(Tài liệu sưu tầm đặc biệt cho Blog
Mekong-Cuulong của LymHa)
Với HIỆP ĐỊNH VỀ HỢP TÁC
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LƯU VỰC SÔNG Mekong được Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm ký kết ngày 5 tháng 4
năm 1995 cùng với Thái Lan, Lào và Cambodia, hiệp định mở đường cho các nước
thành viên của Ủy Hội Mekong tự do khai thác từ thương nguồn đến những dòng
sông phụ của Mekong tạo dòng chảy về cuối nguồn cho Cửu Long Giang của Việt
nam.
HIỆP ĐỊNH VỀ HỢP TÁC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LƯU VỰC SÔNG
MEKONG
Theo như phúc trình của Ts
Lê Anh Tuấn GIỚI THIỆU HIỆP ĐỊNH MEKONG 1995
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN TRÊN HỆ THỐNG SÔNG MEKONG:
Bối cảnh, tác động và các chính sách thích ứng
Cân Thơ, ngày 22-23 tháng 6 năm 2012
Nguyên tắc và cơ chế tham
gia của các tổ chức xã hội dân sự
Kế hoạch phát triển Thủy Điện tại Cambodia
Tổng cộng 72 đập Thủy điện đã
được thực hiện hoặc đang có kế hoạch.
( Xem bản đồ vị trí, công
suất của từng con đập)
Bản
đồ này chứa tất cả các dữ liệu hiện có sẵn
cho ODC và không toàn diện. Các cảnh quan phát triển liên tục thay đổi và đó
cũng là sự phát triển thêm mà không có số liệu. Trong khi ODC mất mọi nỗ lực để
đảm bảo rằng các chi tiết trong bản đồ này là chính xác và cập nhật, một số các
dự án hoặc các khu vực được đánh dấu trên bản đồ có thể kể từ khi được sửa đổi
hoặc hủy bỏ kể từ khi bản đồ được xuất bản. Hơn nữa, sự phát triển bổ sung có
thể đã được phê duyệt mà chưa bao gồm ở đây.
Ghi chú: Nối với đường link trên. Chọn chấm màu xanh
biểu thị cho một con đập. Dữ kiện cho Đập Thủy Điện sẽ hiện ra.
Cambodia
72 Hydropower: Dams
Cambodia
Danh sách 72 Đập Thủy Điện và công suất
Lưu ý là những đập thuỷ điện có công suất từ 100
Megawatt trở lên đều do các công ty Trung Cộng và Việt Nam xây dựng. Các con đập
này được đánh dấu màu đỏ.
- 193 MW Kamchay Hydro-project BOT by Sinohydro from China ( 2011)
- 120 MW Atay Hydropower Plant, BOT by CYC from China ( 2012)
- 338 MW Lower Russei Chhrum Hydro Power Plant, BOT by
Michelle Corporation from China ( 2013)
- 246 MW Tatay Hydro power plant (2015)
- 400 MW Lower Sesan II & Lower Srepok II Hydro
power plant (2016) by EVN
- 108 MW Stung Chay Areng Hydro power plant (2017) by China Southern Grid (CSG)
- 2600 MW Sambor Hydro power plant (2019) by China Southern Grid (CSG)
Chi
tiết của các con đập thủy điện này:
- 193 MW Kamchay Hydro-project BOT by Sinohydro from China ( 2011)
Cambodia, Kamchay Hydropower Project
Location: Kampot province, about 148 kilometers
southwest of Phnom Penh capital city
Capacity: 193.2MW
Reservoir: 0.68 billion m3
Duration of Works: Sep. 2007-Dec. 2011 (construction)
Dam Type: RCC Gravity Dam, 114 m high
Contract Type: BOT
Financier: SINOHYDRO
Capacity: 193.2MW
Reservoir: 0.68 billion m3
Duration of Works: Sep. 2007-Dec. 2011 (construction)
Dam Type: RCC Gravity Dam, 114 m high
Contract Type: BOT
Financier: SINOHYDRO
- 120 MW Atay Hydropower Plant, BOT by
CYC from China ( 2012)
Stung
Atay hydropower station
Con sông nằm trên đầu nguồn chảy vào Tonle Sap ( Biển
Hồ).
Gián tiếp làm thiếu hụt nước ở Tonle Sap ( Biên Hồ) là
nguồn nước hợp lưu với mekong để tạo thành Cửu Long Giang.
$304,297,817.41 to Cambodia in 2007 | ID: 32120
Project Details:
Description:
- On
February 16th 2007, China Datang Corporation, Cambodia Hydropower
Development Co. Ltd., and Cambodia Power Grid Co., Ltd., which are in
charge of the development and construction of the Stung Atay hydropower
station (#32120) and Phnom Penh-Battambang Power grid project (#32123),
signed several agreements on building Stung Atay hydropower station and
Phnom Penh-Battambang Power grid project. Stung Atay hydropower station has an installed capacity of 120 megawatts, and generating capacity of 465 million kWh.
The project costs 199 million U.S. dollars, of which 55.33 million U.S. dollars to support the construction of transmission cable under the build-operate-transfer (BOT) investment agreement. Datang Cooperation will operate the Stung Atay hydropower station for 30 years. An opening ceremony was held on March 27, 2014. The total investment up to this point is 255 million USD.
- 338 MW Lower Russei Chhrum Hydro Power Plant, BOT by
Michelle Corporation from China ( 2013)
Water impoundment begins at Cambodia's lower Russei Chrum Krom hydropower plant
KOH KONG PROVINCE,
Cambodia
01/03/2014
Development progresses on Cambodia's
338-MW Russei Chrum Krom hydropower project as water is now being impounded at
the complex's lower reservoir, according to the China Gezhouba (Group)
Corporation.
The plant's upper 206 MW station was
put into operation in 2013 and includes a 124-meter-tall concrete-faced
rockfill dam.
Meanwhile, the lower station, which
has a capacity of 132 MW, includes a 58.5-meter-tall roller-compacted concrete
gravity dam.
Russei Chrum Krom's
upper and lower plants are located approximately eight kilometers from each
other.
The lower Russei Chrum dam is
finished now although it may still be a few months until full electrical
connection and commissioning. The hydro project is located approximately 10km
north of Koh Kong city and consists of two dams separated by 8km. The plant’s
upper station (206MW) was put into operation in 2013 and features a 124m
concrete faced rockfill dam. The lower portion of the station (132MW) has a 59m
roller-compacted concrete gravity dam.
As of Dec 13, 2013 the dam had just
started to impound water (fill its reservoir). Construction originally began in
April 2010 by the Chinese state owned Huadian Corp. with an investment of 558
million US dollars. Similar to other Cambodia dam projects, Lower Russei Chrum
is under a 30 year BOT contract.
All other information about the dam
has been quite secretive.
- 246 MW Tatay Hydro power plant (2015)
Cambodian Tatay
Hydropower Ltd highly praises CGGC’s work
Tel :+86-10-59525952 Fax : +86-10-59525951
Address: Tower F, Ocean International Center, 208 Ciyunsi Beili, Chaoyang District, Beijing (100025), P.R. China
Copyright © 2013 China Gezhouba (Group) Corporation. All rights reserved.
Address: Tower F, Ocean International Center, 208 Ciyunsi Beili, Chaoyang District, Beijing (100025), P.R. China
Copyright © 2013 China Gezhouba (Group) Corporation. All rights reserved.
Updated:
2011-06-19
( cggc.cc )
( cggc.cc )
On June 18,
the main dam of CGGC Tatay Hydropower Plant in Cambodia reached the height of
170 meters, setting a new record for similar projects in Southeast Asia. Tatay
Hydropower Co sent a message to CGGC to express its congratulation and praise
for CGGC realizing the flood control goal of the main dam.
Located on
the Tatay River in Koh Kong, Combodia, Tatay Hydropower Plant is a diversion
type power station, with the total capacity of 246,000 kilowatts. Main
construction includes the concrete face rock-fill dam, the three-hole shore
spillway on the left bank of the tributary, the water diversion and power
generation system on the left bank of the main stream, and plants on the banks.
The construction is expected to take 48 months.
Tel :+86-10-59525952 Fax : +86-10-59525951
Address: Tower F, Ocean International Center, 208 Ciyunsi Beili, Chaoyang District, Beijing (100025), P.R. China
Copyright © 2013 China Gezhouba (Group) Corporation. All rights reserved.
Address: Tower F, Ocean International Center, 208 Ciyunsi Beili, Chaoyang District, Beijing (100025), P.R. China
Copyright © 2013 China Gezhouba (Group) Corporation. All rights reserved.
- 400 MW Lower Sesan II & Lower Srepok II Hydro power plant (2016)
by EVN
Lower Sesan 2 (LS2) Hydropower Project
The Lower Sesan 2 (LS2) Hydropower
Project will be located on the Sesan River in Sesan District, Stung Treng
Province, Cambodia, 1.5km downstream from its confluence with the Srepok River
and 25km from where the two rivers meet the Mekong River mainstream. The
project was approved by Cambodia's Council of Ministers in November 2012, despite
its Environmental Impact Assessment (EIA) report failing to meet international
best practice.
Tạm dịch:
Hạ nguồn Sesan 2 (LS2) là dự án thủy điện sẽ được nằm trên sông
SêSan ở huyện Sesan, tỉnh Stung Treng, Campuchia, 1,5km về phía hạ lưu ngã ba
của nó với sông Srepok và 25km từ nơi hai con sông gặp dòng chính sông Mekong.
Dự án đã được phê duyệt bởi Hội đồng Bộ trưởng Campuchia trong tháng 11 năm
2012, mặc dù đánh giá tác động môi trường (EIA) công bố báo cáo không đáp ứng
thông lệ quốc tế tốt nhất.
Xin lưu ý:
Đập Thủy điện này do chính Tổng Công Ty Điện Lực Việt Nam xây dựng.
Damming the Sesan River: Impacts in Cambodia and Vietnam
Date: Tuesday, October 1, 2002
The Lower
Sesan 2 Dam site, located at the confluence of the Sesan and Srepok rivers, two
of the main tributaries of the Mekong. Photos: Giorgio Taraschi
Lower Sesan 2 Dam jeopardizes
lives of millions of Cambodia’s river dwellers
Thu,
20/08/2015 - 17:52
Kongpob
Areerat
Lower Sre Pok 2 Dam
The Lower Se San/Sre Pok 2
scheme is a proposed hydroelectri dam to be located in Stung Treng Province, Cambodia on
the Tonle Sre Pok some 2 kilometres (1.2 mi) upstream of its confluence
with the Se San,
and about 37 kilometres (23 mi) upstream of the confluence of the combined
Sre Pok, Se San and Se Kong rivers with the Mekong mainstream.
Prefeasibility Study, the project
aims to construct and operate an installed capacity 222 megawatts
(298,000 hp) low head hydroelectric generating facility on the Sre Pok
River, generating annually 1,060 GWh (3,800 TJ), run-of-river
dam, reservoir 120 square kilometres (46 sq mi) Main components
include construction of a concrete gravity dam, the powerhouse and generating
equipment, environmental and social mitigation measures, and the 220-kV
transmission line to Stung Treng and onwards to the Vietnamese border to
interconnect with the Vietnamese grid backbone.
The scheme has a much smaller reservoir
area (120 square kilometres (46 sq mi)) than the Lower Se San 2 site
(355 square kilometres (137 sq mi)) and consequently a lesser
environmental impact. The number of inhabitants in the reservoir area for
resettlement is also significantly less. The dam is low in height, but could
still have a significant impact on navigation and fish migration, which is a
particular concern at all sites in this area. Allowances have been made in the
scheme design and cost estimate for mitigation of these impacts, so far as is
possible.
Tạm dịch:
Hai
con đập Hạ nguồn Sê San / Sre Pok 2
là những đập thủy điện đề xuất được đặt tại tỉnh Stung
Treng, Campuchia trên Tonle Sre Pok khoảng 2 km (1,2 mi) ở thượng nguồn của hợp
lưu của nó với Sê San, và khoảng 37 km (23 mi) ở thượng nguồn của lưu của Sre
Pok, Sê San và sông Sê Kông kết hợp với dòng chính Mekong.
Những nghiên cứu, dự án nhằm xây dựng và vận hành một công suất lắp đặt 222 MW (298.000 mã lực) hạ nguồn thủy điện cơ sở sản xuất trên sông Sre Pok, tạo ra hàng năm 1.060 GWh (3.800 TJ), run-of-river đập, hồ chứa 120 cây số vuông (46 sq mi) các thành phần chính bao gồm xây dựng một con đập bê tông trọng lực, các nhà máy điện và thiết bị tạo ra, các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường và xã hội, và các đường dây truyền tải 220 kV đến Stung Treng và trở đi đến biên giới Việt để kết nối với các trục lưới Việt .
Đề án có diện tích nhỏ hơn nhiều hồ chứa (120 cây số vuông (46 sq mi) so với Hạ Sê San 2 trang web (355 cây số vuông (137 sq mi)) và do đó tác động môi trường thấp hơn. Số lượng dân cư trong khu vực hồ chứa để tái định cư cũng giảm đi đáng kể. Đập thấp chiều cao, nhưng vẫn có thể có một tác động đáng kể trên menu và cá di cư, đó là một mối quan tâm đặc biệt tại tất cả các trang web trong lĩnh vực này. Các khoản phụ cấp đã được thực hiện trong việc thiết kế chương trình và dự toán chi phí cho việc giảm thiểu những tác động này, cho đến nay như là có thể.
Per MIME report to RPTCC-4 meeting
(Yangon, Sept. 2005), commissioning of 222 MW Lower Sre Pok HPP will be in
2017.
Lower Sre Pok 2 Hydropower Dam
Country:
Cambodia
Location:
Tonle Sre Pok
Status:
Proposed
Opening date:
2018
Construction
cost: US$338.9 million
Owner: EVN
Dam and Spillways
Type of dam:
Run-of-river
Impounds: Sre
Pok River
Height: 25m
(82 ft.)
Reservoir
Total
Capacity: 0.42 km3 (340,000 acre ft.)
Catchment
area: 30,620 km2 (11,820 sq mi)
Surface area:
120 km2 (46 sq mi)
Power station
Installed
capacity: 222 MW (298, 000 hp) (max. planned)
Annual
generation: 1,174 GWh (4,230 TJ)
- 108 MW Stung Chay Areng Hydro power plant (2017) by China Southern Grid (CSG)
Stung Cheay Areng hydroelectric dam in Koh Kong, Cambodia
Indigenous land for dubious
dams? Activists, monks and villagers from Areng Valley fight against the
construction of the Stung Cheay Areng hydroelectric dam.
The
Areng valley in the Cardamom Mountains has become a contested area due to
hydroelectric dam proposals that would entail massive negative impacts on
people and the environment. The area is inhabited by the Chong people, an
ethnic minority of the traditional Khmer people (Khmer Daeum), who are said to
live in the forests for more than 600 years [1]. The Cardamom Mountains are
also a well-known biodiversity hotspot, providing the world largest habitat for
Siamese crocodiles and other 31 endangered species [1;2].
Name: Stung
Cheay Areng Hydroelectric dam in Koh Kong, Cambodia
Country:
Cambodia
Province: Koh
Kong Province
Site: Thmor
Bang District (Cardamom Mountains)
- 2600 MW Sambor Hydro power plant (2019) by China Southern Grid (CSG)
Sambor Dam Explained
The Sambor Dam is a proposed dam
and hydroelectric
power
station on the Mekong River
south of Sambor village in Prek Kampi District, Kratie Province, Cambodia.
If built, it would be the lowest dam of the Mekong's mainstream dams, and
largest in Cambodia.
Tạm dịch:
Đập thủy điện Sambor là một con đập được đề xuất và
nhà máy thủy điện trên sông Mekong phía nam của làng Sambor ở quận Prek Kampi,
tỉnh Kratie, Campuchia. Nếu được xây dựng, nó sẽ đập thấp nhất của đập trên
dòng chính của sông Mekong, và lớn nhất tại Campuchia.
Country: Cambodia
Location: Prek Kampi District,
Kratie Province
Status: P
Opening: 2020 (estimaged)
Cost: US$4.947 billion
Owner: China Southern Power
Grid Company
Dam Type: concrete gravity - earth core rockfill
Dam Height: 56m (184feet)
Dam Length: 18002m (59,062feet)
Spillway Capacity: 17668m3/s
Res Name: Sambor Hydropower Dam
Reservoir
Res Capacity Total: 3.794km3
Res Surface: 620km2
Plant Hydraulic Head: 16.5m (54.1feet)
Plant Turbines: 40 x 65MW
Plant Capacity: 2600MW (max. Planned)
Plant Annual Gen: 11740GWh
Những dòng sông có nguồn chảy xuất phát từ Tây Nguyện , được khai thác xây dựng một
cách tận tình của nước “Bạn Anh Em – Trung Cộng và cả chính Việt Nam”.
Sông
Sekong:
- Sekong là một dòng sông quốc tế,Se (xế)
trong tiếng Lào có nghĩa là sông và Kon mới là tên gọi của dòng sông, tuy nhiên
tên quốc tế của sông này vẫn là Sekong hoặc Sekon và ở Việt Nam dùng tên Xê
Kông. Nó là một chi lưu của sông Mê Kông và nhập vào sông này ở gần thị xã
Stung Treng.
- Sekong bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn,
đoạn ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa
Thiên - Huế. Ở đấy, nó được gọi là sông A
Sáp. Từ tháng 6 năm 2007, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu xây dựng một công trình
thủy điện trên A Sáp.
- Ở trên lãnh thổ Lào, Sekong chảy qua các
tỉnh Saravane, Sekong và Attapeu. Các thị xã của Lào nằm bên Sekong là Banbak,
Lamam và Attapeu. Tại Lào, Sekong tiếp nhận nước từ một chi lưu quan trọng là
Sekaman. Chính phủ Lào cũng cho xây dựng một số công trình thủy điện và thủy lợi
trên Sekaman.
- Ở trên lãnh thổ Campuchia, Sekong chảy
hoàn toàn trong địa phận tỉnh Stung Treng, hội lưu với sông Serepôk và sông Mê
Kông tại ngã ba sông rộng lớn gần thị xã Stung Treng. Ngoài Stung Treng, một thị
xã khác của Campuchia cũng nằm bên sông Sekong là Siempang.
- Toàn bộ lưu vực của Sekong rộng 29.750
km² trong đó phần trên lãnh thổ Việt Nam là 750 km² (quanh sông A Sáp và một
chi lưu nhỏ của Sekong bắt nguồn từ Kontum), phần trên lãnh thổ Lào là 23.000
km², trên lãnh thổ Campuchia là 5.400 km².
Sông
Sê San:
- Sông Sê San là chi lưu lớn của sông
Mekong bắt nguồn từ Bắc và Trung Tây Nguyên rồi chảy sang lãnh thổ Campuchia và
nhập vào sông Serepok gần Stung Treng.
- Sông Sê San có lưu vực rộng 17.000 km².
Trên lãnh thổ Việt Nam, sông Sê San nằm trên hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum với tổng
chiều dài sông chính là 237 km, diện tích lưu vực là 11.450 km². Sông Sê San có
hai chi lưu là Krong Pô Kô ở phía hữu ngạn và Dak Bla phía tả ngạn. Trên lãnh
thổ Campuchia, sông chảy qua tỉnh Ratanakiri và Stung Treng.
- Phần phía thượng lưu của sông nằm trong
vùng đồi núi thấp, độ dốc địa hình trung bình. Trên phía Đông-Bắc của phần thượng
lưu, sông tiếp giáp với vùng phân thuỷ giữa Đông và Tây của dải Trường Sơn. Phần
phía hạ lưu, thung lũng sông nằm trong các hẽm sâu của các dãy núi cao, độ dốc
địa hình khá lớn.
Sông tại Serepôk (sông Đăk Krông):
- Serepôk (hay Srêpôk), tên gọi trong tiếng
Campuchia là Tongle Xrepok, là dòng sông lớn nhất ở Đắk Lắk. Đây là một phụ lưu
quan trọng của sông Mekong. Đoạn chảy trên địa phận Đăk Lăk được gọi là sông
Đăk Krông. Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krông Ana và sông Krông Nô tới chỗ hợp
lưu với Sông Mê Kông dài 406 km, trong đó đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài
khoảng 126 km, đoạn chảy qua Campuchia dài khoảng 281 km
- Sông được hình thành hoàn toàn trên địa
phận Đăk Lăk và được hợp thành từ hai dòng sông nhỏ là sông Krông Ana và sông
Krông Nô (sông Mẹ và sông Bố). Sông chảy qua các huyện Krông Ana, Buôn Đôn và
Ea Súp của Đăk Lăk. Vừa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, Serepôk được bổ sung thêm
nguồn chảy dồi dào từ dòng sông Ea H'leo. Sông Serepôk nhập vào sông Mekong sát
Stung Treng, tỉnh Stung Treng. Trước khi nhập vào, nó còn nhận nước từ sông
Sesan và sông Sekong (hai sông này cũng có nguồn trên lãnh thổ Việt Nam).
- Sông Serepôk có nhiều thác ghềnh hùng vĩ
còn tương đối hoang sơ như: thác Trinh Nữ, thác Đray Sáp, thác Đray Nu, thác
Đray H'linh, thác Gia Long, thác Bảy Nhánh... là những điểm du lịch hấp dẫn
khách du lịch.
- Dòng sông này có lưu lượng nước rất lớn,
hệ sinh thái của sông cũng rất phong phú và đa dạng, tạo nên một nguồn lợi to lớn
về thủy sản và thủy điện. Ở đây có các loài cá đặc sản như cá lăng và đặc biệt
là cá mõm trâu, (loài cá nhiều người vẫn đinh ninh là cá Anh Vũ tiến
vua).Serepôk là nguồn nước quan trọng của Đắk Lắk.
- Cuối thế kỷ 19, khi đường bộ còn chưa
phát triển, sông Serepôk là một trong những đường giao thương quan trọng trong
vùng. Người Lào và Cao Miên thường đi thuyền ngược dòng sông để đến buôn bán,
trao đổi hàng hóa với vùng cao nguyên Đắk Lắk của Việt Nam. Bản Đôn ngay từ
ngày ấy đã trở thành một thương cảng sầm uất; nơi đây lúc ấy có thể ví như Hội
An của Đà Nẵng hay Phố Hiến - Hưng Yên.Người Lào khi đến buôn bán đã định cư ở
đây rất đông, góp phần xây dựng lên một Bản Đôn nổi tiếng với những bản sắc văn
hóa đặc trưng như ngày nay.
Nguyên tắc "mạnh ai nấy làm" trong lưu
vực Mekong
Việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia bắt nguồn từ nguyên tắc "mạnh ai nấy làm" của Việt Nam trong việc thành lập MRC vào năm 1995 để thay thế cho MC 1957. Vì muốn được "độc lập, tự do" để "làm thủy lợi" ở ÐBSCL (sử dụng tất cả lưu lượng kiệt của sông Mekong để trồng lúa trong mùa khô!), Việt Nam đã loại bỏ các nguyên tắc sử dụng nước trong dòng chánh ở hạ lưu sông Mekong của MC 1957, điều mà Thái Lan mong muốn để tiến hành các dự án thủy nông và thủy điện trong lưu vực sông Mekong như dự án thủy điện Pak Mun và thủy nông Kong-Chi-Mun. Nhận thấy hậu quả tai hại của nó, Việt Nam "muốn" thương thảo (bằng cách phản đối) nhưng phải "nhượng bộ" Thái Lan để "giúp" Cambodia vì Thái Lan xem việc loại bỏ các nguyên tắc của MC 1957 là điều kiện tiên quyết (preconditions) để cứu xét yêu cầu tái gia nhập MC của Cambodia vào tháng 6 năm 1991 [30].
Cuối cùng, vào ngày 5 tháng 4 năm 1995, Cambodia, Lào, Thái Lan, và Việt Nam ký kết Thỏa ước Hợp tác Phát triển Khả chấp Lưu vực sông Mekong (Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of the Mekong River Basin) tại Chiang Rai, Thái lan để thành lập MRC. Thỏa ước 1995 không có một điều khoản ràng buộc pháp lý nào về việc sử dụng nước sông Mekong. Nói cách khác, Thỏa ước 1995 dành quyền quyết định cho "mỗi quốc gia thành viên được tự do thực hiện kế hoạch cho tương lai của mình (each member nation is free to carry out whatever plan or plans it has for its future)" [30].
Việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia bắt nguồn từ nguyên tắc "mạnh ai nấy làm" của Việt Nam trong việc thành lập MRC vào năm 1995 để thay thế cho MC 1957. Vì muốn được "độc lập, tự do" để "làm thủy lợi" ở ÐBSCL (sử dụng tất cả lưu lượng kiệt của sông Mekong để trồng lúa trong mùa khô!), Việt Nam đã loại bỏ các nguyên tắc sử dụng nước trong dòng chánh ở hạ lưu sông Mekong của MC 1957, điều mà Thái Lan mong muốn để tiến hành các dự án thủy nông và thủy điện trong lưu vực sông Mekong như dự án thủy điện Pak Mun và thủy nông Kong-Chi-Mun. Nhận thấy hậu quả tai hại của nó, Việt Nam "muốn" thương thảo (bằng cách phản đối) nhưng phải "nhượng bộ" Thái Lan để "giúp" Cambodia vì Thái Lan xem việc loại bỏ các nguyên tắc của MC 1957 là điều kiện tiên quyết (preconditions) để cứu xét yêu cầu tái gia nhập MC của Cambodia vào tháng 6 năm 1991 [30].
Cuối cùng, vào ngày 5 tháng 4 năm 1995, Cambodia, Lào, Thái Lan, và Việt Nam ký kết Thỏa ước Hợp tác Phát triển Khả chấp Lưu vực sông Mekong (Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of the Mekong River Basin) tại Chiang Rai, Thái lan để thành lập MRC. Thỏa ước 1995 không có một điều khoản ràng buộc pháp lý nào về việc sử dụng nước sông Mekong. Nói cách khác, Thỏa ước 1995 dành quyền quyết định cho "mỗi quốc gia thành viên được tự do thực hiện kế hoạch cho tương lai của mình (each member nation is free to carry out whatever plan or plans it has for its future)" [30].
Trích từ bài: Tình trạng thiếu
nước ở đồng bằng sông Cửu Long . Nguyễn Minh Quang, P.E
Tình trạng thiếu nước ở đồng bằng sông Cửu Long
Nguyễn Minh Quang, P.E
Như vậy chính Hiệp Định Mekong 1995 là
tác nhân chính của việc phát triển ngăn chận, tích trữ nước …từ các quốc
gia thượng nguồn sông Cửu Long mà không một thành viên nào có quyển ngăn cản
hay phủ quyết.
Nhà cầm quyền Việt Nam lại cấu kết với Trung Cộng và cùng là đồng lõa với
quốc gia láng giềng Cambodia trong việc khai thác các đập thủy điện tại quốc
gia này và Cambodia lại là quốc gia đầu
nguồn tiếp cận với Việt Nam.
Trong khi đó, Cambodia để xây dựng
các đập thủy điện, các hồ chứa được xây dựng như sau:
Các
Đập chứa nước
Lower
Se San 2. Length: 98 m, Width: 60 m 35500 Hectare
Russie
Chrum I. 1481 Hec
Russie
Chrum II. 155 Hec
Sambor . Dam
and embankment: 18 km, Height: 56 m, Head: 33 m. 62000
Hec
Sre
Pok 2. Leghth: 128 m, Width: 62
m. 12000
Stung
Atai. 4179 Hec
Stung
Sen Lower Command. 33800 Hec
Stung
Sen Upper Command. 86000 Hec
Stung
Treng. Dam and embankment: 10
km, Height: 20 m, Head: 15 m. 21100
Upper
Se San2. Length: 72 m, Width: 48 m. 40300 Hec
Upper
Stung Sen Reservoir. 6900 Hec
Nhìn vào các thông số cho những đập chứa nước làm thủy
điện, chắc không ai không khỏi chạnh lòng ..vì ngày hôm nay ( 23 tháng 5 năm
2016) trong khi ghi chép tài liệu này, mực
nước đo được tại Prek Kdam (Tonle Sap) vẫn cao hơn mực nước tối thiệu là 2tấc1
phân…và mực nước đo được tại Tân Châu Việt Nam vẫn thấp hơn mực nước tối thiểu là -.12m và mực nước tại Châu Đốc là -.17m thấp
hơn mực nước tối thiểu.
Nước mặn vẫn tiếp tục xâm nhập vào đồng bằng sông Cửu
Long và nhà cầm quyển Việt Nam chưa ra được một chính sách nào để có thể tạm thời
“cứu được ruộng đồng, thủy sản và người dân” đang sinh sống nơi đây, ngoại trừ
đang “xem xét” tại sao nước Sông Hậu lại trong xanh…
http://thanhnien.vn/doi-song/nuoc-song-hau-bong-xanh-nhu-nuoc-bien-hiem-hoa-tan-ra-dbscl-703630.html
Nước sông Hậu bỗng xanh... như nước biển: Hiểm họa tan rã ĐBSCL
03:38
PM - 17/05/2016 Thanh Niên Online
Chánh sách phát triển thiển cận
Sau tháng 4 năm 1975, đoàn Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL (ĐQHCL), gồm một số "chuyên viên thủy lợi thượng thặng" của miền Bắc, đã được điều động vào Nam để khảo sát, nghiên cứu và thiết lập kế hoạch phát triển ĐBSCL. Nhiệm vụ của ĐQHCL là "thực hiện thắng lợi chính trị to lớn" của Đảng giao phó là "… biến tất cả đất đai có thể trồng trọt còn lại của ĐBSCL thành ruộng lúa có thể trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt chỉ tiêu 20 triệu tấn/năm trong kế hoạch ngũ niên 1975-1980" [29]. Lúc bấy giờ, chánh sách nầy có vẻ hợp lý để "khắc phục tình trạng ăn độn khoai, sắn, bo bo… triền miên" ở miền Bắc; nhưng Đảng quên rằng, thay vì trồng lúa, đất đai ở ĐBSCL còn có thể dùng để sản xuất nhiều nông phẩm khác có giá trị hơn để "ăn độn" như gà, vịt, cá, tôm… Thế là "…ta đấp đê, xây đập hay cống ngăn mặn dọc theo duyên hải và dọc theo sông ở hạ lưu thường bị nước mặn xâm nhập; dọc theo hai bờ sông Cửu Long, nơi nào nước lụt chảy tràn bờ, ta đắp đê ngăn lũ, xây các công trình lấy nước; nơi nào không có nước ngọt để thâm canh tăng vụ, ta đào kênh dẫn nước sông Cửu Long vào, nếu nước không tự chảy, ta xây dựng trạm bơm điện; nơi nào bị úng, ta thực hiện các công trình tiêu úng, chống úng," [29] (Hình 10) với giả thiết là lúc nào cũng có sẵn nước ngọt trong sông!? Do đó, diện tích trồng lúa ở ĐBSCL đã tăng lên đến 1.963.000 ha (khoảng 49% diện tích của ĐBSCL) với 740.000 ha dẫn tưới trong mùa khô và 1.479.000 ha canh tác 3 vụ một năm [19].
Sau tháng 4 năm 1975, đoàn Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL (ĐQHCL), gồm một số "chuyên viên thủy lợi thượng thặng" của miền Bắc, đã được điều động vào Nam để khảo sát, nghiên cứu và thiết lập kế hoạch phát triển ĐBSCL. Nhiệm vụ của ĐQHCL là "thực hiện thắng lợi chính trị to lớn" của Đảng giao phó là "… biến tất cả đất đai có thể trồng trọt còn lại của ĐBSCL thành ruộng lúa có thể trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt chỉ tiêu 20 triệu tấn/năm trong kế hoạch ngũ niên 1975-1980" [29]. Lúc bấy giờ, chánh sách nầy có vẻ hợp lý để "khắc phục tình trạng ăn độn khoai, sắn, bo bo… triền miên" ở miền Bắc; nhưng Đảng quên rằng, thay vì trồng lúa, đất đai ở ĐBSCL còn có thể dùng để sản xuất nhiều nông phẩm khác có giá trị hơn để "ăn độn" như gà, vịt, cá, tôm… Thế là "…ta đấp đê, xây đập hay cống ngăn mặn dọc theo duyên hải và dọc theo sông ở hạ lưu thường bị nước mặn xâm nhập; dọc theo hai bờ sông Cửu Long, nơi nào nước lụt chảy tràn bờ, ta đắp đê ngăn lũ, xây các công trình lấy nước; nơi nào không có nước ngọt để thâm canh tăng vụ, ta đào kênh dẫn nước sông Cửu Long vào, nếu nước không tự chảy, ta xây dựng trạm bơm điện; nơi nào bị úng, ta thực hiện các công trình tiêu úng, chống úng," [29] (Hình 10) với giả thiết là lúc nào cũng có sẵn nước ngọt trong sông!? Do đó, diện tích trồng lúa ở ĐBSCL đã tăng lên đến 1.963.000 ha (khoảng 49% diện tích của ĐBSCL) với 740.000 ha dẫn tưới trong mùa khô và 1.479.000 ha canh tác 3 vụ một năm [19].
(Theo tài liệu của Nguyễn Minh Quang)
Theo như tài liệu của Ông
Nguyễn Quang Minh ngay từ năm 1975, nhà cầm quyền Việt Nam đã thiển cận trong
“quy hoạch” đồng bằng sông Cửu Long và 20 năm sau lại một lần nữa ký vào Hiệp
định Mekong 1995 mở đường và cùng tiếp tay với ngoại bang xâu xé chính đất nước
mình.
Biện pháp đề ra là giải thể
Đảng Cộng Sản Việt nam và thiết lập một nhà nước thực sự Độc Lập, Tự Do và Dân
Chủ. Từ đó các Hiệp Định phi lý phải được hủy bỏ và các quốc gia từ thượng nguồn
và hạ nguồn Mekong và các con sông phụ có quyền phủ quyết và phải được sự đồng
thuận khi thực hiện bất cứ một khai thác nào từ dòng sông Mekong.
LymHa
Tháng 5 năm 2016
No comments:
Post a Comment