàng năm khá cao, khoảng
30,3 ppm (phần ngàn), thấp nhất là 27,5 ppm vào tháng 9, nên các loại cây chịu
mặn giỏi như Sonneratia alba, Rhizophora apiculata làm cây tiền phong
chống sóng gió, kế bên trong là Xylocarpus
granatum, Kandelia kandel, Rhyzophora mucronata, Avicennia alba, A. officinalis, Ceriops tagal,
Aegiceras corniculatum (Hong &
San, 1993).
Tại Gò Công, độ mặn từ 15 – 26 ppm ở tầng mặt 10 cm, và từ 16 – 27 ppm ở tầng dưới 40 – 50 cm).
Độ muối của
nước vùng bờ biển Cà Mau biến thiên 22-26 ppm rất thích hợp cho hầu hết loại
cây rừng ngập mặn. Ngoài ra các giống cây RNM như Avicennia alba, A. marina,
Rhizophora mucronata, R. stylosa có khả năng thích ứng độ muối
thật mặn trong mùa khô, hay độ mặn loảng trong mùa mưa. Ngược lại, dừa nước (Nypa fructicans) chỉ thấy ở các đầm sông
rạch nước lờ lợ có độ mặn 5-15 ppm bên trong nội đỉa.
Cấu tạo địa chất:
Ngoại trừ
vùng có nền đá cứng ở bắc Hà Tiên, nền móng bờ biển Nam Kỳ là trầm tích phù sa,
đất mịn do các sông bồi lấp, nên rất thích hợp cho cây RNM cấm rễ vững chắc.
Tuy nhiên, bờ biển vì vậy dễ bị xoi mòn bởi sóng và dòng nước chảy.
DIỄN BIẾN RỪNG NGẬP MẶN TOÀN QUỐC
Việt Nam, Mexico, Singapore, Phi LuậtTân và Thái Lan là 5 quốc gia có
RNM bị tàn phá nhất trong vòng 50 năm nay.
Maurand (1943) cho biết ở đầu thập niên 1940, toàn
Việt Nam có khoảng 408.500 ha RNM, trong số đó 250.000 ha ở Nam Kỳ, riêng Cà
Mau khoảng 200.000 ha và khoãng 40.000 ha ở rừng sác Biên Hòa và vùng Sài Gòn
(Hong & San, 1993).
Theo Bộ Nông Nghiệp, vào năm 1983 Việt Nam còn
khoảng 252.000 ha RNM, đa số là rừng thứ cấp gồm cây gỗ và cây bụi (bush)
(81.5%) và rừng trồng (18.5%) (%) (Hong & San, 1993)
Bảng 1.
Diện
tích RNM của Việt Nam ở các thời điểm báo cáo kể từ 1940 (do tác giả tổng hợp).
1940
|
1962
|
1982
|
2006
|
2010
|
Nguồn
|
408.500
|
Maurand (1943)
|
||||
408.500
|
290.000
|
252.000
|
209.700
|
166.200
|
Quế & Hải (2012)
|
408.000
|
160.000
|
Tuấn (2012)
|
Các tường
trình về diện tích trong Bảng 1 lấy từ nguồn thống kê của Bộ Nông Nghiệp. Độ
chính xác vì vậy khó có thể biết được do con số thống kê thường bị ảnh hưởng bởi
nhu cầu chính trị.
Xử dụng kỹ
thuật máy hình nhạy-cảm-màu từ xa (remote sensor) gắn trên vệ tinh (Tong et al., 2004; Thu
& Populus, 2007; Duke et al.,
2010; Brunner & Quyen, 2011; Brunner, 2012; Vo et al., 2013; Nguyen L.D. et al., 2013; Nguyen, H.H. et al., 2013; Nam et al., 2014; Miyagi
et al., 2014; V Tran Thi et al., 2014), phân tích hình ảnh RNM được chụp
cho độ chính xác cao hơn là ước tính do cơ sở thống kê địa phương. Trong cách ước
lượng với kỹ thuật canh tân này, Vo et
al. (2013) tổng hợp RNM toàn quốc trong Hình 2.
Hình 2. Diễn biến diện tích RNM ở Việt Nam kể từ 1940 (Vo et al., 2013)
So sánh Bảng
1 với Hình 2, có sự khác biệt rất lớn (gấp đôi) giữa các con số thống kê của Bộ
Nông Nghiệp và phương pháp không ảnh chụp từ vệ tinh trong thời gian sau năm
2000, và đặc biệt diện tích RNM không thay đổi trong thời gian 2002-2009 (Hình
2), mặc dầu chính phủ tuyên bố đã trồng lại 294.500 ha RNM riêng cho ĐBCL (TTXVN, 2013).
Theo Bộ
Nông Nghiệp, trong thời gian 1940-2007, vận tốc sụt giảm diện tích RNM trung
bình trên toàn quốc (từ 408.500 còn 209.700 ha) là 3.000 ha/năm (Quế & Hải,
2012), nhưng theo dữ kiện ở Hình 2 thì khoảng 7.000 ha/năm trong thời gian
1940-2002.
Nguyên
ngân của sự sụt giảm diện tích RNM trước 1962 là lạm thác (over exploitation),
biến RNM thành đất trồng trọt, bởi thuốc khai quang trong thời kỳ chiến tranh
1963-1973, và sau 1980 bởi phá RNM để nuôi tôm và hải sản khác, phát triển đô
thị (như ở Vũng Tàu), du lịch và bị hủy hoại bởi nước thải công nghiệp (như
Vũng Tàu).
DIỄN BIẾN RNM NAM KỲ
Trước 1860, không có thống kê diện tích và tình trạng rừng ở Nam Kỳ. Bản
đồ đầu tiên in năm 1889 có phần rừng và cho biết tổng số rừng ở Đông Dương là 313.000 km2, và Nam
Kỳ là 18,000 km2 (Joffre,
2010), nhưng không biết về số lượng RNM.
Năm 1891, Henri (theo Joffre, 2010) ước tính diện tích rừng ngập nước
(inundated forest) ở Nam Kỳ là 2.484.000 ha, gồm rừng nước lợ mặn (brackish
water) là 1.034.000 ha, và 300.000 là rừng ngập nước ngọt (fresh water) (theo
Joffre, 2010). Theo định nghĩa của Henri dựa theo độ mặn và thời
gian nước ngập, thì rừng ngập nước ngọt thời gian dài là rừng tràm (Melaleuca), còn rừng ngập nước mặn thời
gian dài là RNM (Rhizophoracee). Theo Joffre (2010),
rừng ngập nước thấy ở gần Sài Gòn, Bà Rịa (tức Rừng Sác, RNM Cần Giờ ngày nay)
ở phần phía đông Nam Kỳ, nhưng đa số rừng thấy ở trong Đồng Bằng Cửu Long
(DBCL), kể cả Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên, Sóc Trăng và Châu Đốc, ghi rỏ trong
bản đồ năm 1923, với tổng số rừng là 1.150.000 ha (Hình 3).
Cánh rừng
bạt ngàn ở phía tây ĐBCL là RNM thuần nhất cấu tạo bởi vài giống, ngược lại RNM
ở phía đông (tức vùng Cần Giờ) thì cấu tạo bởi nhiều giống sống chung.
Vào năm
1917, toàn thể RNM ở Cà Mau ước tính 300.000 ha, là RNM lớn nhất và còn nguyên
vẹn, vì con người chỉ khai thác RNM gần Sài Gòn mà thôi. RNM Cà Mau được chia
làm 4 khu rừng dự trữ (reserves) (Joffre, 2010).
Hình 3. RNM Nam
Kỳ năm 1917 (Carte Forestière de la
Cochinchine. 1917). Tỷ lệ xích: 1:500.000. Đăng trong “Rapport sur la
Situation Forestiere, 1917”. Khu vực tô màu vàng là RNM (theo Joffre, 2010)
Vào năm 1926, tổng số RNM trong
các khu rừng dự trữ Cà Mau là 194.502 ha, chưa kể RNM ngoài khu dự trữ (Joffre,
2010).
Hình 4.
Bản đồ rừng ở Nam Kỳ năm 1925, do Henri Guibier, Thanh Tra Thủy Lâm vẻ. RNM dọc
sông và ven biển có màu xanh, rừng Tràm chấm xanh trong nội địa (nguồn: Joffre,
2010).
Vào năm 1938, RNM Nam Kỳ có
329.000 ha, trong số này 140.000 ha ở Cà Mau, 30.000 ha ở Bà Rịa, 20.000 ha ở
Rạch Giá, và 139.000 ha trong các tỉnh Trà Vinh, Mỹ Tho, Bến Tre và Hà Tiên
(Joffre, 2010) (Hình 5).
Hình 5. RNM Nam
Kỳ năm 1938 do P. Maurand vẻ, đăng trong “L‟Indochine Forestiere”, 1938.
Tỉ lệ xích 1:2.000.000. Màu xanh: RNM; sọc: Rừng Tràm (Theo Joffre, 2010)
Hình 6. RNM ở Nam Kỳ năm 2004 (Brunner & Quyen, 2011)
Hình 7. RNM ở
Nam Kỳ năm 2010 (Brunner & Quyen, 2011)
RNM trong 10 tỉnh thành ven biển Nam Kỳ
(Bà Rịa, Đồng Nai, TP Hồ Chí
Minh, Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang)
chiếm 81% diện tích RNM trên toàn quốc ở thời điểm 2006.
Theo thống kê của Bộ Nông Nghiệp, vào năm 1983 Nam
Kỳ còn khoảng 191.800 ha trong đó RNM tự nhiên chiếm 149.000 ha (77.9%) và rừng
trồng chiếm 42.800 ha (22.1%) (Hong & San, 1993)
Vào đầu
thế kỷ 21, ĐBSCL còn gần 100.000 ha RNM (Tong et al., 2004) , tập trung ở các tỉnh Cà Mau (58.285 ha), Bạc Liêu
(4.142 ha), Sóc Trăng (2.943 ha), Trà Vinh (8.582 ha), Bến Tre (7.153 ha), Kiên
Giang (322 ha), Long An (400 ha). Hệ thực vật rừng ngập mặn vùng ĐBSCL có 98
loài cây rừng. Riêng các hệ sinh thái đất ngập nước có 36 loài thú, 182 loài
chim, 34 loài bò sát và 6 loài lưỡng cư; vùng biển và ven biển có đến 260 loài
cá và thuỷ sản (TTXVN, 2013).
Các số liệu nói trên có nguồn từ thống kê của Bộ Nông Nghiệp. Theo Ông Jake Brunner, Điều phối viên Chương trình Mekong cho biết một nghiên cứu dựa trên ảnh vệ tinh có độ phân giải cao do IUCN và Viện công nghệ vũ trụ thực hiện tại Huyện Ngọc Hiền, Cà Mau cho thấy diện tích RNM đã giảm 30% trong thời gian 2004-2009 (Brunner, 2012). Một nghiên cứu khác tại tỉnh Kiên Giang do GIZ và đại học Queensland tiến hành cũng cho thấy sự khác biệt 36%, theo thống kê chính phủ thỉ diện tích RNM toàn tỉnh là 5.430 ha, trong lúc ước tính dựa trên không ảnh từ vệ tinh là 3.500 ha (Duke et al., 2010). Tương tự như vậy, thống kê cho biết diện tích RNM Bến Tre là 4.202 ha, trong khi kết quả không ảnh do Đại Học Cần Thơ thực hiện cho kết quả 1.747 ha (Tuấn et al., 2012).
BIẾN ĐỔI RNM TỪNG TỈNH Ở NAM KỲ
BÀ RỊA
Có hai
con sông nhỏ là sông Dinh và sông Ray, với bờ biển dài 312, 8 km. Mức độ phá
hủy RNM ở tỉnh Bà Rịa khá trầm trọng, chỉ trong 6 năm từ 1991 đến 1997, toàn
tỉnh mất 2.756 ha (54%). Nguyên nhân chánh là do việc phá rừng để phát triển khu công nghiệp và đô thị hóa tăng nhanh. Chẳng hạn việc quy
hoạch RNM để hình thành khu công nghiệp Phú Mỹ I, Phú Mỹ III, khu công nghiệp
Cái Mép, v.v.. Một yếu tố khác
là chất phế thải từ khu công nghiệp.
Hình
8. RNM nằm trên địa
bàn phường 12 TP. Vũng Tàu đang bị suy kiệt vì hàng ngày phải tiếp nhận cả khối
nước thải chưa qua xử lý của các cơ sở chế biến hải sản ra môi trường
CẦN GIỜ
Bờ biển Cần Giờ dài 35 km, độ mặn
cao nhất là 19-20 ppm ở bờ phía bắc, 26-30 ppm ở bờ nam vào tháng 3 và 4, nhưng
trong mùa mưa chỉ còn 4-8 ppm, trung bình hàng năm là 18 ppm. Đây là vùng RNM
lớn thứ 2 ở Việt Nam sau RNM Cà Mau, có chiều sâu vào nội địa tới 30 km thành hình ở các cửa sông Vàm Cỏ
Tây, Vàm Cỏ Đông, sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Ngày xưa gọi là Rừng Sác,
thuộc tỉnh Biên Hòa và vùng Sài Gòn, có diện tích RNM nguyên sinh 40,000 ha
(Hong & San, 1993), nay mang tên Khu Dự Trữ Sinh Quyển Cần Giờ, có diện
tích tổng cộng 75.740 ha, vì bao
gồm cả RNM Vũng Tàu và Đồng Nai, trong đó có 31.773 ha RNM, trong số này 12.709 ha là rừng tự
nhiên (40%), và 19.064 ha (60%) là rừng trồng kể từ sau 1978 (Anh et al. 2014).
Hình 9. Diễn
biến RNM Cần Giờ năm 1940 (trái) (Hồng
& San, 1993), và năm 2010 (phải) (Miyagi et al., 2014).
Trong
thời kỳ chiến tranh (1964-1970), khoảng 57% RNM Cần Giờ bị hủy diệt bởi thuốc
khai quang Agent Orange (2,4-D and 2,4,5-T).
Hình 10. RNM Cần
Giờ trước và sau khi bị thuốc khai quang (Anh et al., 2014)
Ngoài ảnh
hưởng của thuốc khai quang, việc chặt cây lấy gỗ, đốt than và nhất là sau này
phá RNM làm đầm nuôi tôm, RNM Cần Giờ bị hủy diệt trầm trọng. Kể từ 1978-2000,
ngoài việc RNM tái sinh, khoảng 21.100 ha Rhizophora apiculata, 715 ha Eucalyptus spp,
281 ha dừa nước, và 300 ha những giống RNM khác được trồng, nâng tổng số rừng
trồng là 23.034 ha (Anh et al., 2014).
Khu Dự Trữ Sinh Quyển Cần Giờ, có diện tích tổng
cộng 75.740 ha, trong đó gồm vùng lõi 4.721 ha, vùng đệm 41.139 ha, và vùng chuyển tiếp 29.880 ha (Anh et al., 2014).
Hệ thực vật
nơi đây rất phong phú với trên 150 loài thực vật, gồm nhiều loại cây, chủ yếu là bần trắng, mấm trắng, các quần hợp đước đôi -
bần trắng cùng xu ổi, trang, đưng v.v… và các loại nước lợ như bần chua, ô rô,
dừa lá, ráng, v.v.
ĐỒNG NAI
RNM tỉnh Đồng Nai là
một phần Tây Bắc của Khu
Dự Trữ Sinh Quyển Cần Giờ, là khu rừng phòng
hộ ngập mặn với diện tích trên 8.611 ha, nằm tại hai huyện Long Thành và Nhơn
Trạch. Đa dạng sinh học khá phong phú gồm có 97 loài thực vật với 81 chi, có 6
loài thú, 52 loài chim, 14 loài bò sát, 8 loài lưỡng cư. Tuy nhiên, nhiều loài
thú đã bị tuyệt chủng do hậu quả phá RNM ở huyện Nhơn Trạch.
BẾN TRE
Bờ biển Bến Tre dài 65 km. Độ muối tại cửa sông biến thiên 3-17 ppm.
Hình 11. RNM Bến
Tre (màu xanh lá cây) năm 2009 theo hình ảnh vệ tinh do Đại Học Cần Thơ thực
hiện (Tuan et al., 2012)
RNM
của Bến Tre tập trung chủ yếu vào các dải đất hẹp sát bờ biển với chiều rộng từ
500 - 3.000 m. Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và PTNT tại
Hội thảo bảo vệ và phát triển RNM vùng ĐBSCL diễn ra ngày 06-7-2012 tại Cần
Thơ, hiện Bến Tre có 4.202 ha RNM trong đó có 502 ha rừng tự nhiên và 3.700 ha
rừng trồng. Tuy nhiên, dựa theo hình ảnh vệ tinh, tổng diện tích RNM năm 2009
là 1.747 ha gồm 999 ha rừng tự nhiên và 749 ha rừng trồng. Cũng theo kết quả giải
đoán hình ảnh vệ tinh SPOT và điều tra thực địa thì diện tích rừng phòng hộ ven
biển tính đến cuối năm 2011 giảm 40 ha so với năm 2007 (Tuan et al., 2012). Hai
khu vực bờ biển xói lở quan trọng là (i) vùng Cửa Đại sạt lở khoảng 7 km, chiều
rộng RNM chỉ còn 200 -400 m, có nơi chỉ 20 m, mức độ xói lở 40 m/năm; và vùng
tiểu khu 15 đến tiểu khu 18 thuộc địa phận xã Thạnh Phong và xã Thạnh Hải có
chiều dài xói lở khoảng 10,8 km với mức độ xói lở khoảng 40 m/năm (Cương et
al., 2012).
GÒ CÔNG:
Bờ biển Gò Công
dài 32 km, dọc theo bờ biển có RNM phòng
hộ, trước 1955 dày đặc, gồm các loại bần, mắm, đước, dừa nước, phi lao. Thực vật dưới tán lá rừng ngập mặn rất phong
phú gồm 75 loài thuộc 35 họ. Ngày nay, Gò Công chỉ còn 1.600
ha RNM dọc bờ biển trong đó có 350 ha rừng phòng hộ, chắn che cho tuyến đê ngăn mặn dài 21 km. Theo thống kê, trong 15 năm
qua khu rừng phòng hộ Gò Công bị mất 15 ha/năm (Hạnh et al., 2014).
Hình 12. Xói mòn
RNM ở Gò Công
Từ khi dựng tuyến đường giao thông cắt qua khoảng
giữa khu RNM thuộc các xã từ cửa Rạch Soài đến Cửa Tiểu, chia RNM làm 2 phần,
phần bên trong tuyến đường không còn chế độ ngập triều nên RNM dần biến mất,
trở thành đất canh tác nông nghiệp. Phần RNM ở bên ngoài tuyến đường có độ mặn
tăng, phù sa giảm nên nhiều loài cây không kịp thích nghi bị biến mất. làm cho
các đoạn đê bao cũ phía ngoài tuyến đường ở Tân Điền và Tân Thành bị tràn vỡ
nhiều đoạn. Các địa phương phải dời đê bao cũ vào sâu phía nội địa hàng trăm
mét và tôn tạo đê bao nhiều lần trong các năm 1955, 1965 và 1967 để nối chúng
thành tuyến đê chung. Dải rừng ngập mặn nằm giữa tuyến đường giao thông và
tuyến đê cũng dần bị thoái hóa do không còn chế độ ngập triều bình thường. Đai
rừng ngập mặn bị thu hẹp chỉ còn vài trăm mét. Một số đoạn đê đã bắt đầu xuất
hiện xói lở. Một vài nơi đường bờ bị lùi sâu vào đất liền.
Sau 1978, dân hàng loạt phá rừng để canh tác và
nuôi tôm, RNM bị hoàn toàn hủy diệt, đường bờ bị xói mòn có nơi bị lùi sâu tới
296 m. Hiện tại RNM còn hiện diện ở Tân Thành và Tân Điền chủ yếu là rừng hỗn
giao đơn giản (mắm, đước) hoặc thuần loài (bần chua hoặc mắm), điều kiện tái
sinh hạn chế với dải rừng hẹp 50-150 m không đủ khả năng chận sóng (Cương et al., 2012)
TRÀ VINH:
RNM ở Trà
Vinh tập trung dọc theo 65 km bờ biển gồm toàn bộ huyện Duyên Hải, xã Mỹ Long
(Bắc, Nam) huyện Cầu Ngang và các xã Ðôn Châu, Ðôn Xuân huyện Trà Cú. Vào năm 1943, diện tích RNM tỉnh Trà Vinh khoảng 65.000 ha
(Hong & San, 1993), còn 21.221 ha năm 1965 (Thu & Populus, 2007), và
6.678 ha vào 1995 (Phuong & Hai, 1998), trong số này chỉ có 6.120 ha có giá trị gồm 640
ha bần, 580 ha đước, 400 ha mắm, 4.400 ha dừa nước. Theo Tổng cục Thống kê,
tính đến ngày 31-12-2008, tổng diện tích rừng của Trà Vinh là 6.700 ha, trong
đó, diện tích RNM tự nhiên là 1.300 ha. Theo Thu
& Populus (2007), dựa vào không ảnh từ vệ tinh, trong thời gian 35 năm từ
1965-2001 diện tích RNM Trà Vinh giảm 50 %, tuy nhiên vận tốc suy giảm từ
1965-1995 tương đối chậm, khoảng 0.2 %/năm, so với thời gian 5 năm từ 1995 đến
2001 là 13.1 %/năm. Phá RNM để nuôi tôm là yếu tố chính (Thu & Populus,
2007). Trong thời gian 1965-2001, tổng số RNM ở Trà Vinh bị phá hủy là 14.208
ha, trong lúc trồng lại rừng chỉ 5.781 ha (Thu & Populus, 2007).
SÓC TRĂNG
Có 72 km bờ biển,
với 2 cửa sông lớn là sông Hậu và sông Mỹ Thanh. Rừng của
Sóc Trăng thuộc hệ rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm
phèn, với tổng số 11.356 ha gồm các loại cây chính là tràm, bần, giá, vẹt,
đước, dừa nước phân bố ở 4 huyện Vĩnh Châu, Long Phú, Mỹ Tú và Cù Lao Dung.
Hình 13. RNM Sóc
Trăng năm 2010, vẻ lại từ không ảnh vệ tinh (Joffre, 2010)
Không ảnh của Quân Đội Hoa Kỳ in năm 1965 cho thấy
không có RNM dọc bờ biển dài 37 km thuộc Vĩnh Châu trước năm 1965, như vậy việc
giải thích không có RNM ở nới đây là do thuốc khai quang trong thời kỳ chiến
tranh 1965-1970 là không xác đáng (Joffre, 2010).
Hai bản đồ vẻ năm 1904 và 1925 cho biết bờ biển
huyện Trần Đề là RNM chạy dài với cây Giá, nên có tên Bãi Giá, trong lúc huyện
Vĩnh Châu thì không có RNM. Vĩnh Hải cũng không có RNM ở thời kỳ này (Joffre,
2010).
Trong bản đồ năm 1889, Cù Lao Dung thời đó gồm 3 cù lao riêng biệt toàn
RNM là Cù Lao Tròn, Cù Lao Dung và Cù Lao Chàng Cọc trong cửa sông Bassac. RNM
liên tục từ cửa sông Mỹ Thanh đến cửa Trần Đề. RNM đi sâu vào nội địa 2 bên bờ
sông Mỹ Thanh ở bản đồ năm 1904.
BẠC LIÊU
Vào năm
1923, RNM Bạc Liêu lớn sau Cà Mau, là khu rừng dự trữ có thể cung cấp gỗ cho
khắp nước. Năm 1943, Bạc Liêu có khoảng 10.323 ha RNM (Joffre, 2010). Hiện nay,
Bạc Liêu chỉ còn vài trăm ha, không phải là rừng tự
nhiên nguyên sinh mà là tái sinh. RNM gồm 49 loài cây, trong đó có 15 loài là
cây RNM thực sự (chiếm 31%), còn 34 loài (chiếm 69%) là loài nhập cư khác.
CÀ MAU
Có đai rừng phòng hộ chạy dọc ven biển, bắt đầu từ
cửa Gành Hào đến Đất Mũi ở phía Biển Đông và từ Đất Mũi đến Tiểu Dừa (giáp với
Kiên Giang) ở phía biển Tây, dài tổng cộng 252 km, với khoảng 10.000 sông và
kinh rạch. Mảng rừng phòng hộ ven biển thuộc tỉnh Cà Mau có diện tích 13.737 ha, bề rộng của đai phòng hộ từ
150-500 m ở Biển Tây, trung bình 1km phía biển Đông, tính từ mép biển khi triều
cao trở vào đất liền (Trí, 2009).
Năm 1917, tổng diện tích RNM Cà Mau khoảng 300.000 ha với 4 khu rừng dự trữ (Joffre, 2010).
Năm 1926, RNM trong khu dự trữ ước tính 194.502 ha
(Joffre, 2010). Một tường trình năm 1924 cho biết ở Cà Mau có một khu rừng lớn
thuần chủng với Rhizophora apiculata cao 20m, đường kính 80 cm, có tuổi
hơn 100 năm (Joffre, 2010).
Năm 1943, 3 khu rừng dự trữ ở Đầm dơi có diện tích
47.086 ha, khu rừng dự trữ ở Năm Căn Đông có diện tích 33.292 ha, và khu rừng
bảo vệ Tân Hưng Tây. Ở hạt Năm Căn Tây, khu rừng dự trữ Viên An có 34.955 ha,
ngoài ra còn khu dự trữ Tân An (Joffre, 2010).
Năm 1947, Cà Mau có 10 khu rừng dự trữ, tổng cộng
201.900 ha. Các loài cây trong các khu rừng này gồm Rhizophora sp. (50%),
Bruguiera sp. (30%), và Avicennia sp. (9.5%), còn các loài khác như Ceriops
sp. chiếm dưới 5% (Joffre, 2010).
Theo Đặng Huỳnh Lộc (2011), tổng số diện tích RNM
Cà Mau kể từ 1971 như sau:
1971: 200.000 ha
1975: 200.000 ha (gồm 150.000 ha tuổi khai
thác và 50.000 ha rừng tái sinh)
1979: 150.000 ha
1982: 96.396 ha.
2010: 64.632 ha
Ngày nay (2010), RNM Cà Mau có diện tích 64.632 ha, trong số
này có 6.406 ha rừng tự nhiên (chiếm 13 %) và 56.226 ha rừng trồng (87%). RNM
Cà Mau tập trung nhiều nhất ở 2 huyện
Ngọc Hiển (50.354 ha, chiếm 77,9% diện tích) và Năm Căn, diện tích còn lại được phân bổ ở các huyện Đầm Dơi (12.3%), Phú Tân, Trần Văn Thời và U Minh (3.7%). Tại đây, theo số liệu thống kê vào năm 2006 của Trung tâm nghiên cứu
rừng ngập mặn Cà Mau có hệ thống động thực vật phong phú với 22 loài cây, 13
loài thú (thuộc 9 họ), 74 loài chim (thuộc 23 họ), 17 loài bò sát (thuộc 9 họ),
5 loài lưỡng cư (thuộc 3 họ), 14 loài tôm, 175 loài cá (116 giống và 77 họ),
133 loài động thực vật phiêu sinh.
Hình
14. Bản đồ RNM (màu
đỏ tím) tại Mũi Cà Mau năm 1965 của Hải Quân Hoa Kỳ (Theo Tong et al., 2004)
Hình 15. Rừng Ngập Mặn Mũi Cà Mau năm 1972 (Hong &
San, 1993)
Hình
16. RNM tại Cà Mau
năm 2002. Ruộng lúa và vườn cây (I), khu nuôi tôm trong RNM (III), RNM chưa bị
tàn phá (IV) (Tong et al.,
2004)
(XIN XEM TIẾP PHẦN 2)
No comments:
Post a Comment