Sunday, May 20, 2018

Phụng khai tân cảng ký văn bia ghi việc đào kênh Bảo Định ở Phú Kiết huyện Chợ Gạo tỉnh Tiền Giang




Cập nhật lúc 16h06, ngày 06/12/2013
PHỤNG KHAI TÂN CẢNG KÝ VĂN BIA GHI VIỆC
ĐÀO KÊNH BẢO ĐỊNH Ở PHÚ KIẾT,
HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG (*)

ThS.LÊ QUANG TRƯỜNG

Đại học KHXH và Nhân văn Tp. HCM.

Tại bờ kênh Bảo Định ở gần chợ Phú Kiết huyện Chợ Gạo tỉnh Tiền Giang hiện có một bia đá ghi việc đào kênh Bảo Định.

Bia cao khoảng 80cm, rộng 45cm, dày 7cm, bằng đá xanh, không có hoa văn, nét chữ khắc mảnh, nhỏ nên rất dễ bào mòn qua thời gian nếu không được bảo quản. Tuy không có giá trị về nghệ thuật điêu khắc, nhưng lại là một cứ liệu có giá trị về lịch sử hình thành nên dòng kênh Bảo Định.

Về sự kiện đào kênh Bảo Định, sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có chép ở mục Sơn xuyên chí, trấn Định Tường như sau: “Bảo Định hà tục gọi là kinh Vũng Gù. Cửa sông này gối vào sông Hưng Hòa, cách phía đông bắc trấn 47,5 dặm. Ngày xưa phía đông bắc, sông nhỏ Vũng Gù chảy đến xóm Thị Cai là hết, phía tây sông nhỏ Mỹ Tho cũng xuống đông đến chợ Lương Phú tục gọi là Bến Tranh thuộc đất thôn Lương Phú là hết, khoảng giữa là ruộng đất liên tiếp từ nam đến bắc… (chúng tôi lược bớt đoạn nói về Nguyễn Cửu Vân mở kinh)… Năm Kỷ Mão niên hiệu Gia Long thứ 8 (1819), vua có chỉ dụ sai đo thẳng từ chỗ Thang Trông đến Hóc Đồng dài 14 dặm rưỡi, sai Trấn thủ Định Tường là Bửu Thiện hầu Nguyễn Văn Phong điều 9.679 dân trong trấn, cấp cho mỗi người một tháng là một quan tiền và một phương gạo chia làm ba phiên thay nhau đào mở, bề ngang 15 tầm, sâu 9 thước ta, 2 bên có đường cái quan rộng 6 tầm, hoặc theo đường sông cũ mà uốn nắn đào cho sâu rộng thêm, hoặc mở kinh mới để nối liền nhau, tuỳ sự tiện lợi mà làm. Khởi công từ ngày 28 tháng giêng đến ngày 4 tháng 4 nhuận thì xong. Vua ban tên là Bảo Định hà, ai nấy đều cho là rất thuận tiện”(1).

Sách Đại Nam thực lục chép sự kiện này cũng vào năm 1819 như sau: “Đào cho Vũng Cù [Cù Áo] ở Định Tường thông với sông Mỹ Tho. Sai Trấn thủ Nguyễn Văn Phong lấy hơn 9.000 dân làm việc, hàng tháng cấp cho tiền gạo đầy đủ. Vài tháng công việc xong, cho tên là sông Bảo Định (Cửa sông gối vào sông Hưng Hòa, cách phía đông bắc trấn thành 47 dặm rưỡi. Năm trước sông nhỏ Vũng Cù chảy đến quán Gai, sông nhỏ Mỹ Tho chảy đến chợ Phú Lương, quãng giữa hai sông ruộng đất Nam Bắc nối liền. Triều Hiển Tông, Thống suất Nguyễn Cửu Vân đi đánh Chân Lạp đã từng đóng quân ở đấy. Đắp lũy dài từ quán Gai đến chợ Phú Lương, đào chỗ tận cùng của sông Vũng Cù và sông Mỹ Tho cho liền nhau dẫn nước làm hào bên ngoài, sau nhân dòng nước khơi sâu xuống, cho thành đường kênh. Nhưng đông tây dài xa nhiều chỗ quanh co nhỏ hẹp, bùn cũ ứ đọng lâu ngày cạn lấp, thuyền không đi được. Đến nay mới nhân lối cũ mà đào sâu rộng thêm, hoặc khai kênh mới cho liền nhau, dài chừng 14 dặm, ngang 7 trượng 5 thước, sâu 9 thước). Từ đấy dòng sông thông cả, người đều được tiện lợi”.(2)

Qua hai tư liệu trên, xác thực việc đào vét kênh Bảo Định được tiến hành vào năm Gia Long thứ 18, tức năm 1819. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức còn cho biết ngày khởi công là ngày 28 tháng giêng năm 1819 và hoàn thành vào ngày 4 tháng 4 nhuận cùng năm. Ngoài ra, trong hai tài liệu chúng tôi trích dẫn trên, các địa danh xuất hiện trong quá trình đào vét con kênh này có chỗ khác biệt bởi do người biên soạn cũng như do người đời sau phiên dịch. Vũng Cù / Vũng Gù; Thị Cai / quán Gai; chợ Lương Phú / chợ Phú Lương…

Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức được hoàn thành và dâng lên cho vua vào năm 1820, tức sau khi đào kênh Bảo Định 1 năm. Vả lại, Trịnh Hoài Đức cũng là một trong những người có tham gia vào công việc đào vét dòng kênh Bảo Định này, do đó, các chi tiết vừa cụ thể vừa xác thực.

Để thêm một cứ liệu về dòng kênh quan trọng này, chúng tôi xin giới thiệu nội dung bài văn bia ghi việc đào kênh Bảo Định hiện còn tại địa bàn tỉnh Tiền Giang mà chúng tôi đã nói ở trên.

Toàn bộ bài văn bia được khắc thành 10 cột, theo chúng tôi tổng số chữ của bài bi ký này là 345 (kể cả những chữ bị khuyết mất). Phía dưới bia có phần sứt mẻ nên bị mất vài chữ. Từ phần mất này, căn cứ theo hình thức khắc chữ, có người cho rằng bài văn bị mất 6 chữ. Nhưng từ bản dập chúng tôi dập được, phần chữ mất cũng đã hiện ra được một ít, từ đó chúng tôi suy đoán mờ khuyết 5 chữ.

Cuối cột thứ 5, sau chữ khởi công 起功, từ bản dập chúng tôi thấy lờ mờ hình chữ như chữ tự, tiếp theo chữ tựchúng tôi cho rằng còn một chữ nữa bị mất nếu căn cứ vào khoảng cách chữ ở cột thứ 2. Căn cứ vào ghi chép khác như ở Đại Nam thực lục và Gia Định thành thông chí có thể tạm bổ khuyết chữ phú trước chữ lung thị 巿 để có thể hiểu thành chợ Phú Lung (chợ Phú Lương).

Cuối cột thứ 6, nếu để ý thấy sau chữ ngưỡng có nét lờ mờ giống như chữ duy , nếu là ngưỡng duy 仰惟thì ngay sau đó là Thánh Thiên tử 聖天子, vì viết đài hàng nên phía dưới không có chữ nào sau chữ duy .

Cuối cột thứ 7, sau chữ bất thiếu mất 2 chữ, theo mạch văn và dạng chữ lờ mờ chúng tôi bổ khuyết hai chữ vĩnh ninh 永寧. Sở dĩ chúng tôi có sự bổ khuyết như vậy là bởi, 1- trong bài Trương Thuyết tụng 說頌của Tôn Địch 孫逖 đời Đường có đoạn ngợi ca công lao mở mang khai khẩn của Trương Thuyết ở U Châu, có câu: “nhất niên nhi tài dụng túc cấp, nhị niên nhi súc tụ nhiêu tiện. Quân thanh vũ bị, bách bội ư vãng thời hĩ. Do dĩ vi bất nhất lao giả bất cửu dật, bất tạm phí giả bất vĩnh ninh (chúng tôi nhấn mạnh)…
一年而財用肅給,二年而蓄聚饒羨,軍聲武備,百倍於往時矣。猶以為不一勞者不久逸,不暫費者不永寧… = Một năm sau thì của dùng đủ cấp, hai năm thì tích tụ đầy tràn, quân thanh võ bị, hơn gấp trăm lần thời trước. Người ta ai cũng cho rằng nếu không chịu mệt nhọc một lúc thì không có nhàn dật lâu dài, nếu không chịu phí hao tạm thời thì chẳng được yên ổn dài lâu…); 2- trong Tiền Hán thư 汉書, Hiếu Ai hoàng đế kỷ孝哀皇帝, quyển 29, cũng có câu以為不一勞者不久逸,不暫費者不永寧. Từ đây, ta có thể khẳng định hai chữ bị thiếu mất chắc chắn là vĩnh ninh永寧.

Do đó, chúng tôi khẳng định là chỉ thiếu khuyết 5 chữ đó là , , , , (xem hình bản dập văn bia ở sau).

Sau khi phục hồi văn bản như trên, chúng tôi xin chép nguyên bản bài văn bia ghi việc đào vét kênh Bảo Định đồng thời dịch nghĩa như dưới đây:

奉開新港記
戊寅年季冬月承公同傳欽奉旨攽准以來春開掘定祥江港,明年己卯春正月奉行規料倳當炤起定祥鎮三千二百二十五丁。欽差掌奇領監城使任信侯按图指授。定祥鎮欽差鎮守寶善侯奉督丁夫開作。欽差嘉定城副總鎮侍中左統制理文侯奉就处重督在城。欽差總鎮掌前軍平西將軍德郡公,欽差叶總鎮吏部尚書安全侯叶心炤料。給發粮餉每人錢一头米一方。以正月二十八日起功,3富篭巿至美萩汛,或直掘平田,或堰治江岸,淺者深之,曲者直之,兩岸成堤,一望如砥,至閏四月初十日告竣, 江水流放,港與江齊是役也。仰惟聖天子明周萬里,追念開創初親所履歷,其江路多之玄屈曲,又有泥淺淤塞之处,公私往來舟楫不利,不一勞不久佚,不暫費不永寧,假旬月之功以為千萬年無穷之便。晴暑相順,众力告成,有以見九重理会地道之勤與子民趋赴之力並垂不朽,輒敢具述其大略與起就之年月併書于石以寿其傳
嘉隆十八年閏四月初十日.

Phiên âm:

PHỤNG KHAI TÂN CẢNG KÝ

Mậu Dần niên quý đông nguyệt, thừa Công đồng truyền, khâm phụng chỉ ban chuẩn dĩ lai xuân khai quật Định Tường giang cảng, minh niên Kỷ Mão xuân chánh nguyệt, phụng hành quy liệu trại đương chiếu khởi Định Tường trấn tam thiên nhị bách nhị thập ngũ đinh. Khâm sai Chưởng cơ lãnh Giám thành sứ Nhậm Tín hầu án đồ chỉ thụ. Định Tường trấn khâm sai trấn thủ Bửu Thiện hầu phụng đốc đinh phu khai tác. Khâm sai Gia Định thành Phó tổng trấn thị trung Tả thống chế Lý Văn hầu phụng tựu xứ trùng đốc tại thành. Khâm sai Tổng trấn Chưởng tiền quân Bình tây tướng quân Đức Quận công, Khâm sai Hiệp tổng trấn Lại bộ Thượng thư An Toàn hầu hiệp tâm chiếu liệu. Cấp phát lương hướng mỗi nhân tiền nhất đầu, mễ nhất phương, dĩ chánh nguyệt nhị thập bát nhật khởi công tự Phú Lung thị chí Mỹ Tho tấn, hoặc trực quật bình điền, hoặc yển trị giang ngạn, thiển giả thâm chi, khúc giả trực chi, lưỡng ngạn thành đê, nhất vọng như chỉ, chí nhuận tứ nguyệt sơ thập nhật cáo thuân, giang thuỷ lưu phóng, cảng dữ giang tề thị dịch dã. Ngưỡng duy Thánh thiên tử minh chu vạn lý, truy niệm khai sáng sơ thân sở lý lịch, kỳ giang lộ đa chi huyền khuất khúc, hựu hữu nê thiển ứ tắc chi xứ, công tư vãng lai chu tiếp bất lợi, bất nhất lao bất cửu dật, bất tạm phí bất vĩnh ninh, giả tuần nguyệt chi công dĩ vi thiên vạn niên vô cùng chi tiện. Tình thử tương thuận, chúng lực cáo thành, hữu dĩ kiến Cửu trùng lý hội, địa đạo chi cần dữ tử dân xu phó chi lực tịnh thuỳ bất hủ, triếp cảm cụ thuật kỳ đại lược dữ khởi tựu chi niên nguyệt tính thư vu thạch dĩ thọ kỳ truyền vân.

Gia Long thập bát niên nhuận tứ nguyệt sơ thập nhật.

Dịch nghĩa:

BÀI KÝ VÂNG MỆNH VUA KHAI THÔNG CẢNG MỚI

Tháng Chạp năm Mậu Dần (1818), thừa Công đồng truyền, phụng chỉ dụ ban chuẩn vào mùa xuân tới sẽ đào mở cảng sông ở Định Tường. Năm sau, tháng Giêng năm Kỷ Mão (1819), vâng theo phép độ liệu việc, lấy dân đinh ở trấn Định Tường gồm 3.225 người(4). Khâm sai Chưởng cơ lãnh Giám thành sứ Nhậm Tín hầu chiếu theo bản vẽ để chỉ bảo(5). Khâm sai Trấn thủ trấn Định Tường Bửu Thiện hầu vâng mệnh đốc thúc dân đinh trai tráng đào mở khơi thông(6). Khâm sai Phó Tổng trấn Thị trung Thống chế thành Gia Định Lý Văn hầu nhận việc đến nơi đôn đốc thêm ở thành.(7)

Khâm sai Tổng trấn Chưởng Tiền quân Bình tây tướng quân Đức Quận công(8), Khâm sai Hiệp Tổng trấn Lại bộ Thượng thư An Toàn hầu cùng hiệp tâm lo liệu sự việc(9). Tiếp tục cấp lương hướng cho mỗi người tiền một thỏi, gạo một phương. Khởi công từ ngày 28 tháng Giêng, đào từ chỗ chợ Phú Lung đến bến Mỹ Tho, hoặc có chỗ đào thẳng ruộng bằng, hoặc có chỗ đắp đập bờ sông, chỗ cạn thì khơi sâu thêm, chỗ cong thì đào thẳng lại, hai bờ đắp thành đê, nhìn khắp trông như phiến đá phẳng, làm vậy cho đến ngày 10 tháng 4 nhuận thì việc xong, nước sông giờ thông chảy, cảng với sông thông nhau đều nhờ việc này. Ngưỡng mong Thánh thượng sáng suốt soi xét, nghĩ đến sự trạng của những người đã có công khơi mở trước đây. Dòng sông này vốn nhiều nhánh, quanh co hiểm yếu, lại thêm có chỗ bùn đất lấp vùi thành ứ tắc, thuyền bè qua lại dầu việc công hay tư đều bất tiện, nếu không chịu mệt nhọc một lúc thì chẳng được nhàn dật lâu dài, nếu không chịu phí hao tạm thời thì chẳng được yên ổn mãi mãi, giả như bỏ cái công sức trong mười ngày một tháng mà làm nên sự tiện lợi lâu dài cả ngàn vạn năm. Mưa nắng thuận hòa, người người góp sức nên công, có thể thấy, đấng Cửu trùng hiểu thấu, đạo trời đất chuyên cần và sự ra sức của con dân thật đáng cùng nhau bất hủ, bèn mạnh dạn thuật lại đại khái sự việc cùng năm tháng khởi công và kết thúc, đồng thời viết vào đá để truyền lại lâu dài.

Ngày 10 tháng tư nhuận năm Gia Long thứ 18 (1819).

Chú thích:

* Bài viết sử dụng tư liệu từ Dự án Đầu tư Xây dựng Phòng nghiên cứu và sưu tầm di sản Hán Nôm của Trường ĐH KHXH và Nhân văn - ĐH Quốc gia Tp.HCM.

1.Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2005, tr.60-61.

2.Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Giáo dục, 2004, tr.983.

3.Những chữ in đậm là do chúng tôi bổ khuyết vào.

4.Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép “… sai Trấn thủ Định Tường là Bửu Thiện hầu Nguyễn Văn Phong điều 9.679 dân trong trấn, cấp cho mỗi người một tháng là một quan tiền và một phương gạo chia làm ba phiên thay nhau đào mở…” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2005, tr.60-61).

5.Khâm sai Chưởng cơ lãnh Giám thành sứ Nhậm Tín hầu là ai? Hiện vẫn chưa có tài liệu nào khả dĩ cho biết chính xác nhân vật này. Nhưng theo chúng tôi, trong khoảng thời gian đào vét kênh Bảo Định, nhân vật đáng chú ý nhất đó là Nguyễn Đức Sĩ. Theo ghi chép trong Đại Nam thực lục thì vào năm 1814, cho Khâm sai Cai cơ Giám thành Phó sứ là Nguyễn Đức Sĩ làm Chưởng cơ lãnh Giám thành sứ (Đại Nam thực lục, sđd., tr.889). Năm 1816, đắp bảo Châu Đốc. Trước đây vua thấy đạo Châu Đốc là nơi quan trọng ở biên thùy, muốn đặt bảo hiểm để giữ. Trước sai Giám thành sứ là Nguyễn Đức Sĩ đến xem đo hình thế, vẽ bản đồ dâng lên. Đến nay lấy lính thú ở Gia Định và lính cơ ở bốn trấn 3.000 người cấp tiền gạo cho ứng dịch. Cũng trong năm này, họp bàn khơi sông Châu Đốc, sai bọn Lưu Phúc Tường và Nguyễn Đức Sĩ đem đo đường đất (từ mặt sau bảo Châu Đốc đến các xứ Náo Khẩu, Cây Báng) vẽ bản đồ dâng lên. (Đại Nam thực lục, sđd., tr.917). Từ những tư liệu này, so sánh thời gian và chức quan, chúng tôi ngờ rằng Nguyễn Đức Sĩ là người mà bài ký này đề cập đến.

6.Khâm sai Trấn thủ trấn Định Tường Bửu Thiện hầu chính là Nguyễn Văn Phong mà Trịnh Hoài Đức từng nhắc đến (Gia Định thành thông chí, sđd., tr.60-61). Bửu Thiện hầu không phải là Lê Tấn Bửu như có người cho rằng tước hầu thời Nguyễn thường lấy tên rồi đặt thêm vào. Đa số trường hợp là như vậy, nhưng cũng không ít trường hợp là đặt tước hiệu khác với tên. Ví dụ trường hợp của Mẫn Chính hầu Lê Quang Định, Lễ Khê hầu Ngô Thì Vị, … Vậy Nguyễn Văn Phong có tước Bửu Thiện hầu như Trịnh Hoài Đức đã ghi là chính xác không phải bàn thêm.

7.Khâm sai Phó Tổng trấn Thị trung Thống chế thành Gia Định Lý Văn hầu tức Huỳnh Công Lý. Trước đó, ông từng phụ trách việc đào kênh Thông ở Phiên An đến sông Mã Trường (kênh Ruột Ngựa), coi sóc việc lấy dân Phiên An hơn 10000 người để làm việc. (xin xem Đại Nam thực lục, sđd., tr.982).

8.Khâm sai Tổng trấn Chưởng Tiền quân Bình tây tướng quân Đức Quận công tức chỉ Nguyễn Huỳnh Đức. Truyện của Nguyễn Huỳnh Đức chép trong Đại Nam liệt truyện, chính biên sơ tập, quyển 7 (xem Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, Ngô Hữu Tạo, Đỗ Mộng Khương dịch, Cao Huy Giu hiệu đính, Viện sử học Việt Nam - Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 2005, tr.136-143).

9.Khâm sai Hiệp Tổng trấn Lại bộ Thượng thư An Toàn hầu tức chỉ Trịnh Hoài Đức. Truyện của Trịnh Hoài Đức chép trong Đại Nam liệt truyện, chính biên sơ tập, quyển 11 (xem Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd., tr.207-215).

Phụ bản
(Tạp chí Hán Nôm; Số 5(114) 2012; Tr.75-80)

No comments:

Post a Comment