Sông Cửu Long, mà quốc tế gọi là sông Mekong, là con sông lớn vào hàng thứ
7 của châu Á, hàng thứ 12 của thế giới, phát nguyên từ cao nguyên Tây Tạng, dài
4,909 km, chảy qua lãnh thổ 6 nước: Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái Lan,
Cambodia, và đổ nước ra Biển Đông qua 9 cửa thuộc lãnh thổ Việt Nam, là: Đại,
Tiểu, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu, Ba Lai, Định An, Ba Thắc và Trần Đề. Thực
ra, nói 9 cửa là nói chuyện đời xưa, chuyện của thế kỷ 20 trở về trước. Ngày
nay, Cửu Long chỉ còn chảy ra 8 cửa. Cửa Ba Thắc (Bassac) đã bị phù sa bồi lấp
trong thập niên 1970. Trong tương lai không xa, cửa Ba Lai cũng sẽ không còn.
Điều này thấy rõ trên bản đồ vệ tinh của Google.
Sông Cửu Long và lưu vực (vùng màu trắng)
Tại Huế, có con sông đào với tên chính thức là Lợi Nông Hà, dài chừng 20km,
được đào dưới đời Gia Long vì lợi ích nông nghiệp, khi chảy qua vùng Bến Ngự
thì gọi là sông Bến Ngự, qua Phủ Cam thì gọi la sông Phủ Cam, qua An Cựu thì gọi
là sông An Cựu, huống chi đã lớn lại dài hàng ngàn cây số như sông Mekong thì
mang nhiều tên cũng không có gì lạ. Bởi vậy, khi chảy trên cao nguyên Vân Nam
thuộc Trung Quốc, nó là sông Lan Thương (Lancang Jiang: Lan Thương
Giang), khi chảy qua Lào-Thái, nó là Mae Nam Khong, thường gọi là Mae
Khong, nghĩa là sông lớn. Chính từ cái tên Lào-Thái này mà người Tây phương
khi biết đến nó đã tây-hóa thành Mekong. Đi vào lãnh thổ Cambodia, nó là
Tônlé Thum hay Tôn lé Mékôngk (Wikipedia). Từ Phnompenh sông tỏa
thêm nhánh phụ là sông Bassac. Nhánh lớn của Mekong đi vào Việt Nam qua ngõ Tân
Châu thành Tiền Giang, chảy ra 6 cửa, là Tiểu, Đại, Ba Lai (sắp tắt),
Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu; còn nhánh nhỏ Bassac đổ vào Việt Nam tại Châu
Đốc làm thành Hậu Giang, chảy ra hai cửa Định An và Trần Đề.
Người Việt Nam nào được cắp sách đến trường đều ít nhiều có học và biết rằng
sông Cửu Long là một con sông lớn của nước ta ở phía Nam, xem đó như là một việc
đương nhiên và không có ai thắc mắc rằng ai đã đặt tên sông Mekong là Cửu
Long Giang? Và cái tên Cửu Long Giang có tự khi nào?
Người có kiến thức lịch sử hẳn sẽ có câu trả lời mau mắn: thì các chúa Nguyễn
khi Nam tiến đến vùng đồng bằng Cửu Long bây giờ, vào thế kỷ 17,18, gặp con
sông lớn này chảy ra 9 cửa, chẳng khác chi 9 con rồng phóng ra biển cả nên lấy
ý đó đặt tên chữ (nho) là Cửu Long giang, chứ còn ai khác nữa?
Nếu câu trả lời này đúng và đơn giản chỉ có thế thì hẳn không có bài viết
này.
Nhà Nguyễn biết đến sông Cửu Long tự khi nào?
Chữ “Nhà Nguyễn” tôi dùng ở đây bao gồm cả 9 đời chúa Nguyễn của thế kỷ 17,
18 và 13 đời vua Nguyễn, từ 1802 đến 1945.
Năm 1698 chúa Minh Nguyễn Phúc Chu phái Thống binh Nguyễn Hữu Cảnh vào tổ
chức vùng đất mà lưu dân Việt và người Minh Hương đã đến khai phá và lập nghiệp
từ trước trên đất Thủy Chân Lạp, lập thành hai đơn vị hành chánh mới là dinh Trấn
Biên (Biên Hòa ngày nay) và dinh Phiên Trấn (Gia Định sau này) nhưng triều đình
Phú Xuân vẫn chưa làm chủ được Tiền Giang và Hậu Giang. Mãi đến năm 1732, vua
Chân Lạp là Nặc Tha nhường đất Mesa và Long Hor (Mỹ Tho và Vĩnh Long ngày nay)
cho chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ để trả ơn về việc ủng hộ ngai vàng của ông ta thì
hai sông lớn này mới chính thức thuộc về Việt Nam. Tuy nhiên, lưu dân Việt và
Minh Hương trước đó mấy mươi năm đã biết nước sông Tiền sông Hậu trong đục thế
nào rồi.
Mặc dầu các chúa Nguyễn là những người có công mở rộng và hoàn thành cuộc
Nam tiến vào năm 1757, đem lại sông nước phù sa Cửu Long trù phú về cho Việt
Nam nhưng chỉ có ông chúa cuối cùng đời thứ 9, Định Vương Nguyễn Phúc Thuần
(1765-1777), mới là người có biết sông này qua thực địa, trước khi bị Tây Sơn bắt
giết ở Long Xuyên vào năm 1777. Nói như thế không có nghĩa ám chỉ Định Vương là
người biết sông chảy ra 9 cửa mà đặt tên Cửu Long Giang. Ông bị Tây Sơn đuổi
đánh, truy sát rất ngặt và cuối cùng mạng vong, có thì giờ đâu mà nghĩ đến chuyện
Cửu Long.
Người kế nghiệp Định Vương là Công tử Nguyễn Phúc Ánh, tức Nguyễn Vương, tức
vua Gia Long sau này, có thể nói là người biết tận tường và thực chứng về sông
nước Cửu Long hơn ai hết, kể cả tiền bối và hậu duệ, nhờ những năm lặn lội khắp
miền Nam trong thời kỳ chống trả và trốn tránh Tây Sơn nhưng ông cũng không phải
là người đặt tên Cửu Long Giang, vì việc vua đặt tên cho một nơi nào đó là một
việc quan trọng, phải được Quốc Sử Quán ghi vào chính sử. Cứ xem chuyện nhỏ này
thì biết: trên Tiền Giang có Cù lao Rồng, ban đầu chỉ là một cái cù lao nhỏ,
nhưng “Từ năm Mậu Thân (1788) trở di , cát bồi lên, ngày dần cao lớn,
hình như con rồng nằm. Thế Tổ Cao hoàng đế [Gia Long] cho tên là Long
Châu, dài chừng 2 dặm, làm la tinh [cái gò chắn ] trấn ngoài thủy khẩu,
che giữ trấn sở, chắn át sóng dữ, rõ ràng là một nơi thắng địa.” (Trịnh
Hoài Đức, tr.43) Xem thế đủ biết việc vua đặt tên cho một địa phương là chuyện
sử sách không bỏ qua được. Thế nhưng…
Nhà Nguyễn không đặt tên Cửu Long Giang
Điều này mới nghe thật vô lý nhưng đó là sự thật.
Điều hiển nhiên và chắc chắn nhất là Nhà Nguyễn đã thủ đắc phần hạ lưu của
sông Mekong từ năm 1732 với hai nhánh lớn có tên Tiền Giang và Hậu Giang, và
nhà cầm quyền hẳn biết hai nhánh sông này đổ nước ra Biển Đông qua 9 cửa nhưng
rõ ràng là Nhà Nguyễn hầu như không đả động gì đến Cửu Long Giang một cách đường
hoàng minh mạch như đối với các sông lớn khác của Việt Nam như trong sử sách
triều đại đã ghi. Thử lật Đại Nam Nhất Thống Chí — bộ địa-sử quan trọng
nhất của triều Nguyễn — ra mà xem. Vắng tanh. Thế nhưng trong cuốn viết về tỉnh
Vĩnh Long, mục Sơn xuyên thì thấy ngay hai tên Tiền Giang và Hậu Giang đường
hoàng có mặt với mô tả chi tiết. Cả hai sông đều được xếp vào hạng đại giang
(sông lớn) và được liệt kê vào Tự điển của triều đình (Tự điển ở đây
không có nghĩa dictionary như ngày nay. Tự ở đây là cúng tế. Tự điển là sách
ghi chép tên các thần linh của sông núi lớn được triều đình cúng tế hàng năm.
Người xưa tin đất có Thổ công, sông có Hà Bá, núi sông lớn đều có thần
làm chủ nên phải tôn trọng bằng tế tự để được thần hộ trì cho quốc gia).
Hình Tiền Giang (nhánh dưới )và Hậu Giang(nhánh trên) được khắc chạm trên
Huyền đỉnh trong Đại Nội, Huế (ảnh: Kevin Võ)
Đã thế, năm 1836, khi cho đúc 9 cái đỉnh đồng lớn (Cửu đỉnh) đặt trước Thế
miếu trong Đại Nội, Huế, vua Minh Mạng đã cho chạm hình Tiền Giang và Hậu Giang
trên Huyền đỉnh. Lại lần giở đến các bộ chính sử như Đại Nam Thực Lục
(Tiền biên & Chánh biên) và Đại Nam Liệt Truyện (Tiền biên
& Chánh biên) cũng sẽ thấy sự vắng vẻ của cái tên Cửu Long.
Việc Nhà Nguyễn không ghi chép Cửu Long Giang một cách chính thức là điều hữu
lý vì Cửu Long là sông của muôn nhà thế giới, chỉ Tiền Giang và Hậu Giang mới
thực là của Việt Nam nên mới xứng đáng để ghi chép. Và, tuy không nhắc đến Cửu
Long nhưng không có nghĩa là triều đình Huế không biết đến nó.
Nhà Nguyễn và sông Khung (Khung Giang)
Nếu sử sách Nhà Nguyễn không nói gì đến Cửu Long Giang thì lại nhắc nhiều đến
tên của một con sông nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam; đó là sông Khung hay Khung
Giang. Khung Giang chính là Mekong, là Cửu Long Giang. Khung là nói
trại của Khong trong ngôn ngữ Thái-Lào.
Trong Đại Nam Thực Lục chánh biên, (bản dịch, 2004, các tập
2,3,4,5,6,7,8,9) cái tên Khung Giang hay sông Khung được nói đến nhiều lần nhân
ghi chép về các sự kiện diễn ra trên địa bàn có sông này chảy qua.
Vào thế kỷ 19 trở về trước, khi người Pháp chưa đô hộ Đông Dương, thì vùng
đất trải từ đông bắc Thái Lan đến biên giới Lào Việt hiện nay, trên đó sông
Mekong tức sông Khung chảy qua (nhưng chưa phải là ranh giới Lào-Thái như bây
giờ) là lãnh thổ của nhiều tiểu quốc khác nhau như Nam Chưởng, Vạn Tượng, Lão
Qua, Lạc Hoàn, Mục Đa Hán và nhiều bộ tộc nhỏ khác sống sát biên giới Lào Việt
hiện nay. Các tiểu quốc và các bộ tộc này khi thì ngã theo Xiêm khi thì ngã
theo Việt, tùy tình hình, và là đầu mối tranh chấp ảnh hưởng của hai nước lớn
này. Dưới thời Nhà Nguyễn, nhất là sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước vào
năm 1802, họ đều có liên lạc và xin triều cống để được bảo vệ hoặc xin nội thuộc
Những nơi xin nội thuộc được vua Minh Mạng Việt hóa thành phủ huyện, như các phủ
Trấn Biên và Trấn Định lập năm 1827 ở phía tây Nghệ An, phủ Trấn Man và Trấn
Ninh, cũng lập cùng năm, ở phía tây Thanh Hóa. Xin trích dẫn sau đây như một ví
dụ điển hình để thấy sông Khung đã xuất hiện trong chính sử Nhà Nguyễn như thế
nào:
Năm 1828, “Mục Đa Hán qui phục. Mục Đa Hán ở hai bờ sông Khung Giang, tiếp
giáp với Tam Động, Lạc Hoàn và Cam Lộ.[VHA nhấn mạnh] Man trưởng là Phọc
Chân Xa cai quản dân bên bờ sông nam, em là Lạt Xà Bông làm Phó man trưởng, cai
quản dân bên bờ sông bắc, vẫn bị Xiêm La và Vạn Tượng chèn ép. Năm ngoái, quân
Vạn Tượng đến đánh. Phọc Chân Xa đem bộ thuộc chạy sang nước Xiêm, ngụ ở động
Yên Sơn. Bèn đem phẩm vật địa phương đến cửa ải xin nội phụ. Trấn thần Nghệ An
đem việc tâu lên. Vua [Minh Mạng] đem việc ấy xuống cho bầy tôi bàn.” (Đại
Nam Thực Lục, tập 2, tr. 754)
Khi cuộc tranh chấp Việt-Xiêm tới hồi gay cấn, dẫn đến việc phải giải quyết
bằng võ lực thì địa bàn sông Khung thuộc trung và nam Lào ngày nay là diễn trường
và vì vậy, sông Khung được sử nhắc đến. Chẳng hạn năm 1827, Xiêm đem quân vượt
sông Khung đánh nước Vạn Tượng. Vua nước này là A Nộ chống không nổi, chạy về
Nghệ An xin tị nạn và cầu cứu triều đình Huế. Vua Minh Mạng cử Thống chế Phan
Văn Thúy làm Trấn thủ Nghệ An kiêm Kinh lược binh vụ đại thần, có Phó tướng
Nguyễn Văn Xuân và Tham tán Nguyễn Khoa Hào phụ tá, lo việc trấn giữ biên cương
và liệu bề giúp đở A Nộ. Tướng Thúy đem 3,000 quân đưa A Nộ về Trấn Ninh. A Nộ
lên tinh thần, đem quân tái chiếm Vạn Tượng. Nhưng sau đó, thay vì tìm cách hòa
giải với Xiêm, A Nộ lại dại dột gây chiến làm quân Xiêm hiệt hại nặng cả người
lẫn khí giới. Vua Minh Mạng được tin, đã xử trí ngay để tránh phải động binh lực,
một mặt sai Cai đội Mạc Công Tài ở Hà Tiên đem quốc thư sang Vọng Các để giải
thích với vua Xiêm trong tinh thần hòa giải về vụ xung đột và xin tha tội cho A
Nộ; mặt khác, sai Cai đội Phan Văn Thống ở Nghệ An đem thư sang Vạn Tượng khiển
trách A Nộ, bảo phải xin lỗi tướng Xiêm, trả lại khí giới đã thu được để tái lập
hòa khí. ” Đến lúc bọn Phan Văn Thống đến đồn Phô Khâm ở bờ Nam sông Khung
Giang , bị tướng nước Xiêm là Thung Vi Sa đánh úp. Thống cùng quân lính 40 người
đều chết, duy Lê Đình Luật thì bị đưa sang nước Xiêm.” (Đại Nam Thực Lục,
Tập 7, tr. 247)
Người Pháp, sau khi làm chủ 3 tỉnh Miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định
Tường) đã cử Đại úy Doudart de Lagré làm trưởng và Trung úy Francis Garnier làm
phó, cầm đầu một đoàn thám hiểm sông Mekong trong các năm 1866-1868 với mục
đích tìm con đường thủy tiện lợi đi vào vùng Hoa Nam. Đoàn thám hiểm khởi hành
tại Sài Gòn, ngược sông đi lên Cambodia, rồi Lào và đến Vân Nam năm 1868 (de
Lagrée chết bệnh ở đây). Việc này, Đại Nam Thực Lục đời Tự Đức ghi nhận
như sau:
Năm 1867, “Vua [Tự Đức] mới nghe tin nước Pháp phái người đến
sông Khung Giang, sai các tỉnh đạo phái người do thám, đều về không, không được
việc gì, đến nay thổ mục ở Trấn Ninh thuộc tỉnh Nghệ An là Thiệu Ứng đi thám về
nói người Pháp đi đến đâu vỗ về hậu đãi nhân dân, người tỉnh Quảng Bình đi thám
về nói nói rằng: người Pháp đóng thuyền ở bến sông Khung Giang, chỗ ấy đóng đồn
sai canh giữ nghiêm mật, thổ man không dám cho đi.(Khung Giang, sử trước chép
là sông Cửu Long, trước là nước Ai Lao, nay thổ man chỗ ấy, đều là bộ lạc cũ, gọi
là người Lào) vua cho những lời nói ấy chưa biết hư thực, sai hai xứ Nghệ An,
Cam Lộ luôn luôn do thám tâu lên” (Đại Nam Thực Lục, tập 7, tr.1061)
Dưới đời Đồng Khánh (1885-1889), người Pháp đặt nền bảo hộ trên vương quốc
Lào. Họ gặp vấn đề biên giới với Xiêm nên muốn biết rõ trong quá khứ Việt Nam
đã có những kinh nghiệm như thế nào bèn hỏi triều đình Huế. Vua cho Viện Cơ Mật
nghiên cứu và phúc đáp.Viện đã trình lên vua như sau:
“Nước ta cùng với nước Xiêm tiếp giáp, lấy sông Khung làm giới hạn, là có đồ
bản cùng sổ sách truyền lại, còn như nguyên trước hai nước có hội đồng lập giới
hay không , mờ mịt không có sự tích có thể xét được,các triều kinh lý cũng ít
nói đến. Bản triều, sau khi được nước, gián hoặc có cho hàng phục,đặt ra làm phủ,
châu, rồi nhân nhiều việc, chế độ cương giới dần bỏ. Nay quan Pháp đến đóng để
xem xét, tưởng nên định rõ bờ cõi, mở mang miền thượng du, hoặc có cơ hội, còn
các việc định phái quan phủ dụ, xin do các quan tỉnh xem xét người nào am hiểu
tình thế các đất Man, trao cho quan hàm, phái đi dò xét, về nên làm thế nào,có
thể phủ dụ được người Man, bền vững cương giới của ta, cần phải hết lòng tính
toán định liệu.” (Đại Nam Thực Lục, tập 9, tr.424)
Đại khái đấy là một vài trong nhiều
trường hợp sông Khung xuất hiện trong chính sử.
Cửu Long Giang với Gia Định Thành Thông Chí và Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ
Khi tìm hiểu cái tên Cửu Long Giang trên …giấy, tôi cảm thấy rất thú vị khi
bắt gặp trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, xuất bản ở
Saigon năm 1895, đã có lời giải thích như sau:
–Cửu Long giang: Tên sông ở về phía Vân Nam,
thông với sông Không, sông Huình (sic) Hà
Tôi nói “thú vị” vì lần đầu tiên thấy có người minh thị Cửu Long Giang là
sông Không tức Khung tức Mekong. Cũng thú vị vì ông nói Cửu Long Giang thông với
Huình Hà (Hoàng Hà hay Hồng Hà??). Nếu là Hồng Hà thì tôi nghĩ Paulus Của đã lấy
kết quả (sai lầm) từ cuộc thám hiểm Mekong (không tới nơi tới chốn) của de
Lagrée và Garnier khi cho rằng Mekong thông với Hồng Hà.
Đến khi đọc kỹ Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức và khảo
sát Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ thì thấy vấn đề không đơn giản.
Trịnh Hoài Đức 鄭懷德 (1765-1825) là
một khuôn mặt lớn của triều Gia Long (1802-1819) và đầu triều Minh Mạng
(1820-1841).
Tổ tiên ông là người Phúc Kiến, nhiều đời làm quan Nhà Minh. Khi Nhà Thanh
tiêu diệt Nhà Minh, thống trị Trung Hoa, tổ tiên ông đã bỏ nước qua tị nạn ở
Đàng Trong và lập nghiệp tại Trấn Biên (Biên Hòa). Mặc dầu cha chết khi mới 10
tuổi nhưng Trịnh Hoài Đức là người thông minh, ham học lại được làm học trò của
xử sĩ Võ Trường Toản nên đường học vấn rất tiến bộ. Ông chơi thân với hai bạn đồng
môn khác là Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh, họp thành một bộ ba văn học có tiếng
đương thời, goị là Gia Định tam gia. Ông theo giúp Nguyễn Vương từ năm
1788, sau khi đậu kỳ thi tuyển. Năm 1794, ông làm Ký lục dinh Trấn Định (Định
Tường), rồi thăng Hữu Tham tri Bộ Hộ. Ông có công cung ứng lương thực đầy đủ
cho các mặt trận trong các chiến dịch Nguyễn Vương chống Tây Sơn.
Năm 1801 sau khi Nguyễn Vương thu phục được Phú Xuân, Trịnh Hoài Đức được
thăng làm Thượng thư Bộ Hộ, cầm đầu sứ bộ sang Trung Hoa, báo cáo việc Nguyễn
Vương đã dứt Nhà Tây Sơn, đem ấn tín và sắc phong thu được của Tây Sơn cùng bọn
cầm đầu đám cướp biển Tề Ngôi (Tàu Ô) giải nộp Nhà Thanh. Năm 1804, khi sứ Nhà
Thanh là Án sát Tề Bố Sum sang tuyên phong vua Gia Long ở Bắc thành, Trịnh Hoài
Đức giữ chức Thông dịch sứ của đại lễ.
Ông là người học rộng, thông thạo cả hai nền văn hóa và chính sự của hai nước,
lại bản chất trung thành và khiêm tốn nên rất được các vua Gia Long và Minh Mạng
tin dùng, các đề nghị của ông thường được nghe theo và cho thi hành. Ông đã hai
lần làm Hiệp Tổng trấn Gia Định thành (1808, 1816), đã từng nhiều phen kiêm chức
thượng thư hai bộ (Lại và Binh, 1821; Lại và Lễ, 1823), và kiêm giữ nhiều chức
quan trọng như coi Khâm Thiên Giám (1812), Phó Tổng tài Quốc Sử Quán
(1821),Chánh chủ khảo khoa thi Hội (1822), Tổng tài biên soạn Ngọc phả (1824),
làm quan đến nhất phẩm triều đình.
Ông mất năm 1825. Gia Định Thành Thông Chí, là một tác phẩm
quan trọng của Trịnh Hoài Đức (đã được dịch ra tiếng Việt), rất giá trị,một nguồn
sử liệu phong phú về nhiều mặt (lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội…) không riêng
Gia Định-Sài Gòn mà bao gồm cả miền Nam nước Việt từ thuở mới khai hoang. Sách
này ông soạn xong dưới triều Gia Long nhưng qua đến đầu triều Minh Mạng mới
dâng vua xem và sau đó phổ biến.Trong Gia Định Thành Thông Chí, khi nói
về sông Mỹ Tho của trấn Định Tường, ông viết:
“Sông Mỹ Tho [tức Tiền Giang], ở trước trấn, làm sông cái của
trấn, phát nguồn từ sông Cửu Long tỉnh Vân Nam của Trung Quốc [VHA nhấn mạnh]
chảy nhanh cuồn cuộn, từ bắc mà sang tây, trải qua các nước Lào, tới sông Nam
Vang nước Cao Mên , chia làm hai sông Tiền Giang và Hậu Giang, mà chảy xuống
phía đông…” (tr.42)
Tiết lộ này làm cho chúng ta phải đặt câu hỏi: do đâu mà Trịnh Hoài Đức biết
Tiền Giang, Hậu Giang phát nguồn từ sông Cửu Long tỉnh Vân Nam của Trung Quốc?
Cho đến thời bấy giờ, có lẽ không có ai hiểu biết rành rẽ sự liên hệ Tiền
Giang-Hậu Giang-Cửu Long Giang như Trịnh Hoài Đức bởi ông có nhiều lợi thế hơn
người: mang trong người hai dòng máu Hoa-Việt, sở hữu hai nên văn hóa, sinh trưởng
Miền Nam, hai lần làm quan lớn cai trị Miền Nam, học thức cao, giao du rộng, nhờ
vậy có đủ điều kiện hơn người để thu tập tin tức cần biết trong mọi giới.
Hiện nay, khi nói về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông, chính
quyền cũng như giới biên khảo và truyền thông đều dẫn Đại Nam Nhất Thống
Toàn Đồ (ĐNNTTĐ), do P.A. Lapicque trích từ sách Hoàng Việt Địa Dư
Chí của Phan Huy Chú (1782-1840) đời Minh Mạng và in lại trong cuốn A.Propos
des Iles Paracels của ông, xuất bản tại Sài Gòn, năm 1929. Hãy tạm gác vấn
đề xuất xứ của bản đồ này qua một bên (*), ĐNNTTĐ sở dĩ được viện dẫn
như một bằng cớ vững chắc và hùng hồn về chủ quyền của nước ta trên hai quần đảo
này vì tên và vị trí của Hoàng Sa và Trường Sa đều được xác định trên bản đồ.
Riêng tôi, trên ĐNNTTĐ còn có một thú vị khác, là có vẽ cả Cửu Long
Giang cùng Tiền Giang và Hậu Giang. Người Tây phương biết đến sông Mekong khá sớm,
vào khoảng thế kỷ 15,16. và đã thể hiện trên các bản đồ của họ, nhưng với Việt
Nam, có lẽ ĐNNTTĐ là bản đồ xưa nhất có vẽ các con sông này và đề tên rõ
ràng.
Mặc dầu Phan Huy Chú là người học rộng, tác giả của Lịch Triều Hiến
Chương Loại Chí, bộ từ điển bách khoa đầu tiên của nước ta, nhưng hiểu biết
về miền Nam chắc không thâm hậu như Trịnh Hoài Đức, vả chăng, họ Trịnh cũng là
hàng tiền bối đồng triều của ông. Tôi muốn nói khi viết Hoàng Việt Địa Dư Chí
cũng như khi vẽ ĐNNTTĐ, hẳn họ Phan phải có sự tham khảo ít nhiều họ Trịnh.
Từ những dữ liệu nêu trên, đến đây, tưởng có
thể rút ra một vài kết luận:
-Nhà Nguyễn không nói gì đến Cửu Long Giang mặc dầu rất biết về nó và còn
biết nó dưới một tên khác là Khung Giang hay sông Khung. Nhờ vậy, ngày nay ta
có thêm nhiều dữ kiện khác trong lịch sử mà từ lâu ít người để ý đến.
-Cái tên Cửu Long Giang là sản phẩm văn hóa của lưu dân Việt-Minh Hương
trên bước đường định cư khai phá vùng châu thổ Cửu Long, lấy ý từ 9 cửa sông đỗ
ra biển mà đặt ra. Cái tên Cửu Long Giang có thể đã xuất hiện vào đầu thế kỷ
18, ngay cả trước năm 1732 (nhưng phải sau thế kỷ 17), khi Việt Nam thủ đắc
Vĩnh Long, An Giang.
Tên Cửu Long Giang 九龍江(chỗ
mũi tên) trên ĐNNTTĐ
(*) Xem Phạm Hân, Xuất xứ của Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ trên
(http://hannom.org.vn/web/tchn/data/9604v.htm#han29)
(http://hannom.org.vn/web/tchn/data/9604v.htm#han29)
VÕ HƯƠNG-AN
Tài liệu tham khảo:
-Alfred Schreider , Abrégé de l’histoire de l’Annam, http://books.google.com
-Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục, bản dịch của Tổ Phiên
dịch Viện Sử Học, do Nxb Giáo Dục ấn hành năm 2004, gồm 9 tập.
-Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, Lục tỉnh Nam Việt,
tập hạ, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn Hóa /Bộ Quốc Gia Giáo Dục
(Saigon) , 1959
-Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, bản dịch của Đỗ Mộng
Khương và Nguyễn Ngọc Tỉnh, Nxb Giáo Dục, 1999
-Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tom I, A-L, Saigon,
1895.
–Việt Nam Administrative Atlas, Nhà xuất bản Bản Đồ, 2005
-Võ Hương-An, Từ Điển Nhà Nguyễn, Nam Việt, California, 2012
No comments:
Post a Comment